Thứ Bảy, 1 tháng 4, 2017

Bảo Đại trao kiếm giả cho 'cách mạng'?; Sắp đấu giá đồng hồ đắt tiền của vua Bảo Đại

Phạm Cao Phong

  • 4 tháng 9 2015

Bản quyền hình ảnhPHAM CAO PHONG
Image captionCây kiếm này được cho là 'bảo kiếm' được Vua Bảo Đại trao lại hôm 30/8/1945

Mùa thu năm trước Bảo tàng Lịch sử Việt Nam mang chuông sang gióng ở thủ đô Pháp.
Tám mươi hiện vật được chọn lọc và trưng bày tại Bảo tàng Guimet ở thủ đô Paris.
Triển lãm mang tên L’Envol du Dragon – Art royal du Vietnam' tức 'Thăng Long – Nghệ thuật Hoàng gia Việt Nam'.
Mang khoe nước người, muốn hóng cái khen, vơ tiếng nức nở nên đồ được cấp visa này không thể là loại tầm tầm. Nhiều thứ đẹp. Quảng cáo trang nhã.
Song có một hiện vật trái khoáy. Đó là một thanh kiếm rỉ đặt trong một góc khuất tệ hại.

Bản quyền hình ảnhPHAM CAO PHONG
Image captionSử ghi Vua Khải Định là người tiên phong dùng gươm thẳng thay vì gươm cong

Lưỡi kiếm thẳng, lai hình mẫu kiếm Pháp, riêng chuôi và đốc kiếm chạm khắc hình tượng đầu rồng hoàng gia như chú thích -Bien que la forme de cette épée soit française, le décor associé des dragons aux motifs traditionnels du Vietnam impérial - 'Hình dạng của thanh kiếm này giống kiếm của người Pháp, nhưng cách trang trí chạm khắc hình rồng theo mô-típ truyền thống của hoàng gia Việt Nam'.
Âu đến Á, ngay từ giai đoạn đồ đồng với chiều dài hàng nghìn năm cho đến nay, hình ảnh chiếc kiếm là biểu tượng về quốc gia, luật pháp, quân đội, dòng họ. Thế sao thanh kiếm độc hành được mang sang xứ người có tên "An dân bảo kiếm" này lại không biết của ai?
Rỉ đã là quá, lại vô chủ. Lò rèn kiếm cung đình hay những người nghệ nhân tâm huyết tạo ra vật trang sức thần quyền, trưng cái oai, khoe cái sang của một ông vua không lẽ bốc hơi không sót lại một góc chữ ư, mà để oai linh một thời trơ trỏng và vớ vẩn ra thế ?
Những hình ảnh lịch sử ghi nhận chỉ có vua Khải Định tiên phong sắm gươm thẳng, lệch gu với các vua tiền bối.
Vậy "An dân bảo kiếm" có phải là sở hữu riêng của vua Khải Định? Lăng vua ở Huế cũng phô một pho tượng bằng đồng thửa tại Pháp, cao 1m60 hệt người thật. Tượng đặc tả vua ăn mặc và trang sức ai cũng giống và không giống ai với gù vai nguyên soái kiểu châu Âu, huy chương Bắc đẩu bội tinh Pháp, thẻ bài, khăn đóng An Nam, dận ủng kỵ binh châu Âu thêu rồng. Kiếm vua đeo rất gần hình dáng chiếc kiếm có mặt tại bảo tàng Guimet. Khổ là tay trái vua trưng bốn chiếc nhẫn lại nắm đốc kiếm nên không biết đây có phải là "An dân bảo kiếm" hay không.

Thanh kiếm gỉ

Thú vị là cuộc tìm kiếm chủ nhân thanh kiếm rẽ vào một hướng bất ngờ.
Bảo tàng lịch sử Thừa Thiên-Huế cũng có một bức tranh mô phỏng cuộc chuyển giao quyền lực giữa vua Bảo Đại và phái đoàn Việt Minh tại Ngọ Môn ngày 30.8.1945.
Thanh kiếm vương quyền ngày tàn được vẽ là một thanh kiếm thẳng. Trong tâm niệm chung, kiếm thường có dạng cong, lưỡi đơn. Người hoạ sĩ thể hiện bức tranh lịch sử này đã căn cứ vào đâu để khôi phục lại hình ảnh đó? Dĩ nhiên phải có cội nguồn. Không ai dại phơi một bức tranh sai về chi tiết về sự kiện có một không hai đất cố đô, nơi quan trên ngó xuống, người ta xoi vào.

Bản quyền hình ảnhPHAM CAO PHONG
Image captionKiếm được cho là một trong những vật được Vua Bảo Đại trao lại khi thoái vị

Tại Huế 70 năm trước có tới 50.000 người chứng kiến ngày mặt rồng thất thế. Song đến nay tịch chẳng ai trong số đó phản hồi về việc đúng hay sai những chi tiết trong tranh. Vậy "An dân bảo kiếm" có phải là thanh kiếm ông vua cuối cùng của triều Nguyễn đã trao cho phái đoàn Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận? Thanh kiếm tượng trưng quyền lực trong ngày thoái vị 70 năm trước của vua Bảo Đại cũng gỉ, lưỡi kiếm cũng thẳng.
Cù Huy Cận kể trong hồi ký về việc trao ấn và kiếm:
"Sau khi Bảo Đại đọc lời tuyên bố thoái vị, tới nghi thức trao ấn kiếm. Chiếc kim ấn truyền quốc làm bằng vàng ròng, nặng dễ đến ngót 10 kilôgam, anh Trần Huy Liệu vốn sức yếu phải gồng lên mới cầm nổi, còn tôi dĩ nhiên với cái tuổi 26 thì mươi cân cũng nhẹ nhàng thôi. Thú vị nhất là khi cầm cây kiếm, thấy vỏ ngoài dát vàng nạm ngọc rất đẹp, tôi thuận tay rút kiếm ra xem, ai dè bên trong lưỡi kiếm đã bị rỉ, tôi hồn nhiên nói ngay vào micro: "Thưa đồng bào, kiếm nhà vua rỉ hết rồi !..." Mọi người cười ồ. Bảo Đại cũng cười."


Kiếm nào và ấn vàng nào được vua Bảo Đại chuyển giao ngày 30/8/1945? Xung quanh chuyện này có nhiều dị bản. Những ghi chép của Phạm Khắc Hòe, Trần Huy Liệu, Cù Huy Cận, Nguyễn Hữu Đang, lời kể của Thứ phi Mộng Điệp cũng như tài liệu đã công bố của phía Pháp có nhiều mâu thuẫn.
Chuyện tướng Pháp François Jean Antonin Gonzalez de Linares loan báo việc tìm thấy ấn vàng và kiếm triều Nguyễn, chắc chắn không phải ấn kiếm đã được trao hôm 30/8/1945, sau ngày Toàn quốc kháng chiến tại Nghĩa Đô ngày 28.2.1952 rồi tổ chức trao lại cho chính phủ Bảo Đại hôm 8.3.1952 có thể được xem như một đòn chiến tranh tâm lý đánh vào sự ngây thơ, cả tin của dân chúng về những câu sấm, những cơ trời "Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về". Chính ông Phạm Khắc Hòe cũng múa câu sấm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm để khuyên Bảo Đại nhường ngôi. Có trận đánh nào ở vùng này mà lính Pháp đào công sự gần chùa? Lính đi càn gần Hà Nội đào công sự để chống xe tăng Việt Minh tháng 2 năm 1952? Sự nhanh nhẩu trong vòng chỉ một tuần tìm ra báu vật và trao lại, không biên bản thẩm định đó là ấn kiếm thật hay giả, cũng như sự vắng mặt của Bảo Đại trong ngày Pháp tổ chức trao trả giải thích ra sao?
Bằng chứng thuyết phục hơn cả về chuyện trao trả ấn kiếm chỉ là đòn tâm lý là chiếc ấn truyền quốc quý nhất, được chính Gia Long gọi là chiếc ấn truyền ngôi là Kim bảo ấn "Đại việt quốc Nguyễn Vĩnh Trấn chi bảo - 大 越 國 阮 主 永 鎮 之 寶" đúc ngày 6 tháng 12 năm 1709 do chúa Nguyễn Phúc Chu làm hiện là sở hữu của Bảo tàng Lịch sử Hà Nội. Tại sao?
Sách Đại Nam thực lục, do Quốc sử quán triều Nguyễn soạn, chép lai lịch chiếc ấn: "Mùa đông tháng 12 ngày Nhâm Dần, đúc Quốc bảo. Sai Lại bộ Đồng Tri là Qua Tuệ Thư coi việc chế tạo. Năm ấy đúc xong, về sau liệt thánh truyền nhau lấy làm Quốc bảo. Đến khi Duệ tông Hiếu Định Hoàng đế (tức Chúa Nguyễn Phúc Thuần – Định Vương – 1765 – 1775) vào Nam, cũng đem ấn đấy đi theo. Duệ tông Hiếu Định Hoàng đế băng hà thì để lại cho Thế tổ Cao hoàng đế (tức là Nguyễn Thế Tổ – Phúc Ánh – 1802 – 1819).

Bản quyền hình ảnhAFP GETTY
Image captionVua Bảo Đại (trong ảnh cùng Tướng Pháp Jean de Lattre de Tassigny hồi năm 1950 ở Buôn Mê Thuột) không có mặt trong buổi trao lại ấn kiếm năm 1952

"Bấy giờ binh lửa trên 20 năm, ấn ấy mất rồi lại tìm thấy nhiều lần. Mùa hạ năm Nhâm Dần, giặc (nhà Tây Sơn theo cách dùng văn từ của nhà Nguyễn) đánh Sài Gòn, Thế Tổ ra đảo Phú Quốc, điều khiển Ngô Công Quý mang ấn theo sau bị lạc. Đến khi Chu Văn Tiếp phá được giặc, rước vua hồi loan, Công Quý cũng từ Long Hồ đem ấn về hiến. Lại đến chiến dịch Ba Lai, quân Tây Sơn đuổi gấp, tòng thần theo vua mang ấn lội sông chạy, ấn rơi xuống nước, rồi người lội sau vướng chân chạm phải, lại mò được, đem hiến ở hành tại. Lại khi vua lánh giặc (chỉ nhà Tây Sơn) ra ngoài vụng đảo Thổ Châu, từ giá (mẹ vua) và cung quyến (vợ con vua) đều ở lại đảo, vua Xiêm sai tướng là Thát Xỉ Đa đem binh thuyền đến đón vua mời vào nước họ.
"Trong lúc thảng thốt, bụng dạ người Xiêm chưa lường được thế nào, vua mật sai tòng thần là Hựu đem ấn vượt biển lên bờ giấu kín. Khi vua đến thành Vọng Các, thấy vua Xiêm thết đãi rất cung kính, không có ý gì khác, vua mới sai người về đảo Thổ Châu để đón từ giá và cung quyến, tên Hữu cũng mang ấn ấy đi theo. Năm Gia Long, vua dụ Hoàng thái tử, tức Thánh tổ nhân Hoàng đế rằng: “Ấn báu này các đời truyền nhau, ngày xưa đã trải nhiều phen binh lửa, người chẳng chắc còn, mà ấn này vẫn cứ giữ trọn trước sau, chiếu văn và bổ dụng quan lại đều dùng ấn này, giữ tín trong nước, ai cũng hưởng ứng. Ấn này quan hệ với quốc gia không nhỏ, tức là ngôi báu trời cho vẫn có quỷ thần giúp đỡ, khiến cho ngọc bích của Triệu lại trở về. Vả lại nước ta liệt thánh nối nhau, chồng chất sáng hòa, hơn 200 năm, nay nhờ yêu dấu thiêng liêng mà thống nhất cả nước, phúc chứa vốn đã lâu đời... Huống là cái ấn Quốc bảo của tổ tiên ta để lại ư? Từ nay về sau nên lấy ấn này làm vật báu truyền ngôi. Con cháu ta phải đời đời để lại cho nhau, đừng làm mất đi mà truyền đến ức muôn năm dài lâu mãi mãi”.
Như vậy "Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo" ngay khi hai chúa Thế tổ nhà Nguyễn là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương bị Tây Sơn Nguyễn Huệ quây bắt và chém chết tháng 9/1777 tại Cà Mau, chỉ còn cháu trai của Nguyễn Phúc Lân là Nguyễn Ánh lúc ấy mới 14 tuổi trốn thoát sau này trở thành vua Gia Long mà ấn vẫn không bị mất và những lời Gia Long được ghi rõ chính sử Nguyễn nói thay giá trị của bảo vật triều đại này. Nó hiện nằm trong tay chính quyền tiếp quản chính thức nhà Nguyễn thì phải hiểu thế nào cho đúng ? Vua Bảo Đại từ bỏ ngai vàng trở thành công dân Vĩnh Thụy thì đương nhiên đúng theo nguyên tắc phải trao lại ấn này chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Không một chiếc ấn nào khác có đủ tư cách về giá trị pháp lý cũng như tuổi đời lịch sử và văn bản chính thống triều Nguyễn bằng Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo trong việc chuyển giao ngai vàng!
Chiếc ấn này là chiếc thứ hai có tuổi cao nhất của triều Nguyễn, sau chiếc ấn "An Nam quốc thiên hạ thống đô nguyên soái Thụy quốc công" đúc đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên, niên hiệu vua Lê Dụ Tông ở Bắc Hà hiện còn ấn tích trong An Nam quốc thư gửi cho Shogun (tạm dịch là lãnh chúa) Tokugawa Kitanomaru được bảo quản tại Lưu trữ quốc gia Nhật bản cùng nằm trong Palais Imperial quận Chiyoda Tokyo.


Theo ông Paul Boudet (1888-1948) các vua Nguyễn có 46 chiếc ấn, phần lớn được chế tạo sau thời Minh Mạng. Danh mục Kim bảo tỷ triều Nguyễn tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (bằng vàng, bạc, vàng pha đồng, bạc mạ vàng) là 44 chiếc. Sớm nhất là Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo (vàng 10 nặng 64,43 lạng), muộn nhất là Hoàng thái tử bảo (đúc năm 1939, vàng 10 nặng 63 lạng). Nặng nhất là Hoàng đế Tôn thân chi bảo (đúc năm 1827, Minh Mệnh, vàng 10 nặng 234,43 lạng) kế đến là Sắc mệnh Chi bảo (đúc năm 1827, Minh Mệnh, vàng 10 nặng 223,60 lạng).
Như vậy ngoài chiếc "An Nam quốc thiên hạ thống đô nguyên soái Thụy quốc công" còn dấu tích ở Nhật còn những ấn nào thiếu khác? Chiếc được cho là bị mất trong triển lãm năm 1961 ở Hà Nội và sau đó có thể đã bị nấu chảy là chiếc ấn nào? Ấn Bảo Đại mang sang Pháp được khoe "Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về" thực hư ra sao? Sự có mặt tại Hà Nội Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo với câu nói của Gia Long "Từ nay về sau nên lấy ấn này làm vật báu truyền ngôi. Con cháu ta phải đời đời để lại cho nhau, đừng làm mất đi mà truyền đến ức muôn năm dài lâu mãi mãi” có thể an ủi nhiều người rằng con cá to vẫn sờ sờ ra đấy mà không phải là con cá sổng. Chiếc ấn mà nhiều người cho là quốc ấn ông Bảo Đại thác lại cho bà Tây Monique Marie Eugène Baudot cũng chẳng mấy quan trọng. Ví như cái khất, cái nợ, như đồng tiền vay rồi không quỵt nổi, hối lại người khác máu đã cưu mang hùm thiêng ngày xa cơ. Mà Tây tìm thấy thì về lại trời Tây, như "cáo chết ba năm quay đầu về núi".
Song chính vì thế câu chuyện trở nên rắc rối. Nếu đúng, mà phải đúng như thế tại sao Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo không được trưng bầy trong Bảo Tàng như chứng nhân ngày dòng chảy lịch sử đất Việt chuyển dòng cách đây đúng 70 năm ? Không một ai, không một dòng nào, không một người nào trực tiếp hay gián tiếp liên quan đến sự kiện này chìa tay đưa nhân chứng lẽ ra có một không hai này ra ánh sáng. 70 năm tăm tối của Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo cộng thêm câu chuyện chiếc kiếm gỉ dẫn chúng ta đi về đâu. Nếu chiếc ấn này vắng mặt trong ngày thoái vị của vua Bảo Đại đồng nghĩa với việc chuyển giao ngai vàng là không thành thật và sự góp mặt của nhân chứng thứ hai là thanh kiếm gỉ củng cố thêm nhận định này.

Những góc khuất

Sự kiện Bảo Đại thoái vị ngày 30.8.1945 phải có những góc khuất
Nghi vấn đặt ra: kẻ nào dám trểnh mảng để quốc bảo mốc gỉ? Triều Nguyễn nổi tiếng hà khắc. Nguyễn Văn Thành là một thí dụ. Vì vỏn vẹn mấy vần thơ ngông của con trai mà khai quốc công thần này phò hai chúa Nguyễn từ thủa hàn vi, lập nhiều chiến công rường cột trong chiến tranh chống Tây Sơn còn bị bức tử, con trai trưởng Nguyễn Văn Thuyên lấy con gái vua Gia Long bị xử chém. Ông là tướng đi theo Định Vương Nguyễn Phúc Thuần từ năm 1773 lúc Nguyễn Ánh mới 11 tuổi, đánh trận từ Nam ra Bắc, đồng thời phụ trách biên soạn hai quyển sách quan trọng nhất của Triều Nguyễn là Hoàng Việt luật lệ (gọi Nôm là Luật Gia Long) và Quốc triều thục lục viết về chính sử nhà Nguyễn. Công lao lừng lẫy đánh trăm trận đến chức đại tướng rồi Thượng Công không được xét, chạy tới nắm áo vua van xin còn bị phủi tay, phải uống thuốc độc. Thế phường thấp cổ bé họng hưởng lộc Chúa há dám bỏ đồ thờ tự han rỉ, thân mọc ra được mấy đầu mà ghẹo gươm đồ tể ? Quàng cái tiếng người hầu trong cung đã đeo khoe rinh lên rồi thì chuyện được tuyển vào bảo quản đồ đạc thân thiết của vua chắc khối kẻ nhòm ngó, thậm chí chạy vạy để nương cái hơi cái bóng mà ngông với làng với xóm. Nhà nào lọt sàng xuống nia tót qua cửa cung được kén chùi đồ ngự bảo chắc phải lấy làm đắc ý, không có bụi cũng tìm ra để quét thì kiếm vua rỉ đến cốt hẳn là chuyện đáng nói.

Bản quyền hình ảnhAFP GETTY
Image captionVua Bảo Đại tuyên bố thoái vị cách đây 70 năm

Lệ nhà Nguyễn được ông Phạm Khắc Hoè viết rõ: "Hàng năm vào ngày 20 tháng Chạp Âm lịch, triều đình tiến hành lễ Phất Thức. Phất thức là mở hầm lấy tất cả các thức ra để kiểm điểm và quét bụi bặm, lau chùi thật sạch rồi lại cất vào hầm khoá lại. Làm những việc này các quan từ nhị phẩm trở lên mới được dự lễ Phất thức và phải tự mình làm lấy mọi việc, đưa ra, cất vào, dọn dẹp lau chùi. Trong dịp lễ Phất thức tháng Chạp năm Giáp Thân (tháng Giêng năm 1945), tôi đã theo dõi sát việc kiểm điểm và các bản kiểm kê đều được làm lại bằng chữ Quốc ngữ chứ không phải bằng chữ Hán như trước." Đó là một việc.
Việc thứ hai là những thanh kiếm và những đồ binh khí chiến tranh đều là những sản phẩm được chế tạo rất tốt. Nghệ thuật rèn kiếm ở một nước như Việt Nam đã đạt đến đỉnh cao. Lưỡi kiếm Thái A của vua Gia Long bị quân Pháp lấy ngày 5 tháng 7 năm 1885 khi tấn công Huế là một ví dụ. Thanh kiếm được trưng bầy trong Bảo tàng quân đội Pháp Invalides vẫn sáng loáng mặc dù tuổi cao. Vậy ông Bảo Đại thửa ở lò rèn nào đất Thần Kinh thời thái bình hiền hoà một chiếc kiếm tuổi trẻ sức yếu? Chỉ có thể luận ra rằng đây là đồ giả, một cây kiếm rèn rất non, qua quýt, hoặc đồ dùng để diễn tuồng trên sân khấu. Trao nhau đồ giả đơn giản định nghĩa là lừa nhau. Mà lừa ngày thoái vị thì to chuyện rồi.

Lịch sử có thể sang trang như thế nào?

Bảo Đại bọc trong Đại Nội không biết những biến cố xảy ra với đất nước. Năm 1945 Việt Nam trải qua một nạn đói lịch sử đến hai triệu người chết. Không có một động thái nào được ghi nhận của nhà vua về thảm cảnh của đất nước. Ông cũng không biết đối thủ chính trị là ai khi nhận được bức điện của Việt Minh mới nói ông Phạm Khắc Hoè chạy ra ngoài nghe ngóng. Hài như chuyện sai ra chợ mua con cá, mớ rau.
Vua Bảo Đại viết:
"Sau đó ít lâu, giám đốc Bưu điện Huế xin được gặp tôi. Ông ta đưa cho tôi một điện tín nhận được từ Hà Nội. Nội dung bức điện tín: "Trước lòng quyết tâm của toàn thể dân tộc sẵn sàng hy sinh để bảo vệ nền độc lập quốc gia, chúng tôi kính cẩn xin Hoàng Thượng làm một cử chỉ lịch sử là trao quyền lại". Điện tín này được ký bởi "Ủy ban Nhân dân Cứu quốc đại diện mọi đảng phái và mọi tầng lớp nhân dân". Nhưng không có tên ai. Tôi không biết ai là những thủ lãnh …Đã đến lúc tôi phải có một sự lựa chọn để dung hòa số phận của tôi với số phận của dân tộc tôi… là tôi phải ra đi. - Nhưng ai là người tiếp nhận sự ra đi của tôi?
"Tôi bảo người em họ Vĩnh Cẩn và Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hòe ra ngoài thành Nội hỏi tin tức về Việt Minh. Cả hai trở về chả biết chi cả. Tôi đành đánh đại một bức điện tín gửi trống không “Ủy ban Nhân dân Cứu quốc” ở Hà Nội."


Lẩn tránh lịch sử mà ông Phạm Khắc Hoè thoái thác là trong hồi ký không nói chiếc ấn nào và chiếc kiếm của ai đã được chuyển giao ngày 30.8.1945 trên lầu Ngọ Môn. Là người tổ chức, vận động vua thoái vị, người giữ trọng trách về giấy tờ, sổ sách của vua, thông thạo chữ Hán, là người xuất kho ấn vàng và kiếm sao ông bỏ qua chi tiết quan trọng này? Ông sơ sài:
"Chiều 27 và sáng 28 tháng 8 năm 1945, tôi cho kiểm kê lại các thứ tài sản trong Đại Nội để giao cho Chính quyền Cách mạng. Nói đến của công trong Đại nội lúc bấy giờ thì quý giá nhất là các đồ vật bằng châu báu ngọc ngà có tính lịch sử của các Vua Nguyễn. Các thứ này được cất trong một cái hầm lớn mé sau điện Cần Chánh."
Trước đó chỉ có ba ngày ông là người đích thân kiểm tra đồ chuyển giao mà thanh kiếm kịp rỉ? Ông không muốn lưu lại dấu vết tên tuổi thanh kiếm và ấn báu ngày 30.8.1945 trên giấy trắng mực đen? Đây phải đặt một câu hỏi rất lớn. Ấn Đại Việt quốc Nguyễn vĩnh trấn chi bảo mới chính là Quốc ấn có được chuyển giao vào ngày ấy không? Chiếc ấn đó đi vào Bảo tàng lịch sử Việt Nam bằng con đường nào? Nguyễn Hữu Đang viết ấn có tên Vương quốc chi ấn. Nghĩa là nó đã được chọn đóng vai hình nhân thế mạng cho Đại Việt quốc Nguyễn vĩnh trấn chi bảo. Ngày thoái vị Bảo Đại còn giao cho phái đoàn Trần Huy Liệu thêm một bộ quân cờ bằng ngọc và nhiều vật dụng khác của nhà vua. Những vật này đâu phải là biểu tượng chuyển giao quyền lực. Liệu có phải chỉ là cách phân tâm? Hiện chúng ở đâu?


Khi ông Cù Huy Cận phát hiện ra thanh kiếm rỉ, ông Bảo Đại đã đánh trống lảng với câu hỏi? "Thưa Phái đoàn, từ nay tôi là một người dân bình thường của nước độc lập, xin Phái đoàn cho tôi một vật gì để kỷ niệm cái ngày này.?"
Hồi ký của Huy Cận ghi tiếp: "Ý kiến bất ngờ. Chúng tôi hội ý và tôi nhanh tay rút chiếc Huy hiệu cờ đỏ sao vàng mà Ủy ban nhân dân Cách mạng Thừa Thiên Huế tặng các thành viên của Phái đoàn và cài lên ngực Bảo Đại, đoạn nói to: "Xin đồng bào hoan nghênh công dân Vĩnh Thụy".
Vua cũng quái, làm ông đại diện lúng túng phải kéo nhau ra hội ý. Bảo Đại lúc ấy 30 tuổi. Cái tuổi coi "biển chỉ nông đến đầu gối". Là một tay chơi bạc nhà nghề, săn gái và săn thú. Ông đã nhìn con mồi của mình như thế nào? "Sáng ngày 25-8, có hai đặc phái viên, đại diện "Việt Nam Độc lập Đồng minh" từ Hà Nội vào: Trần Huy Liệu, trưởng phái đoàn, là phó chủ tịch Ủy ban. Một người gầy gò trông rất thảm hại, đeo kính đen để giấu cặp mắt lé. Người đi cùng là Cù Huy Cận, trông cũng quá tầm thường. Tôi hơi thất vọng. Trần Huy Liệu đưa cho tôi một giấy Ủy quyền có mang chữ ký không rõ là của ai."
Trong tiếng Pháp dùng với nhau đến chữ "minable" (thảm hại) là quá lắm.
Bảo Đại có phải là người dễ bị hù dọa? Chắc chắn là không. Vậy ông sẽ làm gì ? Ông sẽ coi đó như những cuộc nổi loạn nông dân, hay cùng lắm như loạn Cần Vương của Hàm Nghi cuối cùng cũng thoái trào? Tây Sơn cường mạnh cũng không còn đất chôn thây trên cái ban công nhìn ra biển Đông mà người Pháp giúp xây dựng nên. Vậy chưa có súng nổ, đầu rơi, mới nhận mảnh giấy không ai ký mà khấu đầu nộp ấn kiếm và ngai vàng tổ tiên truyền lại đã hơn 200 năm? Sau này phát hiện đấy chỉ là một đảng lừa bịp, tống tiền lấy lại được ngai thì thiên hạ nhìn Thiên tử là con gì? Rồng chắc là không phải rồi. Tại sao không đi với ma mặc áo giấy?
Không biết vua Bảo Đại có thừa hưởng được gì nhiều ở đằng ngoại. Một gia đình cũng chẳng phải vừa. Ông ngoại Bảo Đại là Hoàng văn Tích là người dám nghĩ, dám làm, không nghĩ cũng làm. Khi vợ có con thứ hai liền đón chị vợ về chăm lo việc nhà, kèm phụ thêm việc giường chiếu với ông, có con với bà này sinh ra bà Hoàng Thị Cúc sau là mẹ đẻ của Nguyễn Phúc Vĩnh Thuỵ. Mẹ bà Cúc xấu hổ với em gái, sinh con xong trở về quê tái giá. Bà Hoàng thị Cúc lại bị anh gán nợ vào làm người hầu trong phủ hai bà goá của vua Đồng Khánh. Từ chân vị kẻ osine, bà ẵm được ông hoàng có tiếng là không thích gần đàn bà lên giường, đúc ra vua Bảo Đại một bước lên bậc mẫu nghi thiên hạ. Cách mạng chỉ mới đặt mục tiêu "người cầy có ruộng", sau còn đuối phải thu ruộng lại cho vào hợp tác xã. Bà cũng xuất thân thành phần nghèo khổ mà thành mẹ thiên hạ. Đường cách mệnh nào có kém. Khó phải ló cái khôn. Khôn ấy như thế nào ? Bảo Đại biết rất rõ Quốc bảo nhà Nguyễn song quyển sách "Con rồng An Nam" cũng không chỉ mặt nêu tên thanh kiếm và chiến ấn truyền ngôi. Một khoảng trống cố tình lướt qua như Đổng lý ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hoè. Chúng ta có được chứng kiến lịch sử đúng như sách báo viết hay không ?
Trần Huy Liệu không xa lạ gì với Đổng Lý Phạm Khắc Hòe. Ông Liệu là người tuyên truyền, giác ngộ bà Nguyễn Thị Hy thành vợ bé, có hai con với ông. Mặc dù ông Liệu đó có vợ là Nguyễn Thị Tý và bốn con ở quê. Bà Hy lại là vợ con trai trưởng Phạm Giao của Thượng thư Phạm Quỳnh bạn đồng môn với ông. Thời ấy miệng dân gian ghen ăn tức ở chửi dẻo ấy là phường "trốn chúa lộn chồng" hay "mèo mả gà đồng gặp nhau". Trong một xã hội Nho giáo, khép kín ở mảnh đất bé tí như Huế vai vế Trần Huy Liệu với việc tòm tem này tự liệt vào hạng con cháu. Thậm chí có tin đồn rằng ông là người chủ mưu giết Phạm Quỳnh do tư thù. Sau này chính Trần Huy Liệu trong vai Bộ trưởng Thông tin và tuyên truyền đã dựng nên câu chuyện Lê Văn Tám đốt kho xăng Pháp. Báo hại bao nhiêu năm học sinh miền Bắc cứ phải nhai cái tầm phào khốn khổ. Con trai Trần Huy Liệu còn viết về cha: "Khi nghe tin Tòa Án quân sự Bungaria lần lượt kết án 2000 người là phản bội cách mạng phải chịu các bản án từ chung thân khổ sai đến tử hình thì ông Liệu còn mang tờ thông tin quốc tế ấy sang phòng Hồ Chí Minh: "Đấy, đồng chí Dimitrov, trong việc trấn áp phản cách mạng đã chặt hàng ngàn cái đầu phản động. Cụ có thấy cái chính quyền cách mạng nào hiền lành đến nhu nhược như chính quyền của Cụ không?"
Khi lần đầu tiên gặp Trần Huy Liệu, ông Phạm Khắc Hòe đã nêu câu hỏi rằng trong tháng Tám, Bảo Đại và ông đều chưa nhận được lương. Câu hỏi này có nhằm mục đích thăm dò thực quyền của những người đại diện cho một Ủy ban cách mạng? Chắc chắn. Cầm quyền, làm chủ thì phải có xèng cho người làm. Không xèng, đeo kính đen, chân thấp chân cao có phải là ăn trộm gà bị đánh què chân, cầm tờ giấy chữ ký lí nhí vào gặp, chủ nhà không lăn tăn ư? Lạ.
Nếu đã không phục Trần Huy Liệu và không tin vào quyền lực của Phái đoàn, Đổng lý Phạm Khắc Hòe hiến kế gì cho Bảo Đại? Như thế màn kịch đóng thế được dàn dựng. Một chiếc kiếm giả được tức tốc làm và ngày 28.8 Phạm Khắc Hòe vào kho trong điện Cần Chánh mà chỉ một mình ông được quyền vào và lựa một chiếc thế mạng cho quốc ấn "Đại Việt quốc Nguyễn vĩnh trấn chi bảo"?

'Đáng đồng tiền bát gạo'

Trong Hồi ký chính trị "Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc" ông Hòe có nhắc đến một câu bằng tiếng Pháp Bảo Đại nói khi bàn bạc với ông chuyện bàn giao chính quyền. Đó là câu "ça vaut bien le coup alors" - nôm na trong tiếng Việt - Đáng đồng tiền bát gạo - Cũng bõ công làm. Trong ngữ cảnh trước mắt thành dân đen, hồ hởi như thế cũng hơi quá. Khi bàn một canh bạc có lãi mới xoa tay "được đấy, quả này đậm! – Ca vaut bien le coup alors".
Không ai đứng trước viễn cảnh ngày mai mất việc, tiền đồ tối như đêm 30 lại hỷ hả "ça vaut bien le coup alors", chứ đừng nói một ông sắp mất ngai vàng ! Phái đoàn tiếp nhận việc chuyển giao chính quyền ngày ấy không phải là đối thủ xứng tầm với Bảo Đại và Phạm Khắc Hòe? Họ chỉ thấy " cái quý " ở bề ngoài lóng lánh, hý hửng cái nằng nặng ẵm về mà nhãng bỏ thêm vài chữ nữa về ấn ấy, kiếm ấy ra sao. Nguyễn Hữu Đang, người dựng kỳ đài cho ông Hồ đọc Tuyên Ngôn độc lập khá hơn, ông cấu ít sử cho vào trang viết về ngày 2.9.1945:
"Trở về phòng thường trực Ban Tổ chức, tôi yêu cầu Trần Lê Nghĩa, cũng là Phó Ban Tổ chức sửa soạn ngay một chiếc bàn con kiểu trang nhã có kèm theo một khăn phủ bằng nỉ hay lụa màu xanh lá cây và dặn:
"- Ấn, kiếm sẽ để trên bàn ấy kê trước mặt Cụ Hồ.
"Ấn và kiếm này đều bằng vàng là hai bảo vật tượng trưng cho quyền lực của nhà Nguyễn trên nửa phía Nam đất nước rồi trên toàn bộ đất nước. Lưỡi kiếm cũng bằng vàng như vỏ kiếm nhưng dày hơn, chỉ ngắn bằng hai phần ba vỏ kiếm, chỗ bản rộng nhất độ hai phân, vuốt nhọn như lá lúa. Vỏ kiếm chạm nổi tỉ mỉ. Bàn tay thợ điêu luyện đã gửi vào đây tinh hoa lao động mỹ nghệ. Nó đẹp huy hoàng như một nàng công chúa trong truyện cổ tích. Nó được làm từ bao giờ tôi không rõ. Còn ấn, theo một nhà nghiên cứu sử, nó được đúc vào quãng năm 1744, Đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Trên ấn hình vuông (núm to cũng hình vuông) Nguyễn Phúc Khoát cho khắc bốn chữ Hán “Vương quốc chi ấn” có ý nghĩa tuyên ngôn chính trị để tỏ thái độ ly khai, xưng vương, độc lập đối với triều Lê, thực chất là đối với chính quyền lũng đoạn của họ Trịnh, đồng thời cũng là bất chấp việc nhà Thanh chối từ phong vương cho chúa Nguyễn vì vua Lê vẫn còn." (Hồi ký Nguyễn Hữu Đang).
Chiếc ấn từ Huế về theo những ghi nhận đương nhiên chính xác nhất phải là của Đổng lý ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hoè là 10 kg vàng ròng, Trần Huy Liệu kể lại chỉ nặng hơn 7kg, đến tay Nguyễn Hữu Đang đã ra mồ hôi, ngót đi còn 5 kg, như luộc rau muống. Ông thuật lại khá vui, 70 năm sau xem lại vẫn còn cười được:
"Đến lượt Trần Huy Liệu báo cáo. Tôi đứng sẵn trên chiếc bàn con để ấn, kiếm. Ông Liệu nói đến chỗ Bảo Đại trân trọng nộp ấn, kiếm, tôi sẽ bấm cánh tay ông để ông tạm ngừng lại. Rồi tôi, tay phải cầm lấy thanh kiếm, tay trái thản nhiên dùng năm đầu ngón tay nhón cái núm chiếc ấn, định cứ thế cùng một lúc giơ cả hai thứ lên cao để đồng bào thấy. Chẳng ngờ thanh kiếm tương đối nhẹ, một tay tôi thừa sức điều khiển, còn chiếc ấn bướng bỉnh cứ ỳ ra, không nhúc nhích – nó nhỏ thôi mà sao nặng quá thế! (sau này tôi mới biết nó nặng trên 5 kilôgam). Tôi vội buông thanh kiếm, dùng cả hai tay lấy hết sức lôi chiếc ấn lên cách mặt bàn độ ba mươi phân, luồn tay phải xuống phía dưới, lựa cho nó nằm trên cùi bàn tay để ngửa rồi cúi mình co cánh tay từ từ nâng thẳng nó lên như lực sĩ cử tạ. Trong khi tay trái với thanh kiếm giơ lên ngang chiếc ấn… Tôi cố đứng vững, hai tay dựng thẳng như thế bốn năm phút liền. Cánh tay nâng chiếc ấn bắt đầu mỏi, buốt và đe dọa sa đà dúi xuống. Tôi đã kịp thời hạ chiếc ấn lừa dối, tai ác xuống cùng với thanh kiếm thật thà, hiền lành thở phào nhẹ nhóm.


"Năm 1992, đọc hồi ký của ông Liệu, tôi mới biết ngày 30/8/1945, trên Ngọ môn, trong động tác trưng ấn, kiếm để đồng bào Huế coi, ông cũng đã chủ quan, bất ngờ và lúng túng, vất vả như tôi, thâm chí hơn tôi: Ông đuối sức đến suýt bị siêu vẹo. Cả hai chúng tôi đều kiệt xác, chưa bao giờ được cầm vàng tới vài đồng cân nên khó lường sức nặng của nó."
Chữ ông dùng "chiếc ấn lừa dối, tai ác" cùng "thanh kiếm thật thà" không biết có thêm xa xôi gì không. Hữu Đang cũng chỉ vô tình ngó chữ Trần Huy Liệu kể về sự kiện này 47 năm sau. Yêu nhau củ ấu cũng tròn mà gần nửa thế kỷ sau mới đọc những dòng tâm huyết của cựu đồng chí thì kể ra người đời ăn ở với nhau khó biết bụng dạ.
Chiếc kiếm gỉ trong tay Huy Cận ngày 30.8.1945 biến thành một chiếc kiếm vàng trong tay Hữu Đang trong vòng có ba ngày. Mà vàng thì không ai dùng để làm kiếm và vàng cũng chẳng bao giờ rỉ. Ông Trần Huy Liệu trước đó đã nói có trình lên ông Hồ Chí Minh và thường vụ Trung Ương ấn và kiếm lặn lội mang về từ Huế. Họ đã phát hiện ra đây là việc giả mạo và thay vào đó một thanh kiếm khác? Vàng gỉ là vàng giả.
Một chi tiết trong ngày 2.9.1945 cũng được ông Hữu Đang kể lại về ông Hồ Chí Minh khá dí dỏm. Ông Hồ thường được mô tả như là người tinh tế, mưu lược. Ông Lê Giản Tổng giám đốc công an Bắc Bộ lúc đó đã từng kể chuyện ông Hồ Chí Minh khéo léo lợi dụng mâu thuẫn giữa Archimedes Patti và Lư Hán để thoát khỏi tay tướng Tưởng Chu Phúc Thành ở Đại bản doanh Bộ tư lệnh quân đoàn 63 tại khu Đồn Thuỷ. Bảo Đại cũng khen Hồ Chí Minh: "Nói thật, tôi thích tư thế của ông (Hồ) hơn những lãnh tụ quốc gia, thật sự chỉ là bù nhìn của bọn Tàu. Trong sự hỗn độn tôi thấy Hồ chí Minh vẫn giữ được trầm tĩnh."

Bản quyền hình ảnhPHAM CAO PHONG
Image captionTriều Nguyễn có hơn 40 chiếc ấn các loại nhưng hiện không được trưng bày đầy đủ

Nguyễn Hữu Đang viết gì: "Trần Huy Liệu báo cáo xong, tôi vẫn đứng cạnh micrô để tiếp tục điều hành buổi lễ. Quay về phía Nguyễn Lương Bằng, đại diện Tổng bộ Việt Minh ngồi ở hàng ghế đầu, tôi sẽ cúi đầu, lùi lại một bước để nhường chỗ, tỏ ý mời ông đến phát biểu ý kiến như đã ghi trong chương trình.
"Bỗng Cụ Hồ đứng phắt dậy, nhanh nhẹn cầm lấy thanh kiếm, thong thả bước tới micrô, rút mạnh lưỡi kiếm ra khỏi vỏ rồi vừa giơ nó lên cao hết tầm tay, vừa thét lớn đến làm rung động không gian quảng trường, chậm rãi dằn từng tiếng:- Thanh kiếm này là để chặt đầu những tên phản quốc."
Ông Hồ Chí Minh đã nổi giận vì học trò của ông bị qua mặt? Cạnh câu nói "Đồng bào nghe tôi nói có rõ không?" khác cái cử chỉ, khác cái tông "Thanh kiếm này để chặt đầu những tên phản quốc", khác lắm.
Vậy chiếc kiếm trưng bày ở bảo tàng Guimet nhiều khả năng là chiếc kiếm ngày 30.8.1945. Kiếm giả là rõ rồi. Nhưng vứt đi thì không dám, mà bầy cũng rởm. Đi mắc núi, về mắc sông. Hệt như chuyện món gân gà Tào Tháo. Nuốt không trôi, dai nhách. Ấn giả, kiếm gỉ ngày thoái vị, góc khuất lịch sử ấy sao mà lớn thế!
70 năm đi qua người Việt trong nước mới được xem hai lần cái gia tài họ giành được triều đại Nguyễn. Họ sẽ phải chờ bao lâu nữa mới được xem đầy đủ 44 cái ấn triều Nguyễn, hy vọng hé thêm những cánh cửa bí mật. Mười năm, hai mươi năm hoặc lâu hơn nữa?

Sắp đấu giá đồng hồ đắt tiền của vua Bảo Đại

  • 9 giờ trước
bảo đạiBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionCựu hoàng Bảo Đại rời Điện Elysee, Pháp, tháng 2/1948 sau một cuộc họp
Nhà sử học tại Huế bình luận về vua Bảo Đại nhân chiếc đồng hồ 'Bao Dai' Rolex của ông dự kiến được bán đấu giá tại Geneva, Thụy Sĩ vào tháng 5/2017.
Công ty Phillips, nơi tổ chức đấu giá lần này, cũng là công ty đã đưa đồng hồ ra đấu giá năm 2002, với giá kỷ lục cho một đồng hồ Rolex khi đó. Nay công ty Phillips nói họ ước tính trị giá đồng hồ 'Bao Dai' Rolex là khoảng 1.5 triệu đôla.
Bảo Đại, tên khai sinh: Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, (1913 - 1997) là vị hoàng đế thứ 13 và cuối cùng của triều nhà Nguyễn, cũng là vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam.
Theo website le-monde-edmond.com, chiếc đồng hồ là "chiếc Rolex tinh xảo nhất từng được chế tạo", có mặt đen thuộc loại hiếm nhất và được sưu tầm nhiều nhất.
"Vị vua cuối cùng của Việt Nam có những vật phẩm đắt tiền và sở thích tinh tế, từng sở hữu chiếc Ferrari, đặt hàng chiếc đồng hồ 6062 dây Oyster mặt đen nạm 5 viên kim cương, có lịch Mặt trăng (Âm lịch) bằng vàng - chiếc đồng hồ đắt nhất xuất xưởng từ công ty Rolex năm 1954," website này viết.
"Đơn giản đó là vua của tất cả đồng hồ Rolex ở thời điểm đó. Không có chiếc nào đắt hơn. Việc mua chiếc đồng hồ này giống như đặt hàng chiếc Bentley R loại Continental hồi thập niên 1950 vào thời điểm đó. Đó là những vật phẩm đắt nhất và sang trọng nhất."
Vua Bảo Đại mua chiếc đồng hồ này tại Geneva năm 1954 trong lúc tham dự cuộc hòa đàm Đông Dương.
bảo đạiBản quyền hình ảnhLE-MONDE-EDMOND
Image captionChiếc đồng hồ được bán lần cuối là năm 2002
Vua Nguyễn 'hiểu về phương Tây nhất'
Hôm 31/3, trả lời BBC từ Huế, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân nói: "Tôi không có nhiều thông tin về phiên đấu giá đồng hồ của vua Bảo Đại sắp tới, nhưng tôi biết ông ấy là người dùng những đồ vật tốt, sang trọng, tương thích với tư cách của một ông vua."
"Những món đồ ấy có thể do nhà vua mua hoặc do được quốc khách tặng."
"Tôi được biết trong quãng thời gian sống tại nước ngoài, nhà vua sinh sống bằng nguồn tiền của ông, người Mỹ có đưa tiền cho nhưng ông không nhận."
"Về các cuộc đấu giá vật phẩm đắt tiền của triều Nguyễn ở nước ngoài, Việt Nam đang khó khăn nên không dễ gì mua được và có nhiều chuyện cần làm hơn."
Nhà nghiên cứu cũng cho rằng: "Bảo Đại là vị vua nhà Nguyễn hiểu về phương Tây nhất, hơn cả vua Duy Tân."
"Theo tôi, đã đến lúc cần viết lại về triều đại gắn liền với cách mạng Việt Nam, làm rõ cuộc đời của vua Bảo Đại."
"Sách sử về nhà vua phần lớn cũng do người Pháp viết chứ ít thấy người Việt nào viết đúng về ông."
"Lâu nay người ta chỉ nói cái dở chứ chưa đề cập nhiều về những cái hay của nhà vua," ông Đắc Xuân nói với BBC.

Bộ quy tắc COC sẽ do Trung Quốc sắp đặt ?Kyodo: ASEAN, TQ ra bản thảo khung pháp lý đầu tiên về an ninh Biển Đông; Trung Quốc thật sự muốn gì ở Biển Đông?




Thanh Phương


mediaBản đổ Biển Đông.DR
Theo hãng tin Kyodo của Nhật, hôm qua, 30/03/2017, các giới chức cao cấp ASEAN và Trung Quốc vừa đưa ra dự thảo khung đầu tiên cho Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) trong một cuộc họp ở Seam Reap, Cam Bốt.





Toàn bộ các nước thành viên của ASEAN và Trung Quốc sẽ đem bản dự thảo khung đó về để nghiên cứu, sau đó các quan chức cao cấp sẽ tiếp tục thảo luận tại một cuộc họp vào tháng 5 ở Trung Quốc. Tuy nhiên, nội dung của bản dự thảo COC hiện vẫn chưa được tiết lộ.
Sau nhiều năm tìm mọi cách để trì hoãn, vào năm ngoái, Trung Quốc đột nhiên tỏ ý muốn hoàn tất các cuộc thương thuyết về Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông ngay trong sáu tháng đầu năm nay, nhằm giảm bớt căng thẳng giữa Bắc Kinh với ASEAN do tranh chấp chủ quyền ở vùng biển này.
Bộ quy tắc COC sẽ là một văn bản mang tính ràng buộc pháp lý, để thay thế cho bản Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông DOC, mà ASEAN đã ký với Trung Quốc từ năm 2002, nhưng không mang tính ràng buộc pháp lý.
Trang mạng của tờ nhật báo đứng hàng thứ hai của Singapore, tờ Today, hôm nay, 31/03, có đăng một bài nhận định về bộ quy tắc COC. Tác giả bài viết là tiến sĩ Termsak Chalermpalanupap, thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore.
Việc Trung Quốc đột nhiên muốn hoàn tất việc soạn thảo bản dự thảo COC trước cuối tháng 6 năm nay đã khiến các nước ASEAN rất hào hứng. Nhưng cái mà Trung Quốc gọi là « dự thảo » thật ra chỉ mới là một khung sườn của thỏa thuận, có thể được trình bày trong vòng chưa tới 60 phút. Phía Trung Quốc hiện chưa cho biết là họ sẽ bổ sung cho khung sườn đó như thế nào để bộ quy tắc COC thật sự có thực chất. Hiện có ít nhất năm câu hỏi chưa có lời giải đáp :
 COC sẽ được áp dụng cho những khu vực nào ?
Đây chính là câu hỏi đã từng khiến các quan chức ASEAN và Trung Quốc « nhức đầu » ngay từ những năm 2001-2002, khi họ bắt đầu bàn về việc soạn thảo COC. Việt Nam đã muốn là phạm vi địa lý áp dụng bộ quy tắc ứng xử này phải bao gồm cả quần đảo Hoàng Sa, nhưng Bắc Kinh cho rằng quần đảo này không còn là nơi tranh chấp chủ quyền nữa, kể từ khi bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm từ tay quân đội Việt Nam Cộng Hòa vào tháng 01/1974.
Lúc đó hai bên đã tạm thời giải quyết bất đồng nói trên thông qua bản Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông, vì bản tuyên bố này không xác định rõ phạm vi địa lý áp dụng.
Nay vấn đề phạm vi áp dụng lại nổi lên như là một vấn đề nan giải trong cuộc đàm phán về COC. Không phải nơi nào ở Biển Đông cũng cần bộ quy tắc ứng xử. Những quốc gia ven biển được phép làm gì và không được phép làm gì trong phạm vị 12 hải lý và trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý theo quy định của luật pháp quốc tế hiện hành, đặc biệt là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển ( UNCLOS )?  Cũng không cần những điều luật gì mới cho các vùng biển quốc tế trên Biển Đông.
Phạm vị áp dụng của COC lại càng bị thu hẹp vì các nước tranh chấp nay thỏa thuận với nhau là các tranh chấp song phương có thể được giải quyết bởi hai bên có liên quan trực tiếp. Chẳng hạn như Hoàng Sa là quần đảo chỉ có tranh chấp giữa Việt Nam với Trung Quốc, hay bãi cạn Scarborough chỉ là nơi tranh chấp giữa Trung Quốc với Philipoines. Cho nên hai nơi này không cần có COC. Bộ quy tắc này có thể sẽ chỉ được áp dụng cho những khu vực và những thực thể nằm chồng lấn lên các vùng có hơn hai bên đòi chủ quyền.
Quy chế của COC sẽ như thế nào ?
Từ lâu ASEAN vẫn muốn là bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông phải là một thỏa thuận mang tính ràng buộc pháp lý quốc tế. Điều này có nghĩa là sau khi ký COC, 10 nước ASEAN và Trung Quốc phải phê chuẩn văn bản này. Sau khi có hiệu lực, bộ quy tắc COC còn phải được đăng ký tại Ban Thư ký Liên Hiệp Quốc. Tiến trình này sẽ kéo dài bao lâu, chưa ai biết được. Hiện giờ, ASEAN thậm chí chưa biết là Trung Quốc có thật sự muốn một bộ quy tắc COC mang tính ràng buộc pháp lý hay không.
Nếu Bắc Kinh thật sự chấp nhận COC mang tính ràng buộc pháp lý, thì họ sẽ đòi có những điều kiện gì và những ngoại lệ nào cho bộ quy tắc ứng xử này ? Nên nhớ rằng khi thông qua Công ước LHQ về Luật Biển, Trung Quốc đã đưa vào đó những ngoại lệ, chẳng hạn như không chấp nhận những điều khoản liên quan đến giải quyết tranh chấp về ranh giới lãnh hải và các hoạt động quân sự, v.v…
COC có các điều khoản dành cho các nước khác ?
Cho tới nay, Trung Quốc vẫn dứt khoát không chấp nhận cho các nước ngoài Biển Đông, nhất là Hoa Kỳ và Nhật Bản, can thiệp vào tranh chấp này. Để cho các nước « bên ngoài »tham gia vào COC chẳng khác gì công nhân những lợi ích chính đáng của các nước khác về hòa bình và an ninh tại các vùng tranh chấp ở Biển Đông.
COC sẽ có những nội dung nào ?
Cả hai bên đều đồng ý là COC phải được soạn thảo dựa trên bản tuyên bố DOC, nhưng không thay thế hoàn toàn DOC. Nếu như thế thì COC phải được xây dựng làm sao để có thể giải quyết những vấn đề mới, chẳng hạn như vấn đề quân sự hóa các thực thể đang tranh chấp. Liệu ASEAN và Trung Quốc có sẽ đồng ý phi quân sự hóa toàn bộ các khu vực và thực thể đang tranh chấp ở Biển Đông ? Nếu được như thế quả là không uổng công của ASEAN từ gần hai thập niên.
Thế nhưng, xác định thế nào là việc quân sự hóa nguy hiểm và không thể chấp nhận được không phải là điều dễ dàng. Trung Quốc có đầy lý lẽ để biện minh cho việc xây các phi đạo cho máy bay quân sự và triển khai các vũ khí  hiện đại trên các đảo nhân tạo. Đối với Bắc Kinh, đó không phải là một « vấn đề ». Theo quan điểm của Trung Quốc, « vấn đề » thật sự ở Biển Đông, đó là việc Hoa Kỳ tiến hành các chiến dịch bảo đảm tự do hàng hải đến sát các đảo mà Bắc Kinh đang chiếm giữ.
Về phần ASEAN thì chắc là sẽ vẫn muốn đưa vào COC cam kết về việc không sử dụng vũ lực, giống như trong COC. Thật ra thì vào năm 2003, Trung Quốc đã gia nhập Hiệp ước An ninh và Hợp tác ở Đông Nam Á, mà hiệp ước này bao gồm các nguyên tắc không sử dụng vũ lực và giải quyết tranh chấp bằng các phương tiện hòa bình. Việc Bắc Kinh gia nhập hiệp ước có thể cho thấy là họ không thật sự xem Biển Đông là lợi ích cốt lõi ngang tầm với Đài Loan, Tây Tạng hay Tân Cương, tức là có thể họ sẳn sàng cam kết không dùng vũ lực và giải quyết tranh chấp bằng các phương tiện hòa bình.
Một vấn đề mới khác có thể được đưa vào COC, đó là cùng phát triển các vùng tranh chấp ở Biển Đông.
Làm thế nào để buộc các bên thi hành COC ?
Rất có thể là mọi quyết định trong khuôn khổ bộ quy tắc COC sẽ được đưa ra dựa trên đồng thuận giữa ASEAN và Trung Quốc. Điều này có nghĩa là phía Trung Quốc phải hợp tác để bảo đảm cho COC được tuân thủ bộ quy tắc. Nhưng nếu Bắc Kinh vi phạm thì ASEAN có thể làm được gì ?
Về phần Hoa Kỳ thì chắc là họ sẽ tiếp tục tiến hành các chiến dịch bảo đảm tự do hàng hải ở Biển Đông gần sát đảo tranh chấp, vì đối với họ, đó là vấn đề lợi ích cốt lõi. Như vậy là COC sẽ không giúp chấm dứt đối đầu Mỹ - Trung ở vùng biển này.
Tác giả bài viết cũng cảnh báo các nước Đông Nam Á rằng, dù có COC hay không, Bắc Kinh vẫn sẽ tiếp tục làm mọi cách để củng cố vị thế chiến lược của họ ở Biển Đông đối với Hoa Kỳ. Khi nào Trung Quốc đạt được thỏa thuận với Mỹ để trở thành đối tác hữu hảo, họ sẽ chẳng cần đến COC, lẫn tình hữu nghị với ASEAN.

Kyodo: ASEAN, TQ ra bản thảo khung pháp lý đầu tiên về an ninh Biển Đông

Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-China lần thứ 19 diễn ra ở Vientiane, Lào 7/9/2016.
Hội nghị thượng đỉnh ASEAN-China lần thứ 19 diễn ra ở Vientiane, Lào 7/9/2016.
Các quan chức cao cấp của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và Trung Quốc hôm thứ Năm đã đưa ra bản dự thảo đầu tiên của một khung pháp lý về bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông, theo các nguồn tin ngoại giao ASEAN nói với hãng tin Kyodo.
Campuchia sẽ chủ trì cuộc họp lần thứ 20 giữa ASEAN-Trung Quốc nhằm thúc đẩy thảo luận thêm về Tuyên bố Cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) từ đó có thể dẫn đến việc hoàn thiện khuôn khổ Bộ Quy tắc Ứng Xử (COC).
Kyodo cho biết nội dung của bản dự thảo, vốn được bàn luận trong cuộc họp kéo dài nguyên ngày ở Siem Reap, Campuchia, không được công bố.
Bộ Quy tắc ứng xử sẽ mang lại sức mạnh ràng buộc pháp lý cho Tuyên bố về Cách ứng xử của các bên ở Biển Đông, được ký kết bởi Trung Quốc và ASEAN năm 2002, trong đó cấm sử dụng vũ lực ở Biển Đông.
Kyodo trích dẫn các nguồn tin ASEAN cho biết trong cuộc họp hôm thứ Năm, Trung Quốc đã đi đầu trong việc trình bày bản phác thảo của riêng mình, tạo nên trãnh cãi nảy lửa từ phía Philippines, Việt Nam và Singapore.
Philippines và Việt Nam, hai nước có tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông, bất đồng về một số phần trong nội dung này, theo các nguồn tin.

Trung Quốc thật sự muốn gì ở Biển Đông?

31/03/2017
Tác giả: Bill Hayton
Dịch giả: Song Phan
29-3-2017
Biển Đông. Ảnh: Reuters
Huyền thoại lịch sử, chiến lược quốc phòng và lợi ích kinh tế, tất cả đều có vai trò
Câu hỏi Trung Quốc thực sự muốn gì ở biển Đông ít được nghiên cứu một cách đáng ngạc nhiên ở phương Tây. Có quá nhiều nhà phân tích quốc tế dường như bằng lòng khi đưa ra các giả định về động cơ chiến lược và chiến thuật của Trung Quốc mà không đối chiếu các tuyên bố hay tài liệu của Trung Quốc.
Mối quan tâm của các chiến lược gia Mỹ, đặc biệt về tự do đi lại, an toàn của các đồng minh và duy trì một trật tự dựa trên luật pháp chi phối hầu hết các bài viết/ sách vở tiếng Anh về tranh chấp. Họ rất thường quy chiếu cùng những động lực đó lên “thứ khác” và diễn giải các hành động của Trung Quốc trên cơ sở đó.
Một số tài liệu chính thức của Trung Quốc có thể đọc được, vẽ ra một hình ảnh khác biệt. Sách trắng của Trung Quốc về chiến lược quân sự công bố tháng 5 năm 2015, xác định các mối đe dọa lớn nhất đối với Trung Quốc là “chủ nghĩa bá quyền, chính trị quyền lực và chủ nghĩa can thiệp mới”, và nêu rằng, ưu tiên hàng đầu của quân đội là “bảo vệ sự thống nhất quốc gia [của Trung Quốc], toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích của sự phát triển.”
Trong khi các nhà phân tích Mỹ tập trung vào quyền đi lại trên biển Đông như là một phần của “khu vực dùng chung của toàn cầu”, Trung Quốc tập trung vào việc bảo vệ biển Đông như là một phần của lãnh thổ vốn có của Trung Quốc. Nghiên cứu của tôi dấy lên mối nghi ngờ nghiêm trọng về các kể lể lịch sử này, nhưng các nhà phân tích phương Tây cần nghiêm túc hơn nữa, nếu họ muốn hiểu những gì đang thúc đẩy các tranh chấp ở đó.
Mặc dù tiến trình chính trị mờ đục của Trung Quốc gây khó khăn cho việc đánh giá cách lãnh đạo của quốc gia “thật sự” coi biển Đông như thế nào, các văn bản và các tuyên bố chính thức chắc chắn cung cấp một số hiểu biết sâu sắc. Như Ryan Martinson của trường Cao đảng Hải chiến Hoa Kỳ nhận xét, hồi tháng 6 năm 2014 Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình khẳng định rằng, Trung Quốc phải đặt ưu tiên cao nhất vào việc xây dựng “một bức tường bất khả xâm phạm đối với việc bảo vệ biên giới và đại dương.”
Michael Swaine, thuộc Quỹ Carnegie vì Hòa bình Quốc tế, đã lưu ý rằng, Tập Cận Bình đã nhiều lần tập trung vào “sự cần thiết phải duy trì vững chắc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc, các quyền và lợi ích trên biển và đoàn kết dân tộc, và xử lý đúng đắn các tranh chấp lãnh thổ và hải đảo”.
Danh sách của đô đốc
Trong hồi ký năm 2004 của mình, Đô đốc Lưu Hoa Thanh (Liu Huaqing), được xem như là cha đẻ của hải quân Trung Quốc hiện đại, đã liệt kê 6 mục tiêu về biển trong chiến lược của ông về “phòng thủ tích cực vùng biển gần”, bao gồm việc tái thống nhất Đài Loan với đại lục; lấy lại lãnh thổ biển bị mất và có tranh chấp; bảo vệ tài nguyên biển quốc gia; bảo đảm các tuyến đường liên lạc chiến lược của Trung Quốc; ngăn cản hoặc đánh bại bất kỳ cuộc tấn công bằng đường biển nào của nước ngoài; và xây dựng rào cản hạt nhân chiến lược đủ tầm.
Điều có vẻ có ý nghĩa nhất là ba mục tiêu đầu liên quan đến việc “lấy lại” lãnh thổ và kiểm soát tài nguyên biển quốc gia. Đây là bằng chứng cho sự ám ảnh lâu dài của lãnh đạo Trung Quốc với việc làm chấm dứt mối “quốc sỉ” của đất nước.
Mặc dù vậy, phân tích quốc tế về các hành động của Trung Quốc tại biển Đông đã chú trọng quá nhiều vào ba mục tiêu sau – các chủ đề cổ điển của các nghiên cứu hải quân truyền thống và quan hệ quốc tế – nhưng không đúng mức cho ba mục tiêu đầu. Những phân tích như vậy không hiểu được những động cơ chính thúc đẩy chính sách của Trung Quốc.
Hành động của Trung Quốc được dựa vào cảm nhận về quyền nước này được làm chủ (sense of national entitlement) đối với các đảo, các rạn san hô và vùng biển của biển Đông, dựa trên các tài liệu lịch sử khu vực theo chủ nghĩa dân tộc. Cảm nhận về quyền được làm chủ này có thể dẫn Trung Quốc tới việc thực hiện các động thái quyết đoán hơn trong khu vực trong những năm tới – việc sáp nhập mỗi lần một ít các khu vực chiến lược và có nhiều tài nguyên – sẽ dẫn tới đối đầu nhiều nữa.
Những cân nhắc chiến lược rõ ràng là rất quan trọng đối với Trung Quốc. Đối với một nước phụ thuộc vào thương mại, việc tiếp cận đại dương mở thông qua biển Đông là vấn đề có tính sống còn của quốc gia. Nhìn qua ống kính này, có thể dễ dàng lập luận rằng, việc xây dựng đảo của Trung Quốc là một phản ứng phòng thủ trước một chiến lược chiến tranh có thể có trong tương lai của quân đội Mỹ ngăn chận con đường thương mại trên biển.
Trung Quốc đã là nước chuyên nhập khẩu lương thực thực phẩm từ năm 2007, và năm 2013 Trung Quốc đã vượt Mỹ để trở thành nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới. Ngoại thương chiếm khoảng 40% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc, tuy nhiên nước này không có đường ra biển mà không bị cản trở.
Một yếu tố thứ hai cho chương trình “phòng vệ” này là tăng cường chiến lược “chống truy cập / từ chối khu vực” đối với các nỗ lực của Hoa Kỳ trong việc hậu thuẫn Đài Loan trong trường hợp có xung đột. Các căn cứ trên đảo mới của Trung Quốc gia tăng lớn việc giám sát qua các hệ thống cảnh báo sớm của Trung Quốc, tạo điều kiện dễ dàng theo dõi các mục tiêu tiềm năng hơn và cung cấp những khu trú ẩn phân tán cho tàu chiến và máy bay.
Yếu tố thứ ba là Trung Quốc dự kiến sẽ sử dụng các vùng nước sâu của biển Đông làm căn cứ cho tàu ngầm tên lửa đạn đạo mới, lớp Jin [Tấn]. Sẽ rất dễ dàng để Trung Quốc xây dựng “pháo đài” cho những tàu ngầm này nếu họ có thể kiểm soát bãi cạn Scarborough.
Việc lắp đặt “các trại trên không” lớn và tháp radar trên các đảo nhân tạo mới mà Trung Quốc đang xây dựng, cho thấy chúng sẽ được sử dụng làm cơ sở cho các hoạt động giám sát trên không, trên biển và dưới mặt biển, nhằm tăng cường khả năng bảo vệ tích hợp cho tàu ngầm bên trong pháo đài. Việc xây dựng đảo của Trung Quốc cũng phản ánh mục tiêu ngăn chặn không cho các bên yêu sách Đông Nam Á thực hiện bất kỳ hành động nào có thể ngăn chặn Trung Quốc khai thác tài nguyên thiên nhiên ở đó.
Người ta đã lập luận rằng hành động của Trung Quốc ở biển Đông là kết quả của một chiến lược lớn, được cấp cao nhất của chính hệ thống chính trị sau khi Tập Cận Bình trở thành lãnh đạo của Trung Quốc vào năm 2012, cho phép. Nhưng có rất nhiều dấu hiệu cho thấy, một số quan chức Trung Quốc ủng hộ một chính sách quyết đoán hơn ngay trước khi Tập Cận Bình nắm quyền.
Điều này dường như phản ánh sự cạnh tranh giữa nhiều bên, trong đó có lực lượng vũ trang trên biển, các ngành công nghiệp đánh bắt cá và các công ty năng lượng nhà nước, vốn được hưởng lợi từ một chính sách biển Đông quyết đoán. Mặc dù những nhóm vận động này đôi lúc đấu đá lẫn nhau, nhưng sức mạnh của các nhóm lợi ích đó rất to lớn khi họ bắt tay với nhau. Một điều mà tất cả bọn họ có thể đều đồng ý là, dù vì lý do dân tộc, an ninh, lợi nhuận hay việc làm, Trung Quốc phải tiếp cận được không gian và các nguồn lực của biển Đông.
Quyền “lịch sử”
Bên dưới các động cơ “phòng thủ” và quan liêu là một phiên bản lịch sử đặc biệt, sô vanh nước lớn. Mặc dù có nhiều bằng chứng cho thấy ngược lại, quan điểm chính thức của Trung Quốc là chỉ có các tàu thuyền Trung Quốc từng sử dụng biển Đông xưa nay và do đó Trung Quốc có “quyền lịch sử” đối với các vùng biển bên trong đường chữ U. Hồi tháng 7 năm 2016, Tòa Trọng tài Quốc tế ở The Hague kết luận rằng, không có cơ sở chính đáng để Trung Quốc khẳng định “quyền lịch sử”, tuy nhiên, lập luận này tiếp tục là nền tảng cho cuộc xung đột đang diễn ra giữa Trung Quốc và các nước Đông Nam Á láng giềng.
Nghiên cứu gợi ra mạnh mẽ rằng, yêu sách của Trung Quốc đối với biển Đông đã được phát triển trong nửa đầu thế kỷ 20, như là một phản ứng chính trị trong nước để chống lại chủ nghĩa đế quốc Nhật và châu Âu. Nó xuất hiện ở các giai đoạn trong thời kỳ khủng hoảng năm 1909, 1933 và Thế chiến II. Sự phát triển của yêu sách đó, một phần, là một hành động kháng cự có tính biếu tượng và chính khía cạnh này trong lịch sử của họ vẫn làm cho nó thành một vấn đề đầy cảm xúc hiện nay.
Mỹ và các chính phủ khác đã khôn ngoan giữ trung lập về vấn đề lãnh thổ. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là họ nên bỏ qua nó. Nếu các nhà phân tích bỏ bớt các yếu tố lãnh thổ và chỉ tập trung vào các câu hỏi về chiến lược lớn thì họ sẽ đi tới việc trả lời câu hỏi sai, làm vấn đề biển Đông càng tệ hại hơn. Kết quả cuối cùng, như khu vực đã nhiều lần nhìn thấy, là tranh chấp. Tranh chấp này không thể giải quyết được bằng các biện pháp xây dựng lòng tin hoặc việc phô trương lực lượng hải quân. Nguyên nhân gốc rễ của cảm nhận về quyền được làm chủ của Trung Quốc cần phải được giải quyết.
Chính sách của Trung Quốc đối với biển Đông phản ánh một cảm xúc bất bình mà những đấu thủ khác trong các tranh chấp thường không đánh giá cao. Trung Quốc tin rằng họ đang chỉnh lại cho đúng những sai trái gây ra cho họ trong những thập kỷ trước. Theo quan điểm của Bắc Kinh, những bước lấn tới của họ ở biển Đông là biện minh được bởi vì họ đang đòi lại lãnh thổ “bị mất”.
Hoang tưởng lịch sử
Bắc Kinh tin rằng bất kỳ hành động của một cường quốc nước ngoài cố cản trở việc thống nhất lãnh thổ quốc gia – dù đó là một cuộc tuần tra hải quân hay một toà trọng tài quốc tế, phải bị chống lại, bởi vì đó chỉ đơn giản là một màn diễn khác trong một lịch sử lâu dài về mưu toan của nước ngoài chia cắt tổ quốc Trung Quốc.
Mặc dù những kể lể lịch sử chính thức của Trung Quốc rõ ràng là có nhiều vấn đề, điều quan trọng là phải nhận ra rằng ý thức về sự chính đáng mà nó tạo ra cho việc hoạch định chính sách của Trung Quốc có thể dẫn đến xung đột hơn nữa. Nếu các nhà hoạch định chính sách ở Hoa Kỳ và những nơi khác không nhận ra được sức mạnh thúc đẩy của những kể lể lịch sử và tính mệnh lệnh về lãnh thổ của Trung Quốc, thì họ sẽ không hiểu được các mục tiêu của Trung Quốc.
Cả ngoại giao lẫn đối đầu đều sẽ không làm giảm động lực thúc đẩy phía sau các hành động của Trung Quốc ở biển Đông. Mặc dù việc sử dụng vũ lực có thể cản trở những bước lấn tới của Trung Quốc, nó cũng sẽ làm tăng cảm giác thất vọng và kích động những đòi hỏi bên trong Trung Quốc về một phản ứng quyết đoán hơn. Các tranh chấp chỉ có thể được giải quyết thật sự qua việc làm suy yếu ý thức chính đáng của Trung Quốc và điều đó đòi hỏi phải vạch trần việc sử dụng gian lận các bằng chứng lịch sử và thách thức phiên bản lịch sử sai lệch của họ.
Lý do chiến lược của việc Trung Quốc duy trì một sự hiện diện mạnh mẽ ở biển Đông – bảo vệ bờ biển, các tuyến đường biển và ngăn chặn hạt nhân – sẽ còn bền vững. Nhưng các lập luận của họ cho việc kiểm soát độc quyền các nguồn tài nguyên biển và quyền điều chỉnh giao thông thì lại dựa trên các kể lể lịch sử lệch lạc và có thể bị thách thức.
Vì đây là hai vấn đề có nhiều khả năng gây xung đột, thách thức chúng, hơn là đáng [để cân nhắc]. Hoàn toàn có thể giữ trung lập về mặt chính trị đối với vấn đề lãnh thổ, trong khi vẫn khẳng định rằng, các yêu sách của Trung Quốc thiếu những bằng chứng có thể kiểm chứng được. Tất cả các nước có lợi ích trong việc giải quyết hòa bình, các tranh chấp biển Đông cần phải xem xét một cách nghiêm túc hơn về mặt lịch sử và khẳng định rằng những yêu sách thiếu hậu thuẫn không phải là cơ sở để đối thoại và giải quyết xung đột.
Đối với khu vực châu Á và trên thế giới, sự tham gia không thể thiếu của các chuyên gia về Trung Quốc và các nhà hoạch định chính sách về cơ sở của các kể lể của họ về biển Đông là bước thiết yếu đầu tiên. Các nhà đối thoại với các quan chức Trung Quốc phải tự vũ trang mình các bằng chứng đó, để thách thức các kể lể lịch sử không có thật và sẵn sàng sử dụng chúng trong các cuộc thảo luận. Trong 20 năm qua, tất cả các bằng chứng này ngày càng dễ dàng tìm thấy. Đã đến lúc sử dụng chúng.
Bill Hayton là một nhà nghiên cứu tại Chatham House và là tác giả của cuốn sách The South China Sea: The Struggle for Power in Asia” (Biển Đông: Cuộc tranh cho giành quyền lực ở châu Á) Bài báo này dựa trên một bài giảng sẽ trình bày tại Đại học Tokyo ngày 6 tháng 4.