Chủ Nhật, 28 tháng 8, 2016

FB Phạm Đoan Trang: CÁ CHẾT VÀ NỖI ÁM ẢNH VỀ TƯƠNG LAI (KỲ 1)( Kỳ 2 )

26/08/2016

26-8-2016
H1
7h tối 18/8, bão số 3 đổ về đồng bằng Bắc Bộ. Hà Nội mưa trắng trời. Tôi chống nạng xuống tầng một, thấy nước… cống hòa nước mưa đã ngấp nghé dềnh đến nửa đùi, tất cả các xe máy đậu bên tường khu tập thể đều ngập bánh trong làn nước đen. Rác trôi lều bều.
Yên chí rằng không có nhân viên an ninh hay dân phòng nào dại gì đội mưa giờ này để theo dõi “phản động”, tôi lội ra đường gọi taxi. Trời mưa vốn là dịp để taxi hốt khách, nhưng cũng lại là những lúc rất nguy hiểm cho tài xế, vì gió mạnh, mưa xối xả làm mờ kính, rất khó nhìn đường, cây đổ bất ngờ, và người đi xe máy thì phóng nhanh vượt ẩu. Phải mất tới 45 phút tôi mới gọi được một chiếc taxi, và mất thêm một tiếng vòng vèo nữa mới đến được nhà Đình Hà, đón thằng em. Hai chị em hối hả ra bến xe buýt, mua vé vào Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Tội nghiệp thằng em lỉnh kỉnh máy móc, ba-lô. Đồ gì nó cũng phải cầm hết, vì bà chị hai tay hai nạng, không tự mang được cái gì.

“Chuột bạch” Hoàng Thành thì đến tối hôm sau mới vào tới nơi, lúc bão đã tan, nên thoát được trận mưa thối đất thối cát.
Mưa suốt đêm, gió ào ào thổi bên ngoài, cửa kính ô-tô nhòe nước. Nếu theo “tiêu chuẩn Mỹ”, thì chắc những chuyến xe như thế này là rất nguy hiểm, người dân được khuyến cáo không nên đi đâu cả. Nhưng đây là Việt Nam, nơi tính mạng con người vốn bị coi là chẳng đáng giá (ông tướng công an Nguyễn Văn Hưởng còn răn là nhân quyền Việt Nam khác nhân quyền Mỹ kia mà). Và chúng tôi cũng muốn tranh thủ vào khu vực Vũng Áng ngay lúc mưa bão, để tránh bị những kẻ mà ai-cũng-biết-là-ai theo dõi, quấy rầy. Thật ra, theo dõi hay bắt về đồn ngồi cả ngày đều quá nhẹ; chỉ phiền nhất là những kẻ đó hay có thú bẻ tay, giật lấy máy ảnh, điện thoại chụp hình và máy ghi âm của chúng tôi, thậm chí cả laptop, rồi đập máy, hoặc cướp sạch thẻ nhớ. Mỗi lần như vậy là coi như mất hàng chục triệu đồng; đồ càng chuyên nghiệp càng mất nhiều tiền, chưa kể nỗi đau xót lớn nhất là mất tư liệu.
Chúng tôi vào Vũng Áng còn vì một lý do nữa: Đã bỏ lỡ dịp ở đó vào những ngày căng thẳng nhất của thảm họa cá chết (cuối tháng 4, đầu tháng 5 năm 2016), là nhà báo, chúng tôi không muốn và không thể tiếp tục ở lì Hà Nội để nghe thông tin qua nền truyền thông méo mó của Việt Nam thời mạt. Một khối truyền thông đầy định kiến và những quan niệm sai lệch, chỉ cam phận hết minh họa đường lối chính sách lại làm công cụ cho các phe phái đánh đấm. Kèm với hai thứ đó là những thông tin vỉa hè, cái mà người ta truyền miệng, rỉ tai cho nhau, kể cả tán oang oang ngoài quán cóc cũng có, sặc sụa mùi thuyết âm mưu, kiểu như: Dự án Formosa rồi sẽ bị mua lại bởi một bọn còn kinh khủng hơn bọn Formosa Đài Loan bây giờ, bọn này có đủ lực chi phối cả Bộ Chính trị cơ, lúc đấy dân Việt mới chết đấy!
Đến khi người nghe hỏi: “Bọn ấy là bọn nào?”, thì câu trả lời luôn là: “Tuyệt mật. Không nói được đâu”.
Tôi khá khó chịu mỗi khi bị những thông tin kiểu đó lọt vào tai, và luôn phải cố gắng để kiềm một câu muốn bùng khỏi miệng: “Cảm ơn vì tất cả các thông tin tuyệt mật. Tôi chỉ thắc mắc, tại sao những thông tin đó lại là tuyệt mật, tại sao chúng không được công bố trên báo chí Việt Nam?”.
Nhưng biết đâu họ đúng? Cũng như điều này luôn luôn đúng: Ở bất cứ nơi đâu và vào bất cứ lúc nào, nếu báo chí bị bóp nghẹt, thì thông tin vỉa hè sẽ lên ngôi. Đừng trách người dân “bầy đàn”, “cảm tính”, “không hiểu biết”.
KỲ SAU: NỖI BUỒN CỦA BIỂN

Kỳ 2: NỖI BUỒN CỦA BIỂN

27/08/2016
27-8-2016
H1
Khoảng 7h sáng hôm sau (19/8), chúng tôi tới xã Kỳ Lợi, Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Cảnh tượng ngay lập tức đập vào mắt tất cả mọi người đến nơi đây, là khu kinh tế Vũng Áng rộng mênh mông chạy dọc chân trời, với những ống khói trắng-đỏ đang nhả khói vào mây. Đó là ban ngày, còn xế chiều, khi Vũng Áng lên đèn, bạn sẽ thấy hàng chuỗi hàng chuỗi đèn điện hồng xen lẫn với ráng hồng của bầu trời. Đến đêm tối thì Formosa thật sự trở thành một “vương quốc” sáng rực ánh điện, đèn lấp lánh, chi chít như sao sa, tương phản với bên kia đường là đồng cỏ và khu nhà dân tiêu điều, tối mò. Nếu bạn vào xóm Cũ, nơi 183 hộ dân vẫn cương quyết trụ lại, không chịu di dời, thì sẽ thấy cảnh tượng còn hoang tàn nữa, với những đống gạch vụn, những nhà cửa đã bị đập bỏ chỉ còn trơ cột kèo, khung sắt…
Nói Formosa Vũng Áng đã trở thành một “vương quốc”, một xứ sở tự trị, cũng không sai. Dân địa phương phản ánh, kể từ tháng 5/2014 sau khi xảy ra bạo loạn Vũng Áng (mà cho đến giờ, thủ phạm thực sự – kẻ giật dây tất cả – là ai, vẫn là một bí mật), công nhân viên người Đài Loan, Trung Quốc không ra khỏi khuôn viên Formosa nữa. Họ ở luôn bên trong, nơi có đầy đủ siêu thị, trung tâm mua sắm, khu ăn uống, thể thao, giải trí… và nhà máy nhiệt điện riêng để cung cấp hệ thống điện riêng. Bao xung quanh, ngăn với bên ngoài là dãy tường dài hàng kilomet, trên có gắn mảnh chai, sành, và nhất là một hàng rào điện. Nội bất xuất, ngoại bất nhập, người ra vào Formosa phải có thẻ quẹt, mà sau 15 ngày không tác động gì vào thẻ thì nó sẽ tự hủy.
Nhân viên làm việc bên trong không được phép quay phim, chụp hình. Đó là lý do chúng tôi không có được bức ảnh nào về Formosa nhìn từ phía trong, dù đã gặp một số người từng làm nhân viên cho các nhà thầu của tập đoàn này. Tất nhiên, vẫn luôn tồn tại khả năng cho việc những nhân viên người Việt của Formosa bí mật tuồn dữ liệu ra bên ngoài, tuy rất nguy hiểm cho họ. Nguyên tắc “bảo vệ nguồn tin” cần được các blogger, các nhà báo công dân tuân thủ chặt chẽ.
Trong khuôn viên Formosa, có hàng chục tòa nhà cao tầng, được cho là văn phòng cũng như nhà ở của nhân viên. Tại một tòa nhà như thế, nằm sát tường rào, gần mặt đường, người ta thấy cả dàn radar trên mái. Một chiến sĩ đóng quân trên địa bàn Kỳ Anh, với chuyên môn về tác chiến điện tử, nói với chúng tôi rằng tầm nhìn của radar này có thể vươn tới 80 hải lý (khoảng 145 km). Người lính này cũng bảo, ở trong tầm nhìn của radar, “mình làm bất cứ cái gì, Formosa cũng thấy hết”. Nhưng ngược lại, chẳng một ai biết họ đang làm gì trong cái vương quốc của họ.
Hoàng Thành ngạc nhiên: “Thế là mình phải chịu thế à?”.
Cậu lính trẻ đáp: “Thì phải chịu chứ sao. Không ai được vào trong đó hết. Chắc khi nào có chuyện gì cần giúp đỡ thì Formosa sẽ nhờ, nhưng cũng chỉ công an là được phép vào bên trong thôi, bộ đội thì không”.
Mấy người dân địa phương nhiệt tình cho chúng tôi ngồi vào thuyền thúng, chèo ra nơi đậu ghe, rồi đưa ghe ra sát khu vực cảng Sơn Dương và kè đá chắn sóng của Formosa. Sơn Dương là cảng nước sâu, độ sâu 11m, nước một màu xanh thẫm, không thấy đáy. Chiếc ghe trở nên rất mỏng mảnh. Sóng to, dâng cao cả mét, bọt biển liên tục bắn vào ống kính. Đình Hà và Hoàng Thành cứ phải loay hoay đứa chụp ảnh, quay phim, đứa che chắn nước, và cố để không làm ghe mất thăng bằng. Vẫn theo “tiêu chuẩn Mỹ”, lẽ ra không ai được lên thuyền mà không có áo phao. Nhưng ở đây là Việt Nam; cả ba đứa chúng tôi đều im tiệt, coi như không có chuyện gì xảy ra. Đến chỗ này, vào thời điểm này mà còn hỏi ngư dân về áo phao và trang thiết bị an toàn lao động thì thật là lố bịch.
Công trình cảng Sơn Dương vẫn đang được xây dựng giữa biển, gần đảo Sơn Dương. Còn trên bờ, bãi cát vắng hiu hắt, không một bóng người. Hàng chục con thuyền phủ vải nằm trơ. Cách đây mới nửa năm, nơi đây còn vui lắm. Mỗi chiều khi tàu cá về, bà con ào ra đón, hò nhau kéo ghe lên bờ cát, có trông thấy mới hiểu thế nào là niềm vui “cá bạc đầy khoang”. Trẻ con thì ríu rít chơi đùa, đá bóng.
Bây giờ khác rồi.
Xế chiều, khi ghe của chúng tôi trở về, một vài phụ nữ ở trong xóm trên bờ cũng chạy ra đón, giúp kéo ghe lên bãi. Nhưng trong khoang… trống huếch trống hoác. Không có gì cả. Và chúng tôi cảm thấy đắng ngắt: Vẫn tiếng hò ấy, vẫn những giọng nói chào đón ấy, vẫn những động tác quen thuộc ấy của dân biển ngàn đời nay, song có cái khác hoàn toàn, là không còn niềm vui “thuyền anh mãi về cho cá bạc đầy khoang” (*) nữa. Những nụ cười trở nên vô cùng gượng gạo.
Sao biển buồn đến thế?
Đến lúc này tôi mới phát hiện có một vết rách ở bàn chân phải, và nó đang rỉ máu, sưng lên. Vài tiếng sau thì nó nhiễm trùng, sưng húp, mỗi lần lỡ chạm phải quai dép đều đau điếng người. Không hiểu vì sao chỉ từ một chỗ trầy xước mà nó thành ra như vậy. Đình Hà kết luận chắc nịch: “Hoặc do nước cống Hà Nội, hoặc do nước biển nhiễm chì, bác chọn đi!”.
Lại báo hại người dân địa phương chở tôi ra trạm xá, để y sĩ – soeur Vân – sát trùng và băng vết thương lại. Soeur nói nước biển ở đây rất bẩn, độc, nhiều người lặn về thấy khó thở, nhức đầu, ít nhất cũng thấy mệt mỏi.
“Thôi thì chắc cũng như nước cống Hà Nội” – tôi nghĩ.
Chúng tôi ăn chiều cùng bà con. Mâm cơm có trứng, rau, một đĩa tôm và một bát canh đầu cá. Ai cầm bát đũa lên cũng nói như phân trần: “Không phải tôm, cá Vũng Áng đâu nhé”, ý là bảo chúng tôi đừng lo phải ăn hải sản nhiễm độc. Nhưng làm gì còn tôm cá nào ở vùng này nữa mà lo. Cả hai thứ đều là đồ nhập khẩu. Chỉ biết thở dài khi ở giữa xứ làm nghề biển, ở ngay sát bờ biển, mà phải ăn hải sản nhập từ nước ngoài.
(Còn nữa...)
———
(*) Lời bài hát nổi tiếng của dòng nhạc đỏ, “Tình ta biển bạc đồng xanh”, do nhạc sĩ Hoàng Sông Hương (bố đẻ ca sĩ Mỹ Lệ) sáng tác năm 1973

Không có nhận xét nào: