Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2016

Tạp chí CS, báo QĐND, Tạp chí QPTD và blog Phạm Viết Đào bàn về đối tác tác chiến lược của Việt Nam

CHUYÊN ĐỀ NÀY ĐƯỢC BLOG PHẠM VIẾT ĐÀO KHƠI MỞ TỪ CUỐI NĂM 2012; SAU ĐÓ

MỘT SỐ TỜ BÁO, TẠP CHÍ KHÁC CÙNG THAM GIA BÀN LUẬN:

-Đối tượng không chỉ là thế lực có âm mưu, hành động gây chiến tranh, bạo loạn lật đổ chế độ, mà còn là những kẻ xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc, bằng phương thức vũ trang và phi vũ trang, cả từ bên ngoài và bên trong. Ai là đối tượng không phải tự chúng ta áp đặt mà do chính âm mưu và hành động của họ. Quan điểm chỉ rõ sự đan xen, chuyển hóa phức tạp giữa đối tác và đối tượng, ngay trong từng đối tượng vẫn có mặt đối tác, cần tranh thủ, hợp tác; sự chuyển hóa giữa đối tượng, đối tác phụ thuộc rất lớn vào phương thức ứng xử của chúng ta.

( QĐND-12/2/2014 )

-Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”(5)

( TCCS-31/1/2015 )

Đại tá về hưu:...Nếu như tìm theo lối giáo điều, sách vở: Kẻ thù của chúng ta là nước A,B,C nào đó như trong các văn kiện hay nhắc, thế lực thù địch về tư tưởng hay chính trị thậm chí nói toẹt ra Mỹ và Trung Quốc là kẻ thù chiến lược của ta, điều đó không sai nhưng không đủ, chưa chuẩn xác...
Nếu vấn đề dân tộc ta không giải quyết tốt, vấn đề ruộng đất của nông dân chúng ta không giải quyết tốt; để sự suy sụp về đạo đức, văn hóa xã hội lan tràn, đó vừa là lực cản của chúng ta, đó là kẻ thù của chúng ta chứ còn đâu nữa! Việc gì Trung Quốc đem quân đánh ta, Trung Quốc bây giờ chắc không ngu vậy đâu…
Còn các bài tập do Bộ Tổng tham mưu soạn: Trung Quốc hay dùng sơn cước đột nhập, gài mìn kiểu này kiểu kia cho nên ta phải đề phòng để khỏi bị đánh bất ngờ; Đó chỉ là những bài học mang tính chất kỹ thuật...
Hiện nay đất nước, lãnh đạo, nhân dân đang bị chia rẽ, đang bị phân tâm một cách sâu sắc và nguy hiểm; đó chính là nguyên nhân đẩy chúng ta vào vòng nô lệ của kẻ khác: nô lệ về kinh tế, nô lệ về chính trị, nô lệ về văn hóa và cuối cùng thì...
Tôi cho rằng: Kẻ thù của chúng ta, đối tác tác chiến chiến lược của chúng ta phải tìm ngay trong chúng ta; có quá nhiều nguyên nhân dẫn tới tình cảnh này; điều này tôi nói thế là anh hiểu...

( Blog Phạm Viết Đào-đưa lên mạng cuối năm 2012, blog này đã bị đánh sập...)

-Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) cũng chỉ rõ phương châm BVTQ là: Đối với nội bộ, lấy việc giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa là chính đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật. Đối với các tranh chấp, bất đồng với các nước liên quan thì kiên trì giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đảng ta cũng chỉ rõ phương thức đấu tranh là kết hợp đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, nhưng lấy đấu tranh phi vũ trang là chủ yếu nhằm chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; khắc phục tình trạng sơ hở, mất cảnh giác. Phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả các nguy cơ xung đột, chiến tranh biên giới, biển, đảo, chiến tranh mạng; không để xảy ra bạo loạn, khủng bố, hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước.
( TCQPTD-10/6/2014 )...


Một số vấn đề về đối tác, đối tượng trong tình hình mới theo quan điểm của Đảng ta

 12/02/2014 22:06

QĐND - Đối tác, đối tượng là vấn đề cơ bản, quan trọng trong chính sách, chiến lược và phức tạp, nhạy cảm trong quan hệ quốc tế của mọi quốc gia. Xây dựng quan hệ và xử lý mối quan hệ đối tác, đối tượng có tác động rất lớn đến sự ổn định, phát triển bền vững trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước...


QĐND - Đối tác, đối tượng là vấn đề cơ bản, quan trọng trong chính sách, chiến lược và phức tạp, nhạy cảm trong quan hệ quốc tế của mọi quốc gia. Xây dựng quan hệ và xử lý mối quan hệ đối tác, đối tượng có tác động rất lớn đến sự ổn định, phát triển bền vững trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Nhận thức về đối tác, đối tượng không bất biến. Khi thế giới tồn tại hai phe đối kháng, “chiến tranh lạnh”, quan hệ giữa các quốc gia được chia thành: Ta, bạn, thù. Cơ sở chủ yếu của sự phân chia đó là ý thức hệ, giai cấp. Có nước đưa ra “tiêu chí” phân loại quan hệ rất máy móc: Bạn của thù là thù, thù của thù là bạn! Không ít nước công khai xác định nước khác là kẻ thù cơ bản, lâu dài. Cùng với những biến động to lớn, bất ngờ của thế giới, quan hệ giữa các nước đan xen, chuyển hóa rất phức tạp. Xuất hiện những quan niệm dẫn đến sự thay đổi lớn trong quan hệ giữa các nước. Năm 1859, Henry Temple Palmerston, một chính khách Anh với hơn 10 năm làm Bộ trưởng Ngoại giao, 6 năm làm Thủ tướng, người bảo vệ thành công lợi ích quốc gia trong các cuộc xung đột kéo dài giữa Anh với Pháp và nước Nga Sa Hoàng, đã rút ra kết luận rất quan trọng: Giữa các nước không có đồng minh vĩnh viễn và không có kẻ thù truyền kiếp, chỉ có quyền lợi dân tộc là lâu dài mà thôi. Trong xu thế toàn cầu hóa, sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng tăng, sự bền vững của quốc gia, sự tồn tại của thể chế chính trị bị tác động ngày càng nhiều bởi yếu tố bên trong, thì việc bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc càng được đề cao, được xem là mục tiêu cơ bản, lâu dài. Lãnh đạo quốc gia không còn tự bó hẹp quan hệ chỉ với đồng minh mà mở rộng quan hệ với các nước khác theo lợi ích của chính mình. Nếu xảy ra tranh chấp giữa đồng minh với một nước khác, thái độ của nước lớn trước hết là xuất phát từ chính lợi ích của mình. Hành động của Mỹ trong vụ tranh chấp chủ quyền đảo Scarbrough (Hoàng Nham) giữa Trung Quốc và Phi-lip-pin; của Nga, Trung Quốc trong xung đột ở Xy-ri... là những minh chứng cho điều đó. Khi thể chế chính trị, chính quyền thay đổi thì quan hệ đồng minh cũng dễ thay đổi theo... Cùng với việc đề cao lợi ích quốc gia, tính thực dụng trong quan hệ giữa các nước cũng gia tăng, kiểu như "mèo trắng, mèo đen đều tốt, miễn là bắt được chuột"! Thực tiễn ấy đã thuyết phục nhiều quốc gia. Họ xử lý vấn đề đối tác, đối tượng linh hoạt, nhằm tạo môi trường thuận lợi để phát triển, bảo vệ đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc. Các nước ưu tiên lựa chọn những cường quốc cùng chung lợi ích chiến lược để xây dựng quan hệ đối tác chiến lược nhằm tìm kiếm sự ủng hộ, chỗ dựa cho xây dựng và bảo vệ đất nước. Quan hệ đối tác có cấp độ khác nhau, tùy theo lợi ích quốc gia, dân tộc, mục tiêu bảo vệ đất nước và chiến lược, sách lược trong từng giai đoạn. Có không ít quan hệ đối tác, thậm chí là đối tác chiến lược giữa những nước có thể chế chính trị khác nhau; hoặc giữa những nước đang có tranh chấp chủ quyền với nhau. Xu hướng chung trên thế giới là không công khai chỉ rõ ai là đối tượng. Tuy nhiên, khi có mối đe dọa trực tiếp, các nước cũng xác định đối tượng đấu tranh cụ thể.
Vị trí địa - chiến lược và những lý do khác làm cho Việt Nam không ít lần phải xử lý quan hệ đối tác, đối tượng trong những hoàn cảnh không dễ dàng. Chúng ta cũng từng bị ảnh hưởng, quan niệm cứng nhắc về đối tác, đối tượng. Từ truyền thống dân tộc, kinh nghiệm của thế giới và qua trải nghiệm của chính mình, nhận thức của Đảng ta về đối tác, đối tượng có sự phát triển, để từ đó đưa ra những chủ trương sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam, xu thế của thế giới. Cương lĩnh năm 1991 đã xác định những vấn đề rất cơ bản, có tính định hướng về đối tác, đối tượng. Theo Cương lĩnh, những lực lượng xâm phạm độc lập dân tộc, cản trở việc thực hiện 6 mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội là đối tượng đấu tranh của nhân dân ta; đối tượng trực tiếp, trước mắt là "chủ nghĩa thực dân mới và các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội"; đối tượng tác chiến và đấu tranh của quân và dân ta là: "chống lại sự can thiệp và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc"(1). Nghị quyết Đại hội Đảng VII, VIII tiếp tục cụ thể hóa, bổ sung, phát triển quan điểm về đối tác, đối tượng. Định hướng như vậy là đúng đắn nhưng chưa thật bao quát được sự phức tạp trong quan hệ quốc tế trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa. Với tư duy mới, Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc đã khái quát thành nguyên tắc, thể hiện cách nhìn nhận mới và thống nhất về đối tác, đối tượng. Sau khi Nghị quyết ra đời, nguyên tắc xác định và xử lý quan hệ đối tác, đối tượng được kiểm nghiệm qua thực tiễn và khẳng định tính đúng đắn. Do đó, Nghị quyết số 28-NQ/TW của BCH Trung ương khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã đưa nguyên tắc trên thành quan điểm: Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh"(2).
Quan điểm của Đảng vừa có tính khái quát cao, vừa đầy đủ, làm cơ sở để nhận thức và xử lý quan hệ đối tác, đối tượng một cách bình tĩnh, sáng suốt. Trong đó, căn cứ xác định đối tác được đặt lên trước là phù hợp với quan điểm của Đảng lấy đối tác làm cơ sở để thiết lập quan hệ quốc tế: "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế"(3). Đối tượng không chỉ là thế lực có âm mưu, hành động gây chiến tranh, bạo loạn lật đổ chế độ, mà còn là những kẻ xâm phạm độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia, dân tộc, bằng phương thức vũ trang và phi vũ trang, cả từ bên ngoài và bên trong. Ai là đối tượng không phải tự chúng ta áp đặt mà do chính âm mưu và hành động của họ. Quan điểm chỉ rõ sự đan xen, chuyển hóa phức tạp giữa đối tác và đối tượng, ngay trong từng đối tượng vẫn có mặt đối tác, cần tranh thủ, hợp tác; sự chuyển hóa giữa đối tượng, đối tác phụ thuộc rất lớn vào phương thức ứng xử của chúng ta. Quan điểm chỉ đạo phải triệt để phân hóa, cô lập cao độ với từng bộ phận của đối tượng. Nghị quyết nhấn mạnh, trong khi tăng cường quan hệ đối tác, vẫn phải chú ý mặt đối tượng và phải đấu tranh với nó. Quan điểm của Đảng đã quán triệt tư tưởng đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia, dân tộc với mục tiêu xuyên suốt là giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chế độ chính trị XHCN, kết hợp chặt chẽ với tạo dựng môi trường thuận lợi nhất cho xây dựng đất nước. Nhận thức và xử lý quan hệ đối tác, đối tượng theo quan điểm của Đảng không phải là sách lược nhất thời mà là chủ trương cơ bản, nhất quán, lâu dài. Lịch sử dân tộc cũng như thực tiễn hoạt động của Đảng đã chứng tỏ điều đó và được thế giới thừa nhận.
Quan điểm về đối tác, đối tượng là một trong những điểm nổi bật, có sự đột phá trong tư duy mới của Đảng về bảo vệ Tổ quốc; khắc phục được hạn chế của tư duy cũ, không cứng nhắc, làm cản trở hội nhập, hợp tác, không mơ hồ, mất cảnh giác; vừa giữ nguyên tắc, vừa đủ linh hoạt, được xem như cẩm nang “dĩ bất biến” để ứng với “vạn biến” trong quan hệ, xử lý các tình huống chiến lược. Quan điểm của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là cơ sở chính trị trực tiếp cho đường lối, chính sách đối nội, đối ngoại. Thành công trong phát triển quan hệ đối ngoại, không để xảy ra xung đột, đối đầu trong những năm qua có sự góp phần đáng kể của quan điểm nêu trên. Chưa bao giờ chúng ta có được nhiều bạn bè, đối tác như ngày nay. Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với hơn 20 nước, trong đó có tất cả các nước lớn, các nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các nước láng giềng, bạn bè truyền thống. Trong khi tăng cường quan hệ đối tác, chúng ta vẫn kiên trì đấu tranh, giải quyết thỏa đáng các vấn đề nảy sinh, thu hẹp những khác biệt trong tranh chấp chủ quyền Biển Đông, không để mâu thuẫn, tranh chấp cản trở các quan hệ khác. Chúng ta đã tạo được sự đan xen lợi ích chiến lược, giữ vững và củng cố môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng có giá trị to lớn về lý luận và thực tiễn. Nhưng cũng có ý kiến cần định hướng cụ thể hơn về đối tác, đối tượng để tránh bất cập, lúng túng, hoặc lẫn lộn giữa chiến lược và sách lược trong xử lý các trường hợp cụ thể. Để giải quyết điều đó, quan trọng nhất là phải quán triệt sâu sắc và vận dụng linh hoạt, sáng tạo quan điểm của Đảng. Xử lý mối quan hệ đối tác, đối tượng phải xem xét trên quan điểm tổng thể, lấy lợi ích cơ bản và lâu dài của quốc gia, dân tộc làm nền tảng; không vì lợi ích cục bộ, trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích chung. Cần tính đến sự tác động qua lại lẫn nhau giữa chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh và đối ngoại; giữa lợi ích quốc gia và đoàn kết quốc tế. Đặc biệt coi trọng công tác nghiên cứu dự báo chiến lược, kịp thời phát hiện cơ hội để khai thác, nhận rõ thách thức để hóa giải, không để rơi vào tình thế bị động, bất ngờ...

Đại tá TS VŨ ĐĂNG MINH
(1). Đảng ủy Quân sự Trung ương, Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991 của Bộ Quốc phòng (1991-2011), t.68,69.

(2). Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
(http://www.qdnd.vn/chinh-tri/tin-tuc-su-kien/mot-so-van-de-ve-doi-tac-doi-tuong-trong-tinh-hinh-moi-theo-quan-diem-cua-dang-ta-424465 )

Vấn đề đối tác - đối tượng trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc
9:58' 31/1/2015

TCCSĐT - Sau khi kết thúc Chiến tranh lạnh, đất nước ta vẫn phải đối diện với rất nhiều nguy cơ, thách thức trên mọi lĩnh vực; đồng thời, phải đứng trước sự lựa chọn, phân định bạn - thù, đối tác - đối tượng, để định hình chiến lược, sách lược; đề ra và triển khai có hiệu quả đường lối đối nội, đối ngoại; bảo vệ lợi ích của dân tộc và vai trò lãnh đạo của Đảng, sự vững mạnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (từ ngày 02-7 đến ngày 12-7-2003), trên cơ sở phân tích tình hình chính trị thế giới, khu vực và trong nước; đồng thời căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra và âm mưu, khả năng hoạt động chống phá của các thế lực thù địch đối với nước ta, Đảng ta đã đề ra “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong hình hình mới” (gọi tắt là Chiến lược bảo vệ Tổ quốc năm 2003). Trong đó, Đảng ta đã đưa ra một số phương châm chỉ đạo trong việc xác định đối tác - đối tượng, cụ thể là: Phải trên tinh thần thêm bạn, bớt thù, phân hóa, cô lập các thế lực thù địch chống đối ta, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Không có kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia, dân tộc là vĩnh viễn. Không nên xác định cả một quốc gia là đối tượng đấu tranh mà chỉ nên nói các thế lực thù địch, hoặc một số người trong giới cầm quyền ở một số nước nào đó có hành động cực đoan, hiếu chiến, chống đối ta, các cơ quan tình báo nước ngoài có hoạt động phương hại đến an ninh quốc gia của ta. Không có đối tác vĩnh viễn, song phải xác định được những đối tác chiến lược, lâu dài, nhất quán trên cơ sở chủ trương thêm bạn, bớt thù, khai thác triệt để mặt đối tác nhằm bảo đảm lợi ích lâu dài và chắc chắn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những phương châm chỉ đạo trên đã cho thấy sự đổi mới mạnh mẽ, khách quan, toàn diện trong tư duy của Đảng ta về vấn đề đối tác - đối tượng: từ chỗ chỉ dựa trên ý thức hệ để xác định bạn - thù, sau đó mới tới lợi ích của quốc gia, dân tộc, đã chuyển sang quan niệm mềm dẻo, biện chứng hơn khi nhìn nhận đúng đắn về sự đan cài lợi ích trong quan hệ với các quốc gia. Đồng thời, cũng trên cơ sở phương châm chỉ đạo trên, Trung ương Đảng ta đã đề ra nguyên tắc trong việc xác định đối tác, đối tượng phù hợp với bối cảnh của đất nước, đó là: “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Mặt khác, trong tình hình diễn biến mau lẹ và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn nhận biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta. Trên cơ sở đó, cần khắc phục cả hai khuynh hướng mơ hồ, mất cảnh giác hoặc cứng nhắc trong nhận thức, chủ trương và trong xử lý các tình huống cụ thể”(1).
Sau hơn 10 năm quán triệt thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc năm 2003 nói chung và các phương châm, nguyên tắc trong xác định đối tượng, đối tác, chúng ta đã thu được rất nhiều thành tựu quan trọng, đặc biệt chúng ta đã: “...bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia, dân tộc,... Tiềm lực kinh tế, uy tín, vị thế quốc tế của đất nước được nâng cao. Nền quốc phòng toàn dân, an ninh được tăng cường; sức mạnh tổng hợp bảo vệ Tổ quốc được nâng lên một bước”(2). Nước ta đã hội nhập ngày càng sâu với quốc tế, thiết lập quan hệ bình thường với hầu hết các quốc gia; tham gia chủ động, tích cực và có trách nhiệm cao vào các tổ chức ở cấp khu vực và thế giới. Đặc biệt, nước ta đã tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống với các đối tác láng giềng; tạo quan hệ ổn định, lâu dài và không ngừng đưa các mối quan hệ với các nước lớn đi vào chiều sâu (3); tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, tri thức, công nghệ mới và các nguồn lực quan trọng khác của quốc tế vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động can thiệp, lật đổ, chống phá mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của các thế lực thù địch.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng phải thẳng thắn nhìn nhận đúng về những hạn chế, thiếu sót. Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, ngày 25-10-2013, nêu rõ: “... một số yếu tố quan trọng để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc chậm được củng cố, tăng cường, có mặt còn giảm sút và phát sinh những vấn đề phức tạp mới. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhận thức về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc chưa đầy đủ, sâu sắc; chủ quan, mất cảnh giác; quan liêu, không gắn bó với nhân dân, không nắm chắc tình hình, có nhiều sơ hở... Các nguy cơ mà các Đại hội Đảng đã chỉ ra, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI tiếp tục cảnh báo chưa được khắc phục, có mặt còn nghiêm trọng hơn”(4).
Trên thực tế, một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn mơ hồ, mất cảnh giác, nhìn nhận phiến diện về vấn đề đối tượng, đối tác; chưa có quan điểm khách quan, toàn diện trong đánh giá các nguy cơ, thách thức và cơ hội của đất nước trong quá trình hội nhập quốc tế. Từ đó, chưa nhận thức đầy đủ về các lợi ích quốc gia, dân tộc; đồng thời, chưa gắn kết chặt chẽ giữa yêu cầu hội nhập quốc tế với yêu cầu phát triển bền vững, bảo đảm sự độc lập, tự chủ, bảo vệ vững chắc chủ quyền của Tổ quốc Việt Nam. Cho nên, trong một số trường hợp chúng ta vẫn còn rơi vào thế bị động, bất ngờ.
Chính từ việc nhận thức đúng về mối nguy hiểm, đe doạ từ những hạn chế nói trên có thể tác động làm giảm sút sức mạnh tổng hợp của đất nước, cũng như khả năng bảo vệ Tổ quốc trước các khó khăn, thách thức đặt ra trong thời gian tới, ngày 25-10-2013, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã tổ chức Hội nghị lần thứ tám và nhất trí thông qua Nghị quyết số 28-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Với hệ thống 7 quan điểm đề ra trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Nghị quyết lần này tiếp tục nhấn mạnh và làm rõ hơn quan điểm về vấn đề đối tượng - đối tác.
Việc xác định đối tượng, đối tác là tương đối “nhạy cảm” trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta né tránh, để rồi rơi vào trạng thái mơ hồ, mất cảnh giác, mất tính chiến đấu và khó có thể vạch ra chủ trương, sách lược, chiến lược đúng đắn trong bảo vệ Tổ quốc. Thực tế, xác định đối tượng - đối tác là một trong những nội dung căn bản nhất trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. Do đó, vấn đề đối tượng, đối tác vừa qua đã được Trung ương Đảng ta khẳng định rõ: “Vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng: Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”(5).
Quan điểm trên của Trung ương Đảng vẫn thể hiện được tính mềm dẻo, biện chứng toàn diện trong cách nhìn nhận về đối tượng và đối tác. So với nội hàm quan điểm cùng về vấn đề này trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, thì quan điểm lần này vừa có tính kế thừa, nhưng vừa có sự bổ sung những nội dung phù hợp, đòi hỏi cần phải được nghiên cứu, quán triệt nghiêm túc. Cụ thể:
Thứ nhất, quan điểm về đối tượng đấu tranh
Trung ương Đảng tiếp tục khẳng định: “... bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”. Đây là một sự khẳng định khôn khéo, mềm dẻo của chúng ta trong quyết tâm bảo vệ các lợi ích quốc gia, dân tộc Việt Nam và mục tiêu, con đường cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn. Chúng ta không vạch tên, chỉ mặt đối tượng nào, không tạo ấn tượng hiềm khích với ai, nhưng sự khẳng định trên cũng đủ để vừa quy tụ ý chí, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, vừa đề cao được lợi ích tối thượng của quốc gia, dân tộc.
Bởi vì, “Tổ quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm”(6), cho nên tiếp tục đề cao mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là hoàn toàn hợp lý, dễ hiểu. Hơn nữa, điều này cũng phù hợp với phương hướng xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam mà Đại hội VII (năm 1991) đã đề ra đó là “Thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ Tổ quốc”(7). Thực tế chỉ ra rằng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam chính là nền tảng vững chắc nhất để xây dựng thành công xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta - đó cũng chính là lợi ích quốc gia, dân tộc ta đang hướng tới.
Do đó, bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng chính là các thế lực có âm mưu, hành động chống lại nền độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; chống lại các lợi ích quốc gia, dân tộc Việt Nam; chống lại sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng, nhân dân ta đã lựa chọn và tất cả những thế lực đó đều là đối tượng đấu tranh của chúng ta.
Thứ hai, quan điểm về đối tác
Trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc năm 2003, xác định “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta”. Tuy nhiên, hiện nay Nghị quyết số 28-NQ/TW “về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, ngày 25-10-2013 đã cắt bỏ đi hai từ “chủ trương” của quan điểm trước đây và khẳng định: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác”.
Điều này vừa bảo đảm sự phù hợp với các nguyên tắc trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, nó cũng phù hợp với đường lối đối ngoại nhất quán của nước ta đã được Đảng ta xác định trong Đại hội XI: “là bạn, đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(8); “Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế”(9).
Hơn nữa, trong bối cảnh hội nhập quốc tế, uy tín, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, trách nhiệm quốc tế của Việt Nam cũng ngày càng lớn và được các đối tác tin cậy. Do đó, việc cắt bỏ đi hai từ “chủ trương” trong quan điểm cũ là một bước khẳng định rõ ràng rằng chúng ta sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy với những đối tác nào tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với chúng ta; chứ không phải chỉ dừng lại ở mức độ “chủ trương”. Mặc dù vậy, để bảo đảm tính khách quan, toàn diện thì khi nhận thức về vấn đề đối tác cần phải đặt nó trong mối quan hệ với vấn đề đối tượng ngày nay.
Thứ ba, về tính biện chứng giữa đối tượng - đối tác
Trước đây, Trung ương Đảng chỉ nêu “... trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta”. Nhưng hiện nay, Trung ương Đảng đã khẳng định: “... trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”.
Có thể thấy, Trung ương Đảng đã quan niệm một cách khái quát, khách quan, toàn diện và đầy đủ hơn về tính biện chứng trong mỗi đối tác, chứ không chỉ dừng lại ở một số đối tác như trước đây. Thực tế đã khẳng định về tính đúng đắn của quan điểm này, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và tính cạnh tranh song hành cùng tính lệ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia đang ngày càng gia tăng.
Như vậy, đối tượng và đối tác luôn tồn tại trong một thể thống nhất. Do đó, sẽ có những đối tác rất đáng tin cậy, rất khó có khả năng chuyển hóa thành đối tượng, nhưng cũng có những đối tác có thể bị chuyển hóa thành đối tượng trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn cảnh giác. Thậm chí có đối tác bản thân đã, đang là đối tượng, buộc chúng ta phải vừa hợp tác, vừa phải đấu tranh. Bên cạnh đó, trong các loại đối tượng sẽ có những đối tượng mâu thuẫn, khác biệt ở mức độ nhất định, trong khoảng thời gian nhất định với chúng ta về ý thức hệ, hoặc về lợi ích chủ quyền, lãnh thổ hoặc về lợi ích kinh tế, văn hóa, xã hội,... Tuy nhiên, xét trong tổng thể thì vẫn còn có mặt có thể hợp tác được, mà không phải là đối tượng hoàn toàn hay đối tượng vĩnh viễn.
Thứ tư, chủ trương ứng xử đối với những mặt mâu thuẫn, khác biệt về lợi ích ở đối tác với chúng ta
Quan điểm về vấn đề đối tượng, đối tác mà Trung ương Đảng đề ra trong Nghị quyết 28-NQ/TW còn thể hiện tính cách mạng sâu sắc, rằng với những điểm mâu thuẫn, khác biệt về lợi ích giữa ta với mỗi đối tác đó, chúng ta không phải vì vậy mà chấp nhận nó, mà “cần phải đấu tranh”. Bằng sự mưu trí, sáng tạo để “đấu tranh” nhằm tăng cường sự hiểu biết, lòng tin, tăng cường tính đồng thuận, mở ra các thời cơ thuận lợi, tranh thủ tận dụng được những ưu điểm của mỗi đối tác để giúp chúng ta phát triển nhanh. Mặt khác, hạn chế tiến tới triệt tiêu các mâu thuẫn, lực cản phát sinh ở mỗi đối tác, mà không phải là nhằm mục tiêu triệt tiêu đối tác.
Tóm lại, trong nhận thức về vấn đề đối tượng, đối tác cần phải có cách nhìn khách quan, toàn diện, khoa học. Phải thấy được trong mỗi đối tượng, đối tác đâu là điểm có thể hợp tác được, đâu là điểm cần đấu tranh. Không nên cực đoan, máy móc hoặc rơi vào mơ hồ, ngộ nhận, thiếu cảnh giác rằng đối tác chỉ là hợp tác, còn đối tượng nhất định phải đấu tranh. Đồng thời, phải hết sức mềm dẻo trong hoạch định chủ trương, sách lược, chiến thuật đấu tranh với từng loại đối tượng, ở từng mặt, từng vấn đề vào từng thời điểm cụ thể, trên tinh thần hòa bình, hợp tác và phát triển; tránh xung đột, đối đầu, nhất là với các nước lớn; tránh bị cô lập, lệ thuộc.
Bên cạnh đó, để góp phần quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về vấn đề đối tượng, đối tác, đòi hỏi các cơ quan, ban, ngành chức năng cần phải nghiên cứu, xây dựng nội dung phù hợp, tổ chức tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức cho từng đối tượng cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đối với các cán bộ chủ chốt và các lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thì cần phải mở chuyên đề riêng, có sự phân tích sâu sắc, toàn diện hơn để giúp cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đúng, hiểu rõ, nâng cao sức cảnh giác, đề phòng, nhận diện được đối tượng, đối tác của ta, tạo nên sự đồng thuận cao trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Mỗi cơ quan, ban, ngành, tổ chức, doanh nghiệp,... cần phải xây dựng kế hoạch, cụ thể hóa các quan điểm, chủ trương của Trung ương Đảng thành các chương trình hành động, kiểm tra, giám sát phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình, để đóng góp cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc./.
------------------------------------------------------------
Chú thích:
(1) Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương: Tài liệu học tập Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2003, tr. 44
(2) Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, ngày 25-10-2013
(3) Trong quan hệ với các nước lớn, hiện nay Việt Nam đã thiết lập được quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước, quan hệ đối tác toàn diện với 11 nước - Nguồn: Tạp chí Cộng sản, số 862 (tháng 8-2014), tr. 32
(4) Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, ngày 25-10-2013
(5) Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, ngày 25-10-2013
(6) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, năm 2013, Điều 11
(7) Tìm hiểu môn học Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb. Lý luận chính trị, H, 2007, tr. 54
(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 83
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, tr. 84

ThS. Mai Xuân BaHọc viện An ninh nhân dân


Thử bàn về đối tác tác chiến lược của quân đội Việt Nam ?

Phạm Viết Đào.

( Bài đã đưa lên mạng cuối năm 2012 )


Tham gia trao đổi về chủ đề này có:
-          Đại tá Phạm Xuân Phương, nguyên cán bộ Tổng Cục chính tri; Đại tá Phạm Xuân Phương từng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, chiến trường Quảng Trị 1972 và tham gia hỏi cung tù binh Trung Quốc trong chiến tranh biên giới;
-          Đại tá Quách Hải Lượng, nguyên Trưởng phòng tác chiến quân chủng phòng không; ông từng công tác tại Cục 2, cơ quan tình báo quân đội; ông nguyên là Tuỳ viên quân sự Đại sứ quán Việt Nam tại Bắc Kinh năm 1981-1984. Cuộc trao đổi này diễn ra trước khi ông qua đời tháng 10/2013…
-          Một đại tá đề nghị không nêu tên, gần 70 tuổi quân, ông là con một đại thần triều Nguyễn; ông tham gia làm báo tại chiến dịch Điện Biên Phủ, có mặt tại Sài Gòn tháng 4/1975, có mặt trong những ngày đầu khi Pol Pot đánh biên giới Tây Nam …

Nhà văn Phạm Viết Đào: ( NVPVĐ) Việc xác định đối tác tác chiến chiến lược là việc như Tôn Tử nói: biết địch biết ta trăm trận, trăm thắng...Nếu chúng ta không xác định được địch là ai để có chiến lược phòng thủ thì chúng ta sẽ bị bất ngờ. Trong giai đoạn hiện nay, các ông là những cựu chiến binh, bằng kinh nghiệm cuộc đời trận mạc của mình, trước tình hình kinh tế xã hội và quan hệ quốc tế hiện tại, theo các ông: Quân đội Việt Nam nên xây dựng chiến lược phòng thủ đất nước như thế nào ?  


Đại tá Phạm Xuân Phương: ( ĐTPXP) Để hình thành nên một chiến lược phòng thủ quốc gia thì trước tiên chúng ta phải xác định cho được: Đối tác tác chiến chiến lược của quân đội Việt Nam trong tương lai là ai? Về cái điểm này đáng tiếc là tôi rất không đủ thông tin nên khó nêu chủ kiến của mình?
Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc nói chung các văn kiện công khai đề cập nhiều rồi… Có một điều tôi chưa rõ là trong tình hình thực tế này, quân đội ta phải xác định sắp tới đối tác tác chiến lược của chúng ta là ai đây để mà bố trí thế trận phòng thủ chiến lược?
Hiện nay chúng tôi đã về hưu, điều này anh phải hỏi các vị đương nhiệm cấp quân khu, quân đoàn xem họ được phổ biến như thế nào? Nếu họ được phổ biến là A chứ không phải là B thì tôi chịu không thể đưa ra phương án của mình, sơ đồ tác chiến phòng thủ chiến lược, chiến thuật của mình…
Tất nhiên đây là vấn đề bí mật quốc phòng lớn, bí mật quốc gia nhưng ít ra những người lãnh đạo quân đội cao cấp cũng phải có khái niệm như thế nào đây về vấn đề này ? Điều này tôi chưa thể trả lời anh được.
Theo tôi, muốn xây dựng được chiến lược phòng thủ tốt thì trước tiên chúng ta phải tổng kết thật tốt, đánh giá thật tốt những cuộc chiến tranh vừa qua, có như thế chúng ta mới chuẩn bị sẵn sàng cho các cuộc chiến trong tương lai nếu xảy ra…
NVPVĐ: Đối với một nền quốc phòng thì vấn đề xác định chiến lược phòng thủ là vấn đề lớn vì nó không chỉ đơn giản để giải quyết vấn đề trang bị vũ khí, khí tài mà cả về vấn đề tư tưởng, tâm lý về tinh thần cảnh giác; Có xác định được đối tác tác chiến chiến lược trong tương lai thì chúng ta mới có khả năng chuẩn bị sẵn sàng cho tất cả để tránh tình trạng như năm 1979, chúng ta rất bất ngờ cả về mặt tâm lý; ở Cao Bằng đã xảy ra tình trạng: thấy xe tăng Trung Quốc vào đồng bào ta chạy ra hoan hô và bị ăn đạn…
Đại tá P.X.P: Trước hết tôi muốn nói một điều đáng tiếc đối với những người đã đổ xương máu trong cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc, chúng tôi phải nói một cách thành thật, vì một lý do nào đó cuộc chiến tranh này đang là cuộc chiến tranh một thời gian dài bị lãng quên; lãng quên làm sao ? Kỷ niệm ngày mở chiến tranh và những thắng lợi kết thúc chiến tranh một thời gian gian dài chúng ta không nhắc tời, chúng ta có dám kỷ niệm và tưởng niệm đâu. Trong khi đó cuộc chiến tranh Việt-Mỹ ngày 30-4 được đánh dấu bằng một quốc lễ.
Cuộc chiến tranh biên giới phía bắc về quy mô chiến tranh, thắng lợi cũng như thiệt hại cũng rất lớn. Vì một lý do nào đó chúng ta chưa dám mạnh dạn tôn vinh một cách xứng đáng cuộc chiến tranh này, kỷ niệm không kỷ niệm, tổng kết cũng không tổng kết. Trung Quốc là một đối tượng tác chiến mới của chúng ta qua cuộc chiến tranh này.
Sách giáo khoa, sách lịch sử có cuốn nào đề cập tới cuộc chiến tranh này đâu, con em chúng ta bây giờ nhiều em không biết…
Vấn đề cuối cùng đó là vấn đề giải quyết hậu quả của cuộc chiến tranh này như thế nào ?
Âm mưu bành trướng bá quyền Đại Hán vẫn tiếp tục diễn ra dưới các hình thái mới Trung Quốc đang tiến hành tổng lực các hành động: đe đoạ chúng ta ở Biển Đông, gây hấn chúng ta cả về kinh tế, xâm nhập vừa phá hoại, khống chế về kinh tế về tâm lý lôi kéo, mua chuộc, cả trên lĩnh vực văn hoá…
Khi Trung Quốc xây dựng lại các mối quan hệ với ta, tôn chúng ta thế nọ, tôn chúng ta thế kia .v.v. nhưng về bản chất âm mưu bá quyền nước lớn của Trung Quốc họ chưa từ bỏ…
Tôi mạnh dạn gọi đây là cuộc chiến tranh kiểu mới mà Trung Quốc đang áp dụng với Việt Nam? Nếu không nhận thức được điều này thì thật sự là sự mất cảnh giác ghê gớm.
Trung ương chủ trương tranh thủ hoà bình xây đựng đất nước hoàn toàn đúng, tranh thủ Trung Quốc hoàn toàn đúng; bán anh em xa mua láng giềng gần, trong chừng mực nào đó ta phải tin; Phải có mối quan hệ, phải giao thương, phải buôn bán, phải để Trung Quốc đầu tư vào…Bất cứ nước nào đều phải làm thế !

Đại tá Quách Hải Lượng: (ĐTQHL) Khi nói đến đối tác tác chiến lược của chúng ta thì phải nói rằng: Ai xâm lược mình; Ai là kẻ xâm lược mình thì bây giờ người ta chưa thể nói ra cụ thể; Trong thuật ngữ quân sự thì người ta hay sử dụng khái niệm: đối tác tác chiến tiềm ẩn, không nói tên...Bởi vì như thế cũng khoa học thôi chứ không phải né tránh; Chỉ có thể gọi họ là kẻ thù khi họ nổ súng đánh ta, còn trước đó chỉ là tiềm ẩn. Vậy tiềm ẩn là ai, điều này ta phải có sự chuẩn bị.
Vấn đề này, trong chiến lược phòng thủ của mỗi nước đều phải có; vấn đề này đối với ta tôi tin cũng có chỉ có điều không cho biết phổ biến. Thế thôi !

Một Đại tá đề nghị không nêu tên:  Trung Quốc đang thực thi chiến lược: chưa cần đánh đã thắng ?!

Một kỷ niệm nhớ đời của ông: Ông tận mắt chứng kiến trận một Trung đoàn anh hùng của Pol Pot, vào năm 1978, dưới sự chỉ huy của Cố vấn Trung Quốc đã bao vây, dồn 1 sư đoàn quân ta, cũng là một sư anh hùng vào một chiếc cầu độc mộc để tiêu diệt... Trận đánh kéo dài từ 10 giờ trưa hôm nay đến 10 giờ trưa hôm sau; trong trận đánh này: 800 bộ đội của ta đã ngã xuống tại chỗ, mặc dù quân ta có xe tăng, có pháo binh, có trực thăng hỏa lực hơn hẳn quân Paul Pot...
Trận đó quân ta bị lính Pol Pot dùng kế hỏa công giống như trận Gia Cát Lượng thời Tam Quốc lừa quân Tào ở tại Gò Bác Vọng để đốt, bắn, giết; Quân Pol Pot rải hoá chất để đốt rừng, ta không dự kiến được tình huống đó...Sau trận này cả quân khu và 2 quân đoàn của ta bị kỷ luật vì thua trận...

Đại tá: Ông cho rằng: Đây là một loại bài toán mà ngành quân sự thường làm giống như một thứ bài tập của học sinh phổ thông...Xác định đối tác tác chiến lược, tiềm ẩn ư ?
Còn gì nữa mà phải xác định đối tượng tác chiến, xác định kẻ thù của chúng ta là ai, ở đâu, để làm gì khi mà họ đã vào ở chúng với chúng ta từ lâu rồi? Còn gì là tiềm ẩn nữa, họ đã vào sâu trong đất ta, họ có mặt khắp nơi từ Tây Nguyên đến Cát Bà, Vũng Rô, Cam Ranh; từ Móng Cái đến Bình Phước, Tây Nam Bộ, Hà Tĩnh...Điều này lãnh đạo biết, dân biết vì các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin công khai, họ có ẩn đâu, ra ngõ là gặp họ ngay...
Vào quãng năm 1967-1968 gì đó, tôi được mời dự một Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua được tổ chức tại vùng giải phóng ở miền nam. Tại đây, tôi được tướng Trần Độ, Trần Văn Trà giao cho ông tiếp xúc với một chiến sĩ thi đua đặc biệt, anh ta là người Trung Quốc...
Anh ta là người không cha, không mẹ, được ông Mao cho gom từ lúc lên 7 tuổi và nuôi, dạy với một chế độ đặc biệt; thành ra anh ta coi Mao Trạch Đông còn hơn cả cha mình...Anh ta được đưa sang Cămpuchia sau đó từ thâm nhập vào miền Nam để tham gia kháng chiến như một chí nguyện quân... Tôi có hỏi: Khi Việt Nam thắng lợi rồi, đồng chí sẽ đi đâu ? Anh ta đã trả lời: Sẽ đi làm cách mạng thế giới...
Sau này ông đã báo cáo chuyện này lên trên nhưng nhiều người không tin. Trên các nẻo đường Trường Sơn, ngay từ khi đang kháng chiến chống Mỹ, tôi đã gặp rất nhiều thanh niên Trung Quốc tình nguyện tham gia cuộc chiến; họ rất chu đáo, giao việc gì làm việc đến nơi đến chốn và rất đáng tin cậy...
Người Trung Quốc đã có kế hoạch, đã lập trình để thâm nhập vào đất nước ta rất lâu rồi, không phải bây giờ theo các hợp đồng kinh tế, các dự án liên doanh, qua các phi vụ buôn bán qua con đường tiểu ngạch...
Chúng ta là nước có lượng cafe xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới, thế mà cafe robusta của ta các xí nghiệp thu mua, chế biến trong nước đang gặp phải một đối tác cạnh tranh rất lợi hại đó là thương lái Trung Quốc...Thương lái Trung Quốc bỏ tiền mua ào ạt, vì họ trả giá cao hơn ta...lại chính những người nông dân của ta đứng ra thu gom, đóng bao cho họ, họ mua cafe khi còn đang chín trên cây sau đấy chở về Trung Quốc qua con đường tiểu ngạch...
Cá họ mua, tôm cua họ mua, dừa họ mua, chè, gạo, cao su, ca kao... cái gì cũng mua, họ xuất hiện ở khắp nơi...Khi thì họ đứng tên công khai, khi thì họ núp bóng pháp nhân của người Việt, lấy vợ Việt để hợp pháp hóa...
Thương lái Trung Quốc không chỉ mua chè còn mua cả những gỗ cây chè, nhiều cây chè hàng trăm tuổi đã bị đốn hạ bán cho thương lái Trung Quốc...
Trên thế giới có 3 nước được coi là quê hương của chè: Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam... Thế nhưng thương lái Trung Quốc còn tìm mua những gỗ cây chè với giá cao như mua gỗ lim, người Trung Quốc rất thích nằm những cái giường làm bằng gỗ cây chè...Loại cây chè to bằng 2 người ôm hình như chỉ ở Việt Nam mới có; nhưng than ôi những rừng chè kiểu đó hình như đang bị đốn hạ gần hết để bán cho thương lái Trung Quốc...Rồi cả gỗ sưa nữa, họ đang lùng mua để làm gì chỉ có họ biết...
Cách mua bán của Trung Quốc đã để lại biết bao thảm họa: hàng triệu quả dừa ở Bến Tre thả trôi sông vì không tiêu thụ được; Mua rất đắt sau dừng lại...Mua hàng rồi tìm cách diệt tận gốc mặt hàng đó...
Về chính trị thì chúng ta đã rước về 16 chữ vàng, là cả một điều nhục nhã, không ra cái gì...Anh biết đấy: Khi Việt Nam sắp có cuộc họp gì quan trọng, lập tức cán bộ cao cấp của họ sang hết: thăm dò, gợi ý, gây áp lực...
Năm 1950 tôi đã đứng chân ở dưới Hữu nghị quan, đứng dưới bức tường vì bên này bức tường là đất mình...Còn bây giờ ???
Tôi đã đi suốt chiều dài đất nước trong 3 cuộc chiến tranh, rừng của ta đẹp lắm nhưng bây giờ đâu còn rừng? Ta bất lực đến thế ư ?
Tình thế đất nước đã như thế này rồi thì việc gì người ta phải đưa quân sang cho nó lích kích ? Họ cứ giữ tình thế như thế này: Của cải, hàng hóa, tài nguyên, khoáng sản của ta thì họ ngang nhiên mua tranh, bán cướp; Còn hàng của họ tống sang ta thì thịt gà thối, chân gà thối, thịt lợn thối, đồ may mặc, đồ chơi trẻ em, sữa, bánh kẹo, hoa quả rau đậu đều nhiễm độc; Thuốc của nó là không hiệu nghiệm thế mà các thầy thuốc cứ tràn sang...
Hàng hóa Trung Quốc tràn sang ta phần lớn đều qua con đường tiểu ngạch thực chất là buôn lậu, trốn thuế, chất lượng không được kiểm định; chỗ nào cũng có hàng Trung Quốc, ta không làm cách nào bịt nổi ư...
Đây có lẽ là một chiến lược buôn bán có chủ đích của họ; bởi đây là cách để họ có thể lo lót các cơ quan chức năng ít tiền mãi lộ, tiền làm luật và nếu không qua cách này, quan chức, bộ máy công quyền Việt Nam nhận tiền của thương lái Trung Quốc cũng cảm thấy áy náy...Không biết loại đồng tiền kinh hãi kiểu này đã len lỏi tới chỗ nào trong bộ máy công quyền của ta...
Tại Sài Gòn người ta đã thấy hàng trăm người Trung Quốc sáng dậy cũng lại làm thủ tục chào cờ Việt Nam nghiêm chỉnh như dân ta... Tôi hiểu người dân lao động Trung Quốc vì tôi đã sang du học bên đó; thời tôi đi học do nghèo nên cùng tham gia lao động khốn khổ để kiếm thêm tiền...Tôi thấy người lao động Trung Quốc hết sức khổ và hết sức đáng yêu; nhưng tôi không thể chấp nhận cái trò bẩn thỉu của họ...
Bây giờ văn hóa dân tộc chúng ta còn gì ? phim Tàu suốt ngày, tất nhiên phim họ hay hơn phim ta, phim Hàn Quốc, sách tàu dịch vô thiên lủng, từ chuyện dâm, chuyện tục tĩu, vô chính trị nhất... Nếu chúng ta không có một cái nhìn chiến lược đúng, nếu chúng ta quan tâm thật sự tới điều kiện sống của người dân, chúng ta không có các chính sách an dân nhất là bà con các dân tộc; nếu chúng ta không mở mang dân trí, không có cách gì để vận động nhân dân đoàn kết, không dùng mặt hàng này, tẩy chay mặt hàng kia của Trung Quốc, cứ hồn nhiên nghiền đồ rẻ, đồ phế thải, đồ độc hại thì rồi tương lai dân tộc ta sẽ tới đâu...
Nếu dân ta đoàn kết liền một khối thì việc tìm đối tác tác chiến lược tiềm ẩn ở đâu xa; Trung Quốc cần gì phải mang quân đội sang; không mang quân sang mà chiếm được đất, được thành ( thành phố ), khống chế được tài sản, lung lạc được đời sống tinh thần, khống chế được bộ máy quan chức thì là thượng sách rồi còn gì...
Nếu như tìm theo lối giáo điều, sách vở: Kẻ thù của chúng ta là nước A,B,C nào đó như trong các văn kiện hay nhắc, thế lực thù địch về tư tưởng hay chính trị thậm chí nói toẹt ra Mỹ và Trung Quốc là kẻ thù chiến lược của ta, điều đó không sai nhưng không đủ, chưa chuẩn xác...
Nếu vấn đề dân tộc ta không giải quyết tốt, vấn đề ruộng đất của nông dân chúng ta không giải quyết tốt; để sự suy sụp về đạo đức, văn hóa xã hội lan tràn, đó vừa là lực cản của chúng ta, đó là kẻ thù của chúng ta chứ còn đâu nữa! Việc gì Trung Quốc đem quân đánh ta, Trung Quốc bây giờ chắc không ngu vậy đâu…
Còn các bài tập do Bộ Tổng tham mưu soạn: Trung Quốc hay dùng sơn cước đột nhập, gài mìn kiểu này kiểu kia cho nên ta phải đề phòng để khỏi bị đánh bất ngờ; Đó chỉ là những bài học mang tính chất kỹ thuật...
Hiện nay đất nước, lãnh đạo, nhân dân đang bị chia rẽ, đang bị phân tâm một cách sâu sắc và nguy hiểm; đó chính là nguyên nhân đẩy chúng ta vào vòng nô lệ của kẻ khác: nô lệ về kinh tế, nô lệ về chính trị, nô lệ về văn hóa và cuối cùng thì...
Tôi cho rằng: Kẻ thù của chúng ta, đối tác tác chiến chiến lược của chúng ta phải tìm ngay trong chúng ta; có quá nhiều nguyên nhân dẫn tới tình cảnh này; điều này tôi nói thế là anh hiểu...

Phạm Viết Đào thực hiện...

Nghiên cứu, thực hiện nghị quyết
QPTD -Thứ Ba, 10/06/2014, 14:55 (GMT+7)
Một số nội dung cơ bản của Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới
Ngày 25-10-2013, Hội nghị Trung ương 8 (khóa XI) ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nghị quyết thể hiện sâu sắc sự phát triển tư duy nhận thức lý luận của Đảng về bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Nghị quyết số 28-NQ/TW được ban hành trên cơ sở thành tựu, kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn qua gần 30 năm đổi mới đất nước, nhất là kế thừa kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trong tình hình mới. Đây là Nghị quyết chuyên đề về nhiệm vụ BVTQ của Đảng ta. Trong đó, xác định rõ mục tiêu, quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện BVTQ trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực, hội nhập quốc tế. Chúng ta cần quán triệt sâu sắc những nội dung cơ bản sau:     
Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với sự nghiệp BVTQ. Đây là một nội dung quan trọng, nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp BVTQ. Trong bối cảnh nước ta hội nhập quốc tế ngày càng sâu, rộng và các thế lực thù địch tranh thủ mọi sơ hở của ta để chống phá thì việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước càng cần phải được coi trọng. Đó cũng là nhân tố bên trong quyết định sự thành bại của cách mạng, sự mất còn của chế độ XHCN ở nước ta. Nghiên cứu lịch sử và một số cuộc chiến tranh khu vực gần đây cho thấy, nguyên nhân cơ bản dẫn tới mất ổn định của một quốc gia đều xuất phát từ vấn đề nội bộ. Nếu tình hình nội bộ ổn định, đất nước phát triển, đời sống nhân dân được đảm bảo và cải thiện thì lòng tin vào chế độ được giữ vững và do đó các thế lực bên ngoài không có cớ và thời cơ để can thiệp.
Để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội nói chung, sự nghiệp BVTQ nói riêng thì Đảng phải mạnh. Những năm qua, bên cạnh những mặt mạnh, công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, mà Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã chỉ ra là: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”. Các hiện tượng tham nhũng, lợi ích nhóm, mất đoàn kết nội bộ,… tuy đã được khắc phục một bước, nhưng vẫn còn diễn ra, làm cho lòng tin của một bộ phận nhân dân vào Đảng, Nhà nước bị giảm sút. Do đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI), khi xác định mục tiêu BVTQ, ngoài mục tiêu chung, còn nhấn mạnh các mục tiêu cụ thể trong những năm trước mắt; trong đó, mục tiêu đầu tiên là “Tạo được chuyển biến rõ rệt trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước; ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Theo đó, Nghị quyết đề ra giải pháp nâng cao chất lượng công tác xây dựng Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chính trị nội bộ, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN là: Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về công tác xây dựng Đảng, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, nhất là ở cấp chiến lược, củng cố lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước; đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng công tác cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, quản lý của chính quyền các cấp đối với nhiệm vụ BVTQ; xác định rõ trách nhiệm của người đứng đầu các cấp ủy, chính quyền, tổ chức trong thực hiện nhiệm vụ BVTQ.
Hai là, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Trong lịch sử xã hội loài người, thời đại nào cũng vậy, dân tộc bao giờ cũng gắn liền với một chế độ chính trị nhất định; trong đó, dân tộc có quyền lựa chọn cho mình một chế độ chính trị nhất định, chế độ chính trị phù hợp thì tồn tại, phát triển và được bảo vệ. Ngược lại, nếu chế độ chính trị không phù hợp, thì chính dân tộc đó sẽ quyết định việc thay thế nó bằng một chế độ chính trị khác phù hợp hơn. Đối với dân tộc ta, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Đảng ta luôn giương cao hai ngọn cờ: độc lập dân tộc và CNXH và đã giành thắng lợi trọn vẹn. Thực tiễn cũng đã chứng minh, chỉ có kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH nước ta mới có độc lập dân tộc thực sự và sự thực trong gần 30 năm đổi mới vừa qua, CNXH đã thể hiện được tính ưu việt của nó, mặc dù mô hình này chưa có tiền lệ trong thực tiễn và cần tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới. Những năm qua, vấn đề dân tộc luôn được Đảng ta đặc biệt coi trọng và trên thực tế đã tạo được sự đồng thuận cao trong nhân dân, nhất là đối với kiều bào ta ở nước ngoài. Tuy nhiên, còn có ý kiến khác nhau về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc và CNXH. Một số người cho rằng không cần thiết phải gắn độc lập dân tộc với CNXH. Vậy nhận thức đó đúng hay sai?
Cần thấy rằng, thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là quá trình lâu dài, trải qua nhiều giai đoạn khác nhau và ở đó CNXH chưa thể hoàn chỉnh ngay được, ngay cả các đặc trưng của CNXH mà Đảng ta khái quát trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), cũng chưa phải đã thể hiện được đầy đủ. Vấn đề đặt ra là, chúng ta phải đầu tư nghiên cứu, tiếp tục làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về CNXH mà thực tiễn đang đặt ra hiện nay. Đồng thời, khắc phục các hạn chế của nó, xây dựng CNXH thực sự ưu việt. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh sự cần thiết phải gắn bó chặt chẽ giữa BVTQ với các yếu tố tự nhiên, lịch sử với yếu tố chính trị - xã hội; đặc biệt là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc phải gắn với bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN. Như vậy có thể khẳng định bất luận trong hoàn cảnh nào, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cũng phải luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đây là mục tiêu và cũng là quan điểm của Đảng ta. Chừng nào chúng ta xa rời mục tiêu đó, tức là tách rời độc lập dân tộc với CNXH thì chừng đó sẽ chệch hướng và thất bại. Do đó, cần phải quán triệt thật sâu sắc thật vững vấn đề đặc biệt quan trọng này.
Ba là, phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của đất nước, nhất là vai trò của nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để chống lại kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần, chúng ta đã phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Kế thừa truyền thống đó, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) tiếp tục khẳng định sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp của cả nước, bao gồm sức mạnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và của các lực lượng; kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, nhưng suy cho cùng sức mạnh của nhân dân mới là điều căn bản nhất. Dưới thời nhà Hồ, khi trả lời nhà vua về kế sách chống giặc giữ nước, Hồ Nguyên Trừng đã nói: “Thần không sợ giặc mạnh, chỉ sợ lòng dân không theo” và chính vì không được lòng dân nên mặc dù có thành cao, hào sâu, nhà Hồ đã không ngăn được quân xâm lược và bị mất nước. Ngày nay, sức mạnh của nhân dân vẫn là yếu tố quyết định, nhưng sức mạnh đó huy động được đến đâu cho sự nghiệp BVTQ còn tùy thuộc vào lòng tin và sự đồng thuận của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN. Vì vậy, để phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, vai trò của nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ đòi hỏi cấp ủy, chính quyền các cấp phải gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, giải quyết kịp thời những vướng mắc trong nhân dân và điều cốt yếu là phải đem lại lợi ích ngày càng nhiều hơn cho nhân dân. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh: phải “thường xuyên bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình, chủ động xử lý đúng đắn, kịp thời mọi tình huống gây mất ổn định chính trị - xã hội”; “củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận”.
Bốn là, giữ nước phải giữ từ thời bình. Kế thừa tư tưởng “giữ nước từ khi nước chưa nguy”, Đảng ta đã không ngừng phát triển, hoàn thiện tư duy, nhận thức của mình về BVTQ trong điều kiện mới; trong đó, giữ nước phải được thực hiện ngay từ thời bình là một trong những quan điểm cơ bản. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) đã khẳng định: “giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước”. Như vậy, theo Đảng ta, không phải cứ tiến hành chiến tranh hoặc hoạt động liên quan đến chiến tranh mới được coi là giữ nước, mà giữ nước tối ưu là làm cho đất nước không phải tiến hành chiến tranh. Phát triển quan điểm trên, chúng ta đã nhấn mạnh đến vấn đề bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ xa. BVTQ từ xa không chỉ xét về mặt địa lý, mà chủ yếu là chủ động chuẩn bị BVTQ ngay khi đất nước đang hòa bình và phát triển; thực hiện ngăn ngừa và đẩy lùi nguy cơ xung đột và chiến tranh. Đồng thời, không coi nhẹ vấn đề tự bảo vệ và khẳng định phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, trong đó có một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại để BVTQ. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) cũng chỉ rõ phương châm BVTQ là: Đối với nội bộ, lấy việc giáo dục, thuyết phục, phòng ngừa là chính đi đôi với giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm pháp luật. Đối với các tranh chấp, bất đồng với các nước liên quan thì kiên trì giải quyết bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế. Đảng ta cũng chỉ rõ phương thức đấu tranh là kết hợp đấu tranh vũ trang và phi vũ trang, nhưng lấy đấu tranh phi vũ trang là chủ yếu nhằm chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch; khắc phục tình trạng sơ hở, mất cảnh giác. Phòng ngừa, ngăn chặn hiệu quả các nguy cơ xung đột, chiến tranh biên giới, biển, đảo, chiến tranh mạng; không để xảy ra bạo loạn, khủng bố, hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước.
Năm là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế. Đây là quan điểm mang tính truyền thống của dân tộc ta. Phát huy truyền thống này, trong công cuộc đổi mới, Đảng ta đã phát triển từ nhận thức cứng về bạn, thù trước đây đến việc xác định đối tác, đối tượng hiện nay và nhấn mạnh, cần có cách nhìn biện chứng trong sự tồn tại đan xen và chuyển hóa lẫn nhau giữa đối tác và đối tượng. Theo đó, trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh; trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt đồng thuận cần tranh thủ hợp tác. Nhận thức biện chứng trong xác định đối tác, đối tượng đó đã mở ra điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác quốc tế, bảo đảm tranh thủ ngày càng tốt hơn sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Để thực hiện “trong ấm, ngoài êm”, thêm bạn bớt thù, cùng với xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chúng ta cần “quán triệt đường lối độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Tăng cường hợp tác tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, lệ thuộc”.
Sáu là, xây dựng lực lượng vũ trang thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, làm nòng cốt cho toàn dân trong sự nghiệp BVTQ. Chúng ta đều biết, sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp, trong đó có sức mạnh quân sự, nhưng cần nhận thức đúng vai trò của sức mạnh quân sự trong các giai đoạn của cách mạng để không quá đề cao hoặc coi nhẹ sức mạnh này. Xét cho cùng, trong chiến tranh, sức mạnh của đất nước cũng phải thông qua sức mạnh quân sự để trực tiếp giành thắng lợi trên chiến trường; còn trong thời bình thì sức mạnh quân sự chính là khả năng răn đe hiệu quả trong các tình huống quốc phòng, an ninh, BVTQ. Vì vậy, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh việc tăng cường sức mạnh quân sự bảo đảm vừa phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của đất nước, vừa đủ sức BVTQ trong mọi tình huống. Để xây dựng sức mạnh quân sự phải coi trọng nhiều yếu tố; trong đó, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân mà trực tiếp là Quân đội nhân dân vững mạnh có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc xây dựng, nâng cao chất lượng tổng hợp của Quân đội, trước hết là nâng cao chất lượng về chính trị, bảo đảm cho lực lượng này thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Xây dựng Quân đội có tổ chức hợp lý, tinh, gọn, cơ động, có sức mạnh chiến đấu cao, có vũ khí, trang bị hiện đại, nhất là một số vũ khí chiến lược; nâng cao khả năng phòng thủ tác chiến tầm cao, tầm xa, khả năng kiểm soát vùng trời, vùng biển, đảo xa bờ, tác chiến ban đêm, sẵn sàng đánh thắng trong các tình huống xung đột và chiến tranh. Cùng với đó, chú trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, có chất lượng cao; đồng thời, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của lực lượng Công an nhân dân, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới./.   

Trung tướng, PGS, TS. TRẦN THÁI BÌNH
Viện Chiến lược Quốc phòng, BQP
(http://tapchiqptd.vn/vi/nghien-cuu-thuc-hien-nghi-quyet/mot-so-noi-dung-co-ban-cua-chien-luoc-bao-ve-to-quoc-trong-tinh-hinh-moi/5731.html )

Không có nhận xét nào: