Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2017

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong pháp luật phong kiến Việt Nam

ThS. Trần Thị Quang Vinh
Tạp chí Luật học số 5/2002 (5/2002)
Pháp luật hình sự Việt Nam có quá trình phát triển lâu đời. Trong thời kì phong kiến, luật hình sự chiếm địa vị ưu thế trong nền pháp luật của nước ta. “Tất cả mọi điều khoản trong cổ luật được chế tài về phương diện hình sự. Chính vì lẽ ấy, các bộ luật cổ đầu tiên của Việt Nam, đều mệnh danh là bộ luật hình”.(1) Pháp luật hình sự của các triều đại phong kiến Việt Nam đã từng bước hình thành và phát triển và mang đậm dấu ấn của những bước thăng trầm lịch sử. Đỉnh cao của sự phát triển đó là Bộ Quốc triều hình luật. Vì nhiều lí do mà phần lớn các di sản pháp lí không còn lưu truyền cho đến ngày nay.(2) Hiện nay, có thể nói Bộ Quốc triều hình luật thời Lê và Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn còn được lưu truyền cho đến ngày nay là những bộ luật đại diện cho pháp luật hình sự thời kì phong kiến Việt Nam. Quốc triều hình luật (1428 - 1788) là bộ luật xưa nhất còn lưu giữ đầy đủ. Đây là bộ luật quan trọng nhất và chính thống nhất của triều Lê. Hoàng Việt luật lệ (1813 -1945) đời nhà Nguyễn cũng là bộ luật được soạn thoạn thảo theo tinh thần như hoàng đế Gia Long chỉ định: “Lấy luật lệ của các triều đại nước ta làm căn bản, tham chiếu luật Hồng Đức và luật Thanh triều.(3)
 
Hai bộ luật Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ tuy khác nhau về thời gian có hiệu lực nhưng đều có những điểm tương đồng về quy định giảm nhẹ tội. Điều này xuất phát từ tính chất của cả hai bộ luật: Đều là những bộ luật của nhà nước phong kiến Việt Nam và cùng chịu sự ảnh hưởng sâu sắc các bộ luật của phong kiến Trung Quốc. Bên cạnh đó, chúng cũng có những điểm riêng biệt. Cả hai bộ luật nói trên đều có những quy định về vấn đề giảm nhẹ tội và trở thành khuôn mẫu pháp lí cho việc xét xử và quyết định hình phạt. Các bộ luật Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ đều có cấu trúc gồm hai phần: Danh lệ (quy định chung) và bản điều (quy định về tội phạm cụ thể). Các tình tiết giảm tội được quy định rất ít trong phần danh lệ và chủ yếu được quy định trực tiếp trong quy định đối với từng tội phạm cụ thể. Điều này xuất phát từ thực tế là các điều khoản trong các văn bản pháp luật thời kì này mang nặng tính thực nghiệm, ít được mô hình hóa ở mức khái quát cao như luật hiện đại. Mặt khác, có thể lí giải từ phương pháp quy định chế tài trong pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam. Chế tài trong các bộ hình luật phong kiến được quy định ở dạng chế tài xác định tuyệt đối, tương ứng với mỗi trường hợp phạm tội, luật quy định mức hình phạt cụ thể. Với cách thức quy định như vậy, buộc nhà lập pháp phải quy định rất chi tiết các trường hợp tăng nặng, giảm nhẹ ngay trong quy phạm pháp luật quy định về tội phạm. Do vậy, các tình tiết giảm nhẹ thường được quy định trực tiếp trong các tội phạm cụ thể. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định trong pháp luật hình sự thời kì phong kiến Việt Nam khá đa dạng phản ánh chủ yếu đặc điểm về nhân thân người phạm tội, những biểu hiện của tội phạm được thực hiện. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS liên quan đến nhân thân người phạm tội gồm các tình tiết như người phạm tội thuộc đối tượng “bát nghị”; người hưởng lệ ấm của ông bà; người phạm tội là quan chức hoặc người có quan hệ thân thích với quan chức; người phạm tội có quan hệ gia đình với người bị hại; người phạm tội là quan thiên văn, thợ thủ công, nhạc sĩ; người phạm tội là con cháu chịu thay tội cho ông bà, cha mẹ; người phạm tội tự thú; người phạm tội lập công, chuộc tội; người phạm tội là người già, trẻ em, phụ nữ; người phạm tội phải ở nhà nuôi dưỡng cha mẹ già. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS liên quan đến tội phạm được thực hiện gồm các tình tiết như: Hậu quả của tội phạm chưa xảy ra; chưa gây thiệt hại lớn; thiệt hại do tội phạm gây ra đã được khắc phục; phạm tội do thực hiện hành vi giùm người khác; phạm tội với vai trò là tòng phạm; phạm tội do vượt quá yêu cầu bắt giữ người phạm pháp; phạm tội do lầm lẫn, vô ý; người phạm tội có mức độ lỗi nhẹ; phạm tội do bị kích động; phạm tội trong trường hợp bị tra tấn, uy hiếp hoặc bị oan sai, khổ thiệt; phạm tội trong các trường hợp khẩn cấp; phạm tội trong khi thi hành công vụ; vì bảo vệ gia đình. Như vậy, khi quy định về tình tiết giảm nhẹ TNHS, pháp luật hình sự phong kiến chú ý đặc biệt đến nhân thân người phạm tội, đến các dấu hiệu chủ quan và khách quan của tội phạm được thực hiện. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định chủ yếu ở phần Bản điều của Bộ hình luật. Do vậy, việc áp dụng tình tiết nào là giảm nhẹ tội tùy thuộc vào từng loại tội phạm. Xét về cơ sở giảm nhẹ TNHS, có thể khái quát theo các nhóm tình tiết sau:
 
Thứ nhất, các tình tiết giảm nhẹ tội liên quan đến địa vị xã hội hoặc vị trí trong gia đình hoặc tính chất đặc biệt về nghề nghiệp của người phạm tội. Các tình tiết giảm nhẹ tội được quy định trong pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam trên cơ sở quan niệm nho giáo về những quan hệ rường cột trong xã hội cần được pháp luật bảo vệ. Các mối quan hệ vua - tôi, phu - phụ, phụ - tử gọi là “tam cương” được thể chế hóa trong pháp luật và được bảo vệ bằng pháp luật. Quy định về những tình tiết giảm tội trong pháp luật hình sự phong kiến cũng bị chi phối bởi quan niệm đó, thể hiện ở quy định giảm tội cho những người thuộc bát nghị, cho những người có vị trí trong xã hội và gia đình. Pháp luật thời phong kiến quy định tám loại người thuộc bát nghị được giảm tội nếu có hành vi phạm tội như nghị thân (người bà con gần vua); nghị cố (người cố cựu của hoàng gia); nghị công (người có công trạng lớn dẹp giặc); nghị hiền (người có đức hạnh lớn, quân tử); nghị năng (người có tài trong quân sự, chính trị); nghị cần (người siêng năng, năng nổ việc quan quân); nghị quý (những quan vào bậc cao quý); nghị tân (đối với khách là người nối sau của triều trước). Giảm tội được đặt ra cho những người hưởng “lệ ấm” của ông bà, cha mẹ. Điều 12 Quốc triều hình luật quy định: “Con cháu những bậc được dự vào nghị công mà có tội thì theo lệ ấm của ông bà cha mẹ mà nghị giảm”. Điều 5 Hoàng Việt luật lệ quy định lệ ấm có phần rộng hơn so với Bộ Quốc triều hình luật thể hiện lệ ấm không chỉ được áp dụng với con cháu của người dự nghị công mà là ông bà nội, cha mẹ, vợ và con, cháu của người thuộc Bát nghị mà phạm tội cũng được nghị như bản thân. Những biệt đãi này không áp dụng cho tội thập ác. Qua chế định “bát nghị” cho thấy việc giảm tội được đặt ra cho những người có vị trí cao của xã hội, có quyền lợi gắn bó với nhà vua, với chế độ đương thời thể hiện rất rõ nét tính giai cấp trong quan niệm về các tình tiết giảm nhẹ tội theo pháp luật hình sự phong kiến trên cơ sở quan niệm vua - tôi của nho giáo. Theo Điều 4 Quốc triều hình luật và Điều 4 Hoàng Việt luật lệ thì những người thuộc bát nghị khi phạm tội từ lưu trở xuống thì được giảm một bậc về hình phạt. Pháp luật hình sự thời phong kiến đã quy định về giảm tội cho những người có vị trí nhất định trong gia đình trên cơ sở quan niệm nho giáo về các mối quan hệ vợ chồng, thê - thiếp, cha - con. Điều 482 Quốc triều hình luật quy định: “Chồng đánh vợ bị thương thì xử nhẹ hơn tội đánh bị thương người thường ba bậc; nếu đánh chết thì xử nhẹ hơn tội đánh giết người ba bậc. Cố ý giết vợ thì được giảm một bậc; nếu có tội mà chồng đánh không may đến chết thì sẽ xử khác. Đánh vợ lẽ bị thương, què trở lên thì xử nhẹ hơn tội đánh vợ hai bậc; nếu vợ cả đánh bị thương, đánh chết vợ lẽ xử tội như chồng đánh vợ... Nếu ngộ sát thì không phải tội”. Bộ luật Hoàng Việt luật lệ cũng quy định khá chi tiết việc giảm tội khi người phạm tội có địa vị xã hội hoặc vị trí trong gia đình cao hơn (các điều luật tại quyển 15 Hoàng Việt luật lệ). Ngoài ra, quan hệ gia đình giữa người phạm tội với người bị hại cũng được pháp luật hình sự phong kiến xem xét và đánh giá có giá trị giảm nhẹ trong một số trường hợp. Ví dụ: Điều 439 Quốc triều hình luật quy định cùng ở chung một nhà mà ăn trộm của nhau thì xử nhẹ hơn tội ăn trộm của người ngoài một bậc. Điều 1 quyển 13 Hoàng Việt luật lệ quy định: “Phàm ở chung một nhà (trong thân vợ cưới về) là bà con mà lấy trộm của nhau (cả kẻ dưới và bậc tôn trưởng) về tiền bạc, của cải thì giảm 5 bậc tội nếu là dân thường, bậc đại công thì giảm 4 bậc, bậc tiểu công thì giảm 3 bậc, bậc ty ma thì giảm 2 bậc. Kẻ nào không phải thân thuộc thì được giảm một bậc và miễn xăm chữ vào mặt”. Như vậy, nhìn chung nhà làm luật phong kiến cũng lấy một số khía cạnh nhân thân người phạm tội làm tình tiết giảm nhẹ TNHS. Đó là những tình tiết nhân thân thuộc bát nghị, quan hệ gia đình trên cơ sở quan niệm nho giáo về trật tự xã hội phong kiến. Theo đó, các tình tiết thuộc nhân thân phản ánh vị trí cao của người phạm tội trong xã hội, gia đình theo trật tự xã hội phong kiến là tình tiết giảm nhẹ TNHS. Đây là điểm khác biệt với luật hình sự hiện đại. Luật hình sự hiện đại, khi quy định nhân thân người phạm tội với ý nghĩa là căn cứ quyết định hình phạt, có nội dung hoàn toàn khác so với chế định “bát nghị” trong pháp luật thời phong kiến. Nếu luật hiện đại xem xét ở khía cạnh nhân thân người phạm tội là nhấn mạnh khả năng cải hóa họ trở thành người lương thiện, có ý thức tuân thủ pháp luật thì pháp luật hình sự phong kiến nhấn mạnh sự gắn bó của những người có quan hệ mật thiết với quyền lợi của giai cấp thống trị, với tôn ti, trật tự gia đình trong xã hội phong kiến như là cơ sở giảm nhẹ tội. Ngoài ra, pháp luật hình sự phong kiến, xuất phát từ yêu cầu phát triển của xã hội đương thời, còn quy định giảm tội cho người làm một số nghề nghiệp đặc biệt trong xã hội như quan thiên văn, thợ thủ công, nhạc sĩ. Đây là ưu đãi của pháp luật hình sự thời phong kiến đối với người có tay nghề rất cần cho xã hội hoặc lao động có tính chất đặc biệt.
 
Thứ hai, các tình tiết liên quan đến tội phạm được thực hiện cũng được quy định là tình tiết giảm nhẹ TNHS trong pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam. Bên cạnh tư tưởng nho giáo, pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam chịu ảnh hưởng của tư tưởng pháp trị, theo đó trừng trị và thưởng phạt luôn đi liền nhau và phải phân minh: “Pháp gia chủ trương quyền thế vạn năng. Họ yêu cầu kẻ thống trị phải nắm lấy quyền giết hại và khen thưởng; chỉ có vậy thuật mới được thực thi, pháp mới được tôn trọng”.(4) Như vậy, theo pháp gia thì thi hành công lí chính là cái gốc để giữ gìn trật tự xã hội. Chính vì vậy, pháp luật hình sự phong kiến ở mức độ nhất định đã thể hiện yếu tố “công bằng” về TNHS trên cơ sở thừa nhận sự tương xứng về tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được thực hiện với mức độ TNHS. Tuy không chỉ rõ thước đo mà nhà làm luật phong kiến sử dụng để quy định hình phạt đối với các tội phạm cụ thể nhưng qua nghiên cứu về các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong pháp luật hình sự phong kiến, nhận thấy việc tăng nặng hoặc giảm nhẹ tội được nhà làm luật suy xét trên cơ sở tính tới sự tương xứng giữa mức độ nguy hiểm cho trật tự xã hội phong kiến của hành vi phạm tội và mức hình phạt cần áp dụng. Đây chính là những biểu hiện công bằng về TNHS trong pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam. Theo đó những tình tiết thuộc về những biểu hiện khách quan hoặc chủ quan của tội phạm phản ánh mức độ thực hiện tội phạm còn hạn chế, hậu quả tội phạm chưa xảy ra hoặc thiệt hại không lớn, phạm tội do lầm lỡ, do bị kích động, động cơ phạm tội vì thi hành công vụ... được nhà làm luật cân nhắc và quy định là tình tiết giảm nhẹ tội.
 
Thứ ba, pháp luật hình sự thời phong kiến đã quy định một số tình tiết giảm nhẹ tội do đạo lí và khoan hồng dưới ảnh hưởng tư tưởng nho giáo. “Luật dưới thời phong kiến dù được xây dựng bởi hệ tư tưởng nào cũng đều mang tính chất tàn khốc, nhưng với tư tưởng nho giáo tính chất đó phần nào được giảm bớt”.(5) Theo tinh thần đó, pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam cũng có một số quy định về giảm tội vì lí do nhân đạo, khoan hồng. Pháp luật hình sự phong kiến quy định tự thú là tình tiết giảm nhẹ đặc biệt và là cơ sở để miễn tội cho người phạm tội. Pháp luật hình sự Việt Nam cũng có một thái độ khoan hồng đối với những người phạm tội là trẻ em, người già, người bị bệnh tật nặng như phế tật, ác tật và coi các tình trạng này như một trong những cơ sở giảm nhẹ tội hoặc miễn tội. Xuất phát từ đạo đức của người phương Đông về trách nhiệm hiếu thảo của con cháu đối với ông bà, cha mẹ, pháp luật thời phong kiến cho phép con cháu chịu tội roi, trượng thay cho ông bà, cha mẹ. Việc chịu tội thay đó được coi là một tình tiết giảm tội (Điều 38 Quốc triều hình luật). Hoàng Việt luật lệ không có quy định về vấn đề này. Nhưng Hoàng Việt luật lệ lại có quy định về ân giảm cho người phạm tội còn phải ở nhà nuôi dưỡng cha mẹ (Điều 17 quyển 2 Hoàng Việt luật lệ).
 
Qua nghiên cứu quá trình hình thành và hoàn thiện chế định các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong pháp luật hình sự phong kiến Việt Nam, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
 
1. Quy định của pháp luật hình sự phong kiến về các tình tiết giảm nhẹ TNHS là yêu cầu khách quan. Dù là ở các thời đại khác nhau với phương pháp và trình độ lập pháp khác nhau thì tất cả đều gặp nhau cùng một điểm - sử dụng các tình tiết giảm nhẹ như là căn cứ quyết định hình phạt.
 
2. Chế định các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong pháp luật hình sự phong kiến mang dấu ấn của giai đoạn lịch sử này. Bởi lẽ, việc quy định một tình tiết nào đó có phải là tình tiết giảm nhẹ hay không, cách sử dụng nó như thế nào đều phụ thuộc vào quan niệm của giai cấp thống trị về trật tự xã hội cần được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, phương pháp lập pháp hình sự cũng như trình độ lập pháp của thời kì đó. Do vậy, xem xét về các tình tiết giảm nhẹ TNHS không thể tách rời hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cần thừa nhận sự vận động biện chứng của chế định này trong quá trình vận động của xã hội. Dấu ấn lịch sử của thời kì này thể hiện ở sự ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo, quan niệm về tôn ti trật tự xã hội và gia đình của giai cấp phong kiến trong quy định của pháp luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ TNHS.
 
3. Quá trình hình thành và phát triển của chế định các tình tiết giảm nhẹ TNHS là quá trình phát triển có tính kế thừa chọn lọc. Thông qua việc nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự thời phong kiến, những giá trị văn hóa pháp lí mà dân tộc ta tích lũy qua nhiều thế hệ đã được sáng tỏ. Những di sản pháp lí của dân tộc mà pháp luật hình sự hiện đại có thể kế thừa chính là việc thừa nhận sự tương xứng giữa tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm được thực hiện với mức độ TNHS mà người phạm tội phải gánh chịu. Những di sản pháp lí cần kế thừa cũng là truyền thống nhân đạo, khoan hồng của ông cha trong xử lí tội phạm. Biết kế thừa có lựa chọn những kinh nghiệm ông cha cho chúng ta một cách tiếp cận hợp lí trong hoạt động xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật./.
 
(1).Xem: Vũ Văn Mẫu “Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử”, tr.41, Sài Gòn.
 
(2). Xem: TSKH. Lê Cảm - “Luật hình sự Việt Nam trước thế kỉ XV”, Tạp chí dân chủ và pháp luật, số 5, tr.22.
 
(3).Xem: Nguyễn Văn Thành - Vũ Trinh - Trần Hựu (Nguyễn Quyết Thắng và Nguyễn Văn Tài dịch và giới thiệu) “Hoàng Việt luật lệ”, tập 1, Nxb. Văn hóa - thông tin, tr.2.
 
(4).Xem: GS. Lương Duy Thứ (chủ biên) “Đại cương văn hóa phương Đông”, Nxb. Giáo dục, H.1998, tr.48.
 
(5)Xem: Nguyễn Tài Thu “Vai trò đạo Khổng trong sự hình thành và áp dụng pháp luật ở Việt Nam”, Tạp chí nhà nước và pháp luật, số 5/1993, tr.8.

Những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến

 Luận văn ThS. Luật: 60 38 40 Nguyễn Văn Dương ; 
Nghd. : PGS.TS. Lê Văn Cảm 

Khoa Luật Luận văn ThS ngành: Luật Hình sự;

Mã số: 60 38 40 Người hướng dẫn: PGS.TS. Lê Văn Cảm Năm bảo vệ: 2010

Abstract: Làm sáng tỏ những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự Việt Nam trong thời kỳ phong kiến. Đưa ra những ưu, khuyết điểm của hệ thống luật hình sự trong thời kỳ này nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Tìm hiểu về khái niệm, đối tượng áp dụng, phạm vi điều chỉnh của luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến, đi sâu vào so sánh những quy định của luật hình sự thời kỳ phong kiến với những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.

Keywords: Luật hình sự; Thời kỳ phong kiến; Pháp luật; Việt Nam

Content MỞ ĐẦU 

Hoạt động lập pháp, áp dụng pháp luật của một quốc gia được thực hiện trong suốt cả quá trình lâu dài và nó có tính kế thừa dù là trong chế độ chính trị nào. Sự kế thừa về mặt tư duy, tư tưởng pháp luật, cách thức làm luật, áp dụng pháp luật là một quy luật tất yếu của lịch sử.
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định nhiệm vụ là "sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh vực tư pháp phù hợp mục tiêu của chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật".

Trải qua hàng nghìn năm dựng nước, các thế hệ ông, cha ta đã xây dựng được một hệ thống pháp luật mà nói như vua Gia Long trong lời tựa của bộ Hoàng Việt luật lệ: "… lấy giáo hóa làm việc hàng đầu, tuy vậy cũng quan tâm đặc biệt đến việc xử phạt. Giở xem hình phạt hình luật của các triều đại trước của nước Việt ta, mỗi triều đại thành lập từ Lý, Trần, Lê đều có pháp chế…".
Tại Việt Nam, xét từ đời Lý (thế kỷ XI) nước ta đã có pháp luật và đặc điểm nổi bật hơn cả là tất cả các bộ luật đời Lý, Trần đều có tên gọi là Hình luật.

Đến đời Lê thì có bộ Lê triều hình luật, mặc dù trong bộ luật này có cả những quy định về dân sự, tố tụng… đến đời Nguyễn thì vua Gia Long Nguyễn Ánh cho biên soạn bộ Hoàng Việt luật lệ.
Như vậy, các triều đại phong kiến Việt Nam đã có ý thức trong việc xây dựng pháp luật. Nói như Phan Huy Chú: "Công cụ trị nước tất phải có hình luật để răn điều gian dối và nghiêm sự cấm ngăn. Thời cổ làm việc chỉ có quy chế, không dùng hình luật, vì đời thuần phép giản, có thể châm chước tùy nghi được. Đến đời sau, văn hóa phiền phức, sách hình đặt ra đầy đủ, vạch rõ những cấm chế, nặng nhẹ, chỉ rõ những đường nên tránh nên theo, điều khoản đặt bày, tuy không còn là theo ý thời cổ, nhưng đề phòng việc biến và chỉ rõ điển và hình thì người trị nước không thể thiếu được.
Nước Việt ta, các triều dựng nước đều định hình chương: nhà Lý có ban Hình thư, nhà Trần có ban Hình luật, đều đã tham chước xưa nay để nêu phép tắc lâu dài… Hình là cái giúp cho công việc trị nước, tuy trong đạo chính trị không phải cái đi trước, nhưng luật pháp để cấm dân làm bậy thánh nhân có bao giờ bỏ đâu. Cho nên điều luật và lệnh cấm là để phòng ngừa trong việc trị nước".

Việc xem xét, nghiên cứu các bộ luật cổ (chủ yếu và phần lớn là quy định về hình luật) là việc làm cần thiết. Bởi lẽ, trải qua mấy thế kỷ dựng nước, giữ nước, xây dựng nền móng cai trị chắc hẳn các thế hệ đi trước phải để lại cho con cháu những bài học quý báu về cách cai trị hay nói cách khác đó là cách thức xây dựng và điều hành đời sống nhân dân. Ôn cố tri tân, điều đó là rất đúng và nó không có gì là mâu thuẫn với chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng nhà nước pháp quyền.

Trong giai đoạn hiện nay, khi mà các hoạt động tư pháp được quan tâm đặc biệt trong các là trong các hoạt động tư pháp liên quan đến luật hình sự thì việc học tập các kĩ năng xây dựng, áp dụng pháp luật của các thế hệ đi trước là điều cần được quan tâm.

Vì vậy, nghiên cứu những đặc điểm chủ yếu của pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến, đặc biệt là Quốc triều Hình luật đời nhà Lê và Hoàng Việt luật lệ đời nhà Nguyễn là cần thiết và có ý nghĩa cả về mặt thực tiễn và lý luận.

Đó chính là lý do tại sao tác giả chọn đề tài: "Những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến" để làm luận văn thạc sĩ Luật học, chuyên ngành Luật hình sự.

 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài 

Nếu như trong lĩnh vực lịch sử đã có một số đề tài nghiên cứu về Quốc triều Hình luật đời Lê sơ (Bộ luật Hồng Đức) và Hoàng Việt luật lệ đời Nguyễn, thì trong lĩnh vực luật học đặc biệt dưới góc độ luật hình sự thì số đề tài nghiên cứu không có nhiều, có thể kể một số công trình như: Lịch sử luật hình sự Việt Nam, của Trần Quang Tiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003; một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Luật hình sự Việt Nam trước thế kỷ XV, của GS.TSKH Lê Cảm, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 05/1999; Luật hình sự Việt Nam từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII, của GS.TSKH Lê Cảm, đăng trên tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 08/1999; Khái niệm tội phạm - so sánh giữa Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật hình sự hiện nay, của PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa, đăng trên tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 01/2005.

Ngoài ra, còn có một số công trình khoa học khác ít nhiều đề cập đến hoàn cảnh ra đời, cách thức xây dựng, sự khác biệt của những bộ luật Việt Nam thời kỳ phong kiến với những bộ luật của đất nước Trung Hoa thời kỳ phong kiến. Có thể kể đến luận án tiến sĩ có tên là "Essais sur le code Gia long" (86 trang) (Tiểu luận về luật Gia Long) của luật sư Phan Văn Trường (1875-1933), đây là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu về Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn và cuốn Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử của GS Vũ Văn Mẫu - một công trình khoa học nghiên cứu về pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến. Như vậy, có thể nói, đến nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu toàn diện, sâu sắc về luật hình sự Việt Nam trong thời kỳ phong kiến. Vì vậy, nghiên cứu về những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự Việt Nam trong thời kỳ phong kiến để rút ra những kinh nghiệm quý báu đã được đúc kết qua hàng nghìn năm của ông cha là cần thiết đồng thời từ đó chúng ta kế thừa các giá trị pháp luật truyền thống tốt đẹp để tiếp tục hoàn thiện hơn nữa những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.

3. Mục đích, nội dung nghiên cứu 
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là làm sáng tỏ những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự Việt Nam trong thời kỳ phong kiến. Đồng thời đưa ra những ưu, khuyết điểm của hệ thống luật hình sự trong thời kỳ này nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay. Nội dung nghiên cứu đề cập đến khái niệm, đối tượng áp dụng, phạm vi điều chỉnh của luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến, đi sâu vào so sánh những quy định của luật hình sự thời kỳ phong kiến với những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.

4. Phạm vi nghiên cứu 
Đề tài đi sâu nghiên cứu những đặc trưng của luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến (từ thế kỷ thứ X đến giữa thế kỷ XIX). Qua đó phân tích, đánh giá, so sánh với những quy định của pháp luật hình sự Việt Nam đương đại, đưa ra những kiến nghị cho việc hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.

5. Phương pháp nghiên cứu 
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về cải cách tư pháp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng đồng thời các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như: so sánh, phân tích tổng hợp, phương pháp lịch sử.

6. Những đóng góp của đề tài 
Có thể coi những nội dung được đề cập trong luận văn là sự tìm tòi những giá trị trong luật hình sự Việt nam thời kỳ phong kiến. Mặc dù đã được ban hành cách đây hàng trăm năm, nhưng các bộ luật cổ của Việt Nam có rất nhiều giá trị đối với đương đại mà chúng ta đã, đang và cần tiếp tục kế thừa, tham khảo những giá trị tích cực trong việc hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật hình sự đương đại, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền.

7. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự Việt Nam thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý và Trần (từ thế kỷ X đến thế kỷ XV).
Chương 2: Những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự Việt Nam thời Hậu Lê (từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII).
Chương 3: Một số đặc điểm chủ yếu của luật hình sự Việt Nam thời Nguyễn {từ đầu thế kỷ XIX đến khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858)}.

Chương 1 NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM THỜI NGÔ, ĐINH, TIỀN LÊ, LÝ VÀ TRẦN (Từ thế kỷ X đến thế kỷ XV) 

1.1. Những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự thời Ngô, Đinh, Tiền Lê 

Năm 938, sau khi đánh bại quân Nam Hán, Ngô Quyền đã đem lại nền độc lập, tự chủ cho đất nước. Ông cho định đô ở Cổ Loa, phục hồi, phát triển nền kinh tế, xã hội và thiết lập các thiết chế chính trị, pháp luật để cai trị đất nước. Tuy nhiên, thời kỳ này thì các văn bản liên quan đến pháp luật nước ta không còn nhiều, chúng đã bị quân xâm lược nhà Minh cướp mất, đến nay không còn để lại gì nên việc nghiên cứu rất khó khăn, chúng ta chỉ biết vài nét về các hình phạt nặng nề được sử dụng ở thời kỳ này, như để trấn áp những kẻ chống đối, nhà Đinh dùng những hình phạt khốc liệt như đặt vạc dầu lớn giữa sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi và quy định: Ai có tội sẽ bị bỏ vào vạc dầu nấu hay cho hổ ăn. Có thể nói, tính chất đàn áp khắc nghiệt cao độ của hình pháp trong thời kỳ này thể hiện rõ trong hình phạt dưới các triều Đinh và Tiền Lê. Các triều đại này coi tội phạm hóa các hành vi đe dọa quyền lực của triều đình là sự tiếp tục và hỗ trợ cho cuộc đấu tranh quân sự chống lại những tàn dư của nạn cát cứ diễn ra trước đó, nhằm ổn định, thống nhất đất nước. Thời kỳ đầu của quá trình đem lại nền độc lập, tự chủ nước nhà nên việc ổn định, phát triển đất nước là công việc hết sức khó khăn nên việc tồn tại những hình phạt hà khắc là cần thiết để đảm bảo ổn định cho đất nước. Pháp luật là một công cụ để ổn định và phát triển xã hội nên tùy thuộc từng hoàn cảnh, điều kiện của mỗi thời kỳ mà nó tồn tại để nó phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của thời kỳ đó.

1.2. Những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự thời nhà Lý (1010 - 1225) 
Sau khi Lê Long Đĩnh chết (năm 1009) triều đình đã suy tôn một người khác họ là Lý Công Uẩn lập ra triều Lý, mở ra một giai đoạn mới của lịch sử dân tộc, giai đoạn xây dựng đất nước với quy mô lớn, đặt nền tảng vững chắc cho sự phát triển của dân tộc. Pháp luật của các triều vua đời Lý có đặc điểm: - Bảo vệ nhà nước trung ương tập quyền, đặc biệt pháp luật thời kỳ này đã hạn chế thế lực của tầng lớp quan lại, quý tộc nhằm tập trung quyền lực vào tay hoàng đế - Được hình thành dựa trên nền tảng pháp luật hai triều đại phong kiến Trung Hoa là Đường và Tống. Pháp luật thời nhà Lý là pháp luật bảo vệ quyền lợi của nhà nước trung ương tập quyền và của tầng lớp quý tộc quan liêu, củng cố chế độ đẳng cấp, bảo vệ tư hữu, bảo vệ sự phát triển của quốc gia, làm cho quốc gia vững mạnh.

1.3. Những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự thời nhà Trần (1225 - 1400) 
Với sự biến ngày 10 tháng 01 năm 1226 triều Lý đã phải rời bỏ vũ đài chính trị để nhường chỗ cho một vương triều mới: triều Trần. Trên nền tảng vững chắc đã được xây dựng từ thời Lý, triều Trần tiếp tục công việc dựng nước và giữ nước. Luật hình sự thời Trần bảo vệ sự bất bình đẳng trong xã hội. Việc chuộc tội bằng tiền đã tạo ra sự lộng hành của giới quý tộc và những người giàu có đối với đông đảo nhân dân. Chế độ hình phạt thời nhà Trần rất hà khắc, thời kỳ này chế độ ngũ hình (xuy, đồ, trượng, đồ, lưu, tử) được áp dụng rộng rãi và được bổ sung thêm hàng loạt các hình phạt có tính chất đầy đọa thân thể, lăng nhục, xúc phạm con người như chặt chân, ngón chân, ngón tay, thích chữ vào mặt, bắt làm nô tỳ cho người khác. Luật hình sự thời nhà Trần đặc biệt bảo vệ chế độ tư hữu ruộng đất, năm 1245 Trần Thái Tông ban hành chính sách bán ruộng công thành ruộng tư. Sở dĩ, luật hình sự thời kỳ nhà Trần nghiêm khắc như vậy theo tôi có một số lý do sau: - Nhà Trần lên nắm quyền lực với vai trò là ngoại thích, họ hiểu rõ cái giá phải trả cho việc nhẹ tay với các đối thủ. Do vậy, hình luật hà khắc là một trong những biện pháp mà nhà Trần áp dụng.

Kết luận chương 1 
Tóm lại, mặc dù nguồn tư liệu về luật hình sự Việt nam thời kỳ phong kiến trước thế kỷ XIX còn rất nhiều tản mạn và hầu như không còn nhưng trên những nét cơ bản từ các nguồn sử liệu cũ ta thấy nổi lên một số vấn đề sau:
a/ Pháp luật bảo vệ sự bất bình đẳng trong xã hội..
b/ Nguyên tắc trách nhiệm hình sự tập thể được áp dụng trong một số trường hợp.
c/ Chế độ hình phạt hà khắc. Thời kỳ này chế độ ngũ hình cổ điển (xuy, trượng, đồ, lưu, tử) được áp dụng rộng rãi và bổ sung thêm hàng loạt các hình phạt khác có tính chất đầy đọa thân thể, lăng nhục, xúc phạm con người như chặt ngón chân, ngón tay, thích chữ vào mặt, chôn sống, bắt làm nô tỳ cho người khác.
d/ Pháp luật thời kỳ này, trước hết bảo vệ quyền lợi chính trị và kinh tế của vua quan và các tầng lớp trên của xã hội. đ/ Pháp luật thời kỳ nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê có một quy chế thành văn ra sao chúng ta chưa rõ. Đến thời kỳ Lý - Trần, pháp luật bảo vệ trật tự luân lý theo tinh thần Nho giáo và trật tự đẳng cấp trong xã hội.
e/ Pháp luật thừa nhận và bảo vệ chế độ tư hữu.

Luật hình sự thời kỳ Lý - Trần, không định nghĩa cụ thể tội phạm là gì. Mà xác định trực tiếp những hành vi nào là phạm tội và xử lý chúng như thế nào. Có thể nói, luật hình sự nhà Lý, nhà Trần không có tính khái quát cao mà mang tính trực tiếp điều chỉnh những hành vi nào xâm phạm đến lợi ích của xã hội, của nhà nước trung ương tập quyền. Điều này là phù hợp trong hoàn cảnh xã hội lúc đó, trong một xã hội nhỏ (Đại Việt thời kỳ đó rất nhỏ chỉ bằng một nửa Việt Nam hiện nay về diện tích và dân số ước chừng hơn một triệu người) thì điều chỉnh bằng việc luật đưa ra trực tiếp vấn đề cần điều chỉnh là rất hợp lý. Ở một quốc gia nhỏ thì dễ quản lý hơn bằng cách đề cập tới từng vấn đề trực tiếp, không quá trừu tượng và khái quát trong cách suy nghĩ, thực hành là yếu tố quan trọng cho sự khả thi của các quy định pháp luật.

Chương 2 
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM THỜI HẬU LÊ (Từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVIII) 

2.1. Hệ thống pháp luật hình sự thời kỳ nhà Lê 

Các hoạt động lập pháp của nhà Lê nhằm xác định ý chí của giai cấp phong kiến. Thế kỷ XV được coi là cái mốc hết sức quan trọng trong lịch sử pháp quyền Việt Nam, nhằm đáp ứng những nhu cầu phát triển trong giai đoạn xác lập và phát triển mạnh mẽ của chế độ phong kiến. Dưới thời Lê Thái Tông, một số nguyên tắc xét xử kiện cáo và một số điều luật nghiêm cấm nạn hối lộ, hoạt động giao thiệp với nước ngoài được xây dựng thêm. Năm 1449, Lê Nhân Tông ban hành 14 điều luật khẳng định và bảo vệ quyền tư hữu ruộng đất, quy định nguyên tắc xét xử những hành vi xâm phạm đến quyền tư hữu đó. Sang thời Lê Thánh Tông, triều đình ban hành nhiều quy định về việc trấn áp các hành vi chống đối, làm nguy hại đến nền an ninh quốc gia và địa vị thống trị của giai cấp phong kiến, về việc bảo vệ tôn ty, trật tự, đạo đức theo tinh thần Nho giáo.

Với những hoạt động lập pháp tích cực nói trên, triều Hậu Lê đã để lại những thành tựu đáng kể trên lĩnh vực luật pháp và điển chế.Trong đó có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như:
Quốc triều Hình luật (còn gọi là Lê triều hình luật hay Bộ luật Hồng đức) gồm 06 quyển, Luật thư gồm 06 quyển do Nguyễn Trãi soạn năm 1440-1442, Quốc triều luật lệnh gồm 06 quyển do Phan Phu Tiên soạn năm 1440-1442, Lê triều quan chế soạn năm 1471, Thiên nam dư hạ tập soạn năm 1483, Hồng Đức thiện chính thư soạn năm 1470-1497…

Trong số những công trình luật pháp kể trên thì Quốc triều Hình luật được coi là bộ luật quan trọng và chính thống nhất không chỉ trong thời Lê sơ mà còn đối với cả triều Hậu Lê nói chung.

Cơ cấu của bộ luật như sau:
- Phần đầu của bộ luật có 03 đồ biểu quy định về kích thước các hình cụ, tang phục và việc để tang.
- Chương Danh lệ: 49 điều quy định về những vấn đề cơ bản có tính chất chi phối nội dung các chương điều khác (quy định về thập ác, ngũ hình, bát nghị, chuộc tội bằng tiền v.v).
- Chương Vệ cấm: 47 điều quy định về việc bảo vệ cung cấm, kinh thành và các tội về cấm vệ.
- Chương Vi chế: 144 điều quy định về hình phạt cho các hành vi sai trái của quan lại, các tội về chức vụ.
 - Chương Quân chính: 43 điều quy định về sự trừng phạt các hành vi sai trái của tướng, sĩ, các tội quân sự.
- Chương Hộ hôn: 58 điều quy định về hộ tịch, hộ khẩu, hôn nhân-gia đình và các tội phạm trong các lĩnh vực này.
- Chương Điền sản: 59 điều, trong đó 32 điều ban đầu và 27 điều bổ sung sau (14 điều về điền sản mới tăng thêm, 4 điều về luật hương hỏa, 9 điều về châm chước bổ sung luật hương hỏa) quy định về ruộng đất, thừa kế, hương hỏa và các tội phạm trong lĩnh vực này.
- Chương Thông gian: 10 điều quy định về các tội phạm tình dục.
- Chương Đạo tặc: 54 điều quy định về các tội trộm cướp, giết người và một số tội chính trị như phản nước hại vua.
- Chương Đấu tụng: 50 điều quy định về các nhóm tội đánh nhau (ẩu đả) và các tội vu cáo, lăng mạ v.v.
- Chương Trá ngụy: 38 điều quy định các tội giả mạo, lừa dối. - Chương Tạp luật: 92 điều quy định về các tội không thuộc các nhóm tội danh trên đây.
- Chương Bộ vong: 13 điều quy định về việc bắt tội phạm chạy trốn và các tội thuộc lĩnh vực này. - Chương Đoán ngục: 65 điều quy định về việc xử án, giam giữ can phạm và các tội phạm trong lĩnh vực này.

2.2. Các đặc điểm pháp lý hình sự được quy định trong Quốc triều Hình luật thời Lê 

2.2.1. Vấn đề hiệu lực của đạo luật hình sự 

Vấn đề hiệu lực của đạo luật hình sự đã được điều chỉnh về mặt lập pháp tương đối đầy đủ trong Quốc triều Hình luật thời Lê.
Điều 14 quy định: "Các quan có trách nhiệm cai quản viên chức hay quân dân mà phạm tội do sơ suất, sai lầm, thì từ tội lưu trở xuống cho chuộc tiền. Phạm tội trong khi chưa làm quan đến khi làm quan (nghĩa là có phẩm hàm từ lục phẩm trở lên) việc mới phát, phạm tội khi ở chức thấp, đến khi thăng chức việc mới phất" đều cho giảm tội một bậc…".

Điều 17 quy định: "Phàm lúc phạm tội chưa già, chưa có tật, mà khi việc phát lộ thì đến tuổi già hay có tật thì cũng xử như người già và người tần tật. Những người trong khi đương chịu tội đồ mà đến tuổi già hoặc trở nên tàn tật thì cũng xử như thế. Phạm tội trong khi còn nhỏ, đến khi lớn việc mới phát lộ cũng được luận tội như trẻ nhỏ".

Điều 15 quy định: "Những người bị đồ lưu đi đường mà gặp lệnh ân xá thì đều được xá theo luật". Các điều luật trên cho chúng ta thấy hiệu lực về thời gian của đạo luật hình sự.

2.2.2. Về vấn đề tội phạm 

Quốc triều Hình luật nhà Lê không ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm tội phạm mà chỉ quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội, cho chế độ phong kiến là tội phạm và phải chịu hình phạt. Khi nghiên cứu các quy định về tội phạm trong Quốc triều Hình luật thời Lê ta có thể thấy một số nét chủ yếu sau:
a/ Mười tội đặc biệt nghiêm trọng (Thập ác) đã được các nhà làm luật thời kỳ này tách riêng ra và ghi nhận định nghĩa pháp lý của khái niệm từng tội này - mưu phản, mưu đại nghịch, mua bạn, ác nghịch, bất đạo, đại bất kính, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nội loạn.
b/ Dấu hiệu duy nhất bị nhà làm luật coi là Thập ác - tính chất nguy hiểm cho xã hội không chỉ của hành vi mà cả ý định phạm tội. Về các nhóm tội phạm trong Quốc triều Hình luật nhà Lê có thể phân ra như sau:
1/ Nhóm tội phạm thuộc Thập ác gồm có:
+ Mưu phản (mưu làm hại xã tắc);
+ Mưu đại nghịch (mưu phá hủy tôn miếu, lăng tẩm và cung điện của nhà vua);
+ Mưu bạn (mưu phản nước theo giặc);
+ Mưu ác nghịch;
+ Bất đạo;
+ Đại bất kính;
+ Bất hiếu;
+ Bất mục;
+ Bất nghĩa;
+ Mười là nội loạn.
Đây là nhóm tội gồm có mười tội nặng nhất xâm hại đến quyền lực của vua, đến sự tồn tại của nhà nước, đến sự tồn vong của quốc gia, xâm hại tới những quan hệ xã hội quan trọng nhất theo quan điểm của Nho giáo.

2/ Nhóm các tội khác:
Là nhóm tội được quy định ngoài các tội Thập ác.
- Quốc triều Hình luật không phân biệt mức độ của tính nguy hiểm của tội phạm với mức độ của tính nguy hiểm của những hành vi mà theo luật hiện đại chỉ là vi phạm đạo đức hoặc vi phạm hành chính, kỷ luật… Theo quy định của Bộ luật này thì tất cả các hành vi nói trên đều bị coi là tội phạm, không phụ thuộc vào mức độ của tính nguy hiểm.

2.2.3. Vấn đề "lỗi" được quy định trong Quốc triều Hình luật 

Pháp luật hình sự thời kỳ này mà cụ thể là pháp luật hình sự trong bộ Quốc triều Hình luật nhà Lê không đưa ra một khái niệm khái quát về lỗi mà chỉ đề cập đến hai hình thức lỗi cố ý và vô ý. Căn cứ vào mức độ hình phạt đã được quy định cho các tội và các trường hợp phạm tội của các tội đó chúng ta có thể suy ra quan niệm của nhà làm luật thời kỳ đó về các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ nặng nhẹ của tội phạm hay nói cách khác, là mức độ nguy hiểm của tội phạm.

Khi định tội danh đối với tội phạm do luật quy định, nếu muốn giảm nhẹ tính chất của nó mặc dù đó là tội nặng và nếu nó được thực hiện một cách vô ý thì có thể coi đó là một tội nhẹ, hoặc nếu muốn tăng nặng tính chất của nó mặc dù đó là tội nhẹ và nếu bó được thực hiện một cách cố ý - thì có thể coi đó là một tội nặng. Bằng quy phạm này, nhà làm luật đã giao cho quan xử án toàn quyền tùy nghi để coi bất kỳ tội phạm nào không được ghi nhận trong luật là tội "nhẹ" hay "nặng" mà chỉ cần căn cứ vào một điều kiện duy nhất - hình thức lỗi (vô ý hay cố ý) của tội phạm được thực hiện.

2.2.4. Trách nhiệm hình sự đối với tập thể được quy định trong Quốc triều Hình luật 

Quốc triều Hình luật thời Lê không quy định trách nhiệm hình sự đối với "bảo" như thời Lý - Trần. Mà chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với tập thể khi có các hành vi phạm tội xâm phạm tới các điều luật từ mưu bạn trở lên (bao gồm: mưu phản, mưu đại nghịch và mưu bạn)..

2.2.5. Về các giai đoạn thực hiện tội phạm được quy định trong Quốc triều Hình luật 

Quốc triều Hình luật nhà Lê không có định nghĩa về các giai đoạn thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, bộ luật này có đề cập đến thực tế của các giai đoạn thực hiện tội phạm. Cụ thể là đối với các tội như mưu phản, mưu đại nghịch, mưu bạn, giết người, tại các điều 411, 412, 416, 417, 418, 419 có quy định về các hành vi dự mưu, tức là hành động chưa xảy ra.

2.2.6. Về vấn đề đồng phạm 

Quốc triều Hình luật thời Lê đã đề cập tới vấn đề đồng phạm nhưng cũng như các chế định trước đó đã đề cập, pháp luật thời kỳ này không có khái niệm cụ thể mà chỉ có các nguyên tắc xử lý trong từng điều luật cụ thể.

Quốc triều Hình luật nhà Lê có một quy định khá đặc biệt đó là trường hợp xúi giục người khác phạm tội hoặc vì thù ghét hay ham tiền thưởng mà rủ người khác phạm tội rồi cáo giác thì đều bị xử như người phạm tội., đây là trường hợp xúi giục thực hiện tội phạm nhưng không phải là đồng phạm. Giữa người phạm tội và người xúi giục không hình thành quan hệ đồng phạm vì không thỏa mãn các dấu hiệu chủ quan của đồng phạm là cùng cố ý, cụ thể là người xúi giục không muốn hậu quả xảy ra. Tại Điều 539 quy định:
"Xui dỗ gian dối để cho người ta phạm pháp (đây là không biết mà phạm) hay rủ người làm việc phạm pháp (biết là có tội mà cũng làm), rồi bắt hay cáo giác ngay, hoặc bảo người bắt hay cáo giác, để cầu được tiền thưởng, cùng là vì hiềm ghét mà muốn khiến người ta mắc tội, thì đều phải cùng chịu tội với kẻ phạm". 

2.2.7. Những trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi 

Cũng như các chế định khác, Quốc triều Hình luật không có một khái niệm chính xác trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi nhưng các nhà làm luật đã đưa trực tiếp vấn đề đó vào trong điều luật, tức là các nhà làm luật đã chi tiết hóa, cụ thể hóa từng vấn đề rồi các quy phạm pháp luật đó điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể.

Theo quy định tại Quốc triều Hình luật thì các trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, nhìn dưới lăng kính khái quát hóa của khoa học pháp lý hình sự hiện đại thì có thể đưa ra các trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi như sau:
- Nhóm thứ nhất - những trường hợp không bị coi là có lỗi (bao gồm các trường hợp: phòng vệ chính đáng, bắt người phạm tội quả tang, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ, một số trường hợp là phạm tội do vô ý).
- Nhóm thứ hai - những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật (bao gồm các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự).
- Nhóm thứ ba - những trường hợp không có năng lực trách nhiệm hình sự (như chưa đến tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự hoặc quá tuổi chịu trách nhiệm hình sự).
Trong các trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi kể trên chúng ta thấy rõ sự khác biệt trong quy định tại Quốc triều Hình luật với Bộ luật hình sự năm 1999 của nước CHXHCN Việt Nam được sửa đổi, bổ sung năm 2009, hầu hết các quy định về các trường hợp loại trừ tính chất tội phạm của hành vi của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung năm 2009 đều có mặt tại Quốc triều Hình luật nhưng có một trường hợp là người già từ 70 tuổi trở lên thì Bộ luật hình sự năm 1999 không có.

Đây là điểm khác biệt lớn giữa hai bộ luật, ở Quốc triều Hình luật toát lên sự kính trọng người cao tuổi, yêu quý con trẻ, thông cảm với hoàn cảnh của người tàn tật thấm đẫm tinh thần dân tộc.

2.2.8. Những quy định về hệ thống hình phạt của Quốc triều Hình luật

 - Loại thứ nhất: Xuy hình [đánh bằng roi], có năm bậc: 10 roi, 20 roi, 30 roi, 40 roi, 50 roi.
- Loại thứ hai: Trượng hình [đánh bằng gậy], có năm bậc: 60 trượng, 70 trượng, 80 trượng, 90 trượng, 100 trượng.
- Loại thứ ba: Đồ hình (đày làm khổ dịch), có ba bậc.
- Loại thứ tư: Lưu hình [đày phát vãng], có ba bậc (chi làm từ châu gần đến châu xa, có thêm bớt). - Loại thứ năm: Tử hình [giết chết], có ba bậc (từ giảo trảm đến lăng trì gồm ba bậc. Giảo với trảm kể là một bậc, khiêu và lăng trì kể riêng là hai bậc, có thêm bớt).
Ngoài hình phạt bổ sung là hình phạt tiền còn có hình phạt bổ sung nữa là hạ trật (biếm chức).

Hai hình phạt bổ sung của Quốc triều Hình luật là điểm khác biệt của bộ luật này với các bộ luật của các quốc gia láng giềng mà điển hình là Trung Hoa, kể cả sau này bộ Hoàng Việt luật lệ không có hai hình phạt bổ sung này. Đây có thể nói là điểm rất tiến bộ của Quốc triều Hình luật, tiếp cận với các quy định của luật hình sự hiện đại.

Việc áp dụng hình phạt đối với các đối tượng khác nhau cũng có sự phân biệt. Phân biệt giữa người già, trẻ em, phụ nữ, người tàn tật với các thành phần còn lại trong xã hội. Sự phân biệt này được tôi nêu cụ thể trong phần sau của luận văn.

2.2.9. Nguyên tắc nhân đạo được quy định trong Quốc triều Hình luật 

Quốc triều Hình luật cũng như các văn bản pháp luật khác được xây dựng dưới triều đại nhà Lê với ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng Khổng - Mạnh, một triết lý mang đậm tính nhân văn, đạo đức. Triết lý này lấy đạo đức con người là trung tâm của mọi mối quan hệ trong xã hội, do vậy, Quốc triều Hình luật cũng mang đậm tính nhân văn theo tinh thần Nho giáo. Đặc biệt hơn nữa trong Quốc triều Hình luật đặt ra mức hình phạt dành cho người phạm tội là phụ nữ và hình phạt đối với phụ nữ có thai cũng phản ánh tính chất nhân đạo. Qui định này được đánh giá rất cao về sự tiến bộ của nó, nếu đặt nó trong mối liên hệ với quan niệm phong kiến (chịu ảnh hưởng lớn của tư tưởng Nho giáo) về địa vị thấp kém của người phụ nữ so với người chồng trong gia đình. Tính nhân đạo còn được thể hiện ở chỗ cho phép hoãn hình phạt đối với phụ nữ đang có thai và 100 ngày sau khi sinh con.

Các quy định của Quốc triều Hình luật có rất nhiều điểm tiến bộ so với sự phát triển của xã hội trong thời kỳ đó.

Các điểm tiến bộ thể hiện ở chỗ: Các quy định về hình phạt cho phạm nhân nữ bao giờ cũng thấp hơn so với phạm nhân nam khi mà cùng phạm một tội.

Kết luận chương 2 

Qua sự phân tích các đặc điểm chủ yếu của luật hình sự Việt Nam thời kỳ nhà Lê thông qua các quy định trong Quốc triều Hình luật ta có thể rút ra một số kết luận sau:
Bộ luật Hồng Đức đã thể hiện được đặc trưng văn hóa của dân tộc, nhiều qui định trong Bộ luật thể hiện tính sáng tạo cao của nhà làm luật.
Mặc dù chịu sự ảnh hưởng sâu sắc của bộ Đường Luật sớ nghị thời nhà Đường, nhưng trong số 722 Điều của Quốc triều Hình luật thì có đến 315 điều (chiếm gần một nửa tổng số điều luật) là không tìm thấy trong Bộ luật của nhà Đường. Quốc triều Hình luật vừa tiếp thu có chọn lọc tư tưởng của Nho giáo vừa phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc mình. Giống như các bộ luật phong kiến khác, Quốc triều Hình luật thời Lê thể hiện rõ bản chất giai cấp của nó. Mục tiêu hàng đầu của nó là để bảo vệ vương quyền, địa vị và quyền lợi của giai cấp phong kiến, củng cố trật tự xã hội và gia đình gia trưởng phong kiến. Nó là sự pháp điển hóa tư tưởng chính trị và đạo đức Nho giáo. Tuy vậy, không thể phủ nhận các điểm đặc sắc và tiến bộ của nó. Thông qua những công trình nghiên cứu, các nhà khoa học, các nhà quản lý đều thống nhất cho rằng, mặc dù khác nhau về thể chế chính trị và đã được ban hành cách đây hàng trăm năm, nhưng Quốc triều Hình luật có rất nhiều giá trị đối với đương đại mà chúng ta đã, đang và cần tiếp tục kế thừa, tham khảo trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng xã hội dân chủ và tiến bộ.

Những điều luật trong Quốc triều Hình luật đã xác định trách nhiệm của nhà nước thông qua trách nhiệm của hệ thống quan lại nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu của người nghèo khổ trong xã hội (Điều 294; Điều 295).
Quốc triều Hình luật là bộ luật có những thành tựu to lớn, có những nét riêng biệt, thể hiện độc đáo bản sắc dân tộc và tính độc lập của một quốc gia có chủ quyền. Đây là bộ luật đã khẳng định được giá trị và vị thế của mình trong lịch sử hệ thống pháp luật của dân tộc và trên thế giới bởi những giá trị tiến bộ của nó vượt trước thời đại bấy giờ, và mang tính nhân đạo nhân văn sâu sắc của người Việt.

Chương 3 MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM THỜI NGUYỄN {Từ đầu thế kỷ XIX đến khi thực dân Pháp xâm lược nước ta (1858)} 

3.1. Pháp luật hình sự thời kỳ nhà Nguyễn 

Vua Gia Long (Nguyễn Phúc Ánh: 1762 - 1820) đã ra lệnh cho triều thần biên soạn một bộ luật nhằm làm cho công cuộc trị nước lâu dài. Bộ luật này có tên là Hoàng triều luật lệ ban hành năm 1815, thường gọi là Bộ luật Gia long.

Hoàng Việt luật lệ gồm 398 điều, chia làm 22 quyển. Các điều khoản của Bộ luật được chia làm 6 loại tương đương với việc phân chia công việc nhà nước do 6 bộ phụ trách. Bộ luật có phần Danh lệ, trong đó quy định những nguyên tắc chung về tội phạm và hình phạt (45 điều), Lại luật (27 điều), Hộ luật (66 điều), Lễ luật (26 điều), Binh luật (28 điều), Công luật (10 điều). Phần cuối của bộ luật có Tỷ dẫn điều luật quy định về việc so sánh các trường hợp phạm pháp và những trường hợp chưa được quy định mà tương tự trong luật để sử dụng hình phạt.

3.2. Những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự nhà Nguyễn (từ đầu thế kỷ xix đến năm 1858)

Tương tự như pháp luật hình sự thời kỳ nhà Lê, pháp luật hình sự nhà Nguyễn không định nghĩa pháp lý của khái niệm tội phạm, mà chỉ quy định những hành vi nguy hiểm cho chế độ phong kiến, xã hội là tội phạm và phải chịu hình phạt. Một số hành vi vi phạm đạo đức, luân lý như bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nổi loạn được đặt ngang hàng với các tội xâm phạm an ninh quốc gia như mưu phản, mưu bạn, mưu đại nghịch…Nhà làm luật thời kỳ này còn quy định những việc không nên làm thuộc phạm trù đạo đức, luân lý thì đều bị coi là tội phạm. Các quy định của Hoàng Việt luật lệ về các loại tội phạm, hệ thống hình phạt cũng như các nguyên tắc trừng trị về cơ bản tương tự như Bộ luật Hồng Đức. Tuy nhiên, cách chia khung hình phạt có khác nhau.

Kết luận chương 3 

Hoàng Việt luật lệ là bộ tổng tập luật lệ của triều Nguyễn những qua nghiên cứu thì chúng ta thấy rằng bộ luật này đã mô phỏng bộ luật nhà Thanh từ tên gọi trở đi. Nếu như các triều đại trước của Việt Nam đều gọi là Hình thư, Hình luật, Quốc triều Hình luật thì bộ luật nhà Nguyễn được gọi là Hoàng Việt luật lệ, bộ luật nhà Thanh được gọi là Đại Thanh luật lệ.

Hoàng Việt luật lệ là một bộ tổng luật được xây dựng qua sự mô phỏng bộ luật của triều Mãn Thanh (Trung Hoa) nên nó không quan tâm đến việc phản ánh phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, nó đã tước bỏ đi những kết hợp hoàn hảo của tư tưởng Khổng - Mạnh và phong tục, tập quán Việt Nam trong bộ luật Hồng Đức. Hình luật của triều Nguyễn mang tính chất trừng trị rất cao, tính nhân đạo thể hiện không rõ nét. Nhà Nguyễn thống nhất được đất nước nhưng lòng dân vẫn hướng về nhà Lê nên để trị quốc, an dân nhà Nguyễn đã xây dựng nền pháp luật có tính trừng trị cao nhằm bảo vệ vương quyền của dòng tộc.

KẾT LUẬN 

Tóm lại, qua nghiên cứu đề tài luận văn thạc sĩ Luật học: "Những đặc điểm chủ yếu của luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến", chúng tôi đưa ra một số kết luận chung dưới đây.

1. Dưới con mắt của các nhà làm luật phong kiến Việt Nam thì pháp luật là Hình. "Hình là cái giúp cho công việc trị nước, tuy trong đạo chính trị không phải là cái đi trước, nhưng pháp luật để cấm dân làm bậy thì thánh nhân có bao giờ bỏ đâu. Cho nên điều luật và lệnh cấm là để phòng ngừa trong việc trị nước. Phép dụng hình của các triều đình phải nên châm chước, để cầu vừa phải".

Có lẽ, các nhà làm luật thời kỳ đó chỉ muốn một điều là pháp luật là công cụ để trị nước, nói như Khổng Tử trong Luận ngữ: "Luật pháp chỉ là công cụ dẫn dắt bằng chính, chấn chỉnh bằng hình, dân chịu mà vô sỉ. Dẫn dắt bằng đức, chấn chỉnh bằng lễ, biết sỉ lại tiêu chuẩn, dân mới biết tự trọng và vào nề nếp… Pháp luật chỉ khiến người ta sợ mà không dám làm điều ác, còn dùng đức trị thì người ta xúc động tận trong lòng và tự nguyện thực hiện, không phải vì sợ pháp luật mà là vì sợ xấu hổ trước người khác, sợ lương tâm cắn rứt đến chết dần, chết mòn...".

2. Các triều đại phong kiến Việt Nam đều quan niệm rằng: "Trừng phạt để về sau không còn phải trừng phạt nữa, đặt ra tội hình để về sau không còn phải dùng đến tội hình nữa". Với quan niệm như vậy, nên các bộ luật của các triều đại phong kiến Việt Nam có thể gọi đúng theo nghĩa mà các tác giả của nó vẫn gọi, đó là Hình luật. Mặc dù, trong các bộ luật này có chứa những điều luật về các ngànhh luật khác như dân sự, hôn nhân, tố tụng… Nhưng tựu trung lại vẫn chủ yếu là về hình sự. Các nhà lập pháp phong kiến Việt Nam đặt việc ổn định xã hội nên hàng đầu, điều này là trùng hợp với pháp luật Trung Hoa phong kiến (có thể nói một cách chính xác là chúng ta học tập họ). Các nhà lập pháp Trung Hoa lấy ổn định đế quốc là mục tiêu. Để duy trì ổn định, phải tạo ra sự phụ thuộc. Từ ý tưởng này mà tạo ra quan hệ cha con: Thờ cha khi đã chết, Lễ này liên quan tới tôn giáo, Kính cha khi còn sống, Lễ này liên quan đến pháp luật và phong tục, tập quán. Đây cũng là quan niệm xuyên suốt của các nhà làm luật Việt Nam thời kỳ phong kiến.

3. Quốc triều Hình luật thời Lê, Hoàng Việt luật lệ là những bộ luật còn lại đến ngày nay của nước Việt Nam thời kỳ phong kiến, cả hai đã có những thành tựu to lớn, có những nét riêng biệt, thể hiện độc đáo bản sắc dân tộc và tính độc lập của một quốc gia có chủ quyền. Đặc biệt Quốc triều Hình luật thời Lê là bộ luật đã khẳng định được giá trị và vị thế của mình trong lịch sử hệ thống pháp luật của dân tộc và trên thế giới bởi những giá trị tiến bộ của nó vượt trước thời đại bấy giờ, và mang tính nhân đạo nhân văn sâu sắc của người Việt. Những giá trị trong những bộ luật hình sự thời kỳ này thể hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, bao trùm lên tất cả các lĩnh vực kinh tế và xã hội. Những bộ luật này ra đời ở một thời điểm rất xa so với hiện tại, nhiều vấn đề không thể so sánh được, song những giá trị của chúng về kĩ thuật lập pháp thì lại như một hằng số đang liên quan trực tiếp đến những vướng mắc của hiện tại, rất đáng để ta phải suy ngẫm, kế thừa, ví dụ như:
3.1. Việc xây dựng các chế tài cố định trong Quốc triều Hình luật thời Lê ở một chừng mực nhất định rất thuận lợi cho việc áp dụng, và có ưu điểm là tránh được sự tùy tiện trong việc áp dụng. Không nên xây dựng chế tài mà khoảng cách giữa mức thấp nhất và mức cao nhất của chế tài rộng, rất dễ dẫn đến sự tùy tiện trong việc áp dụng. Xây dựng nhà nước pháp quyền thì nguyên tắc "cán bộ, công chức sẽ chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép" phải được tuyệt đối tuân thủ.
3.2. Pháp luật được đảm bảo thực hiện ngày nay phần quan trọng là ở người dân, nếu vậy luật phải được xây dựng một cách rõ ràng, đầy đủ và cụ thể tất cả các bộ phận (giả định, quy định, chế tài) của quy phạm pháp luật. Có như thế mới tạo điều kiện để toàn thể mọi tầng lớp nhân dân hiểu luật, sống và làm việc theo pháp luật. Cũng nên nghiên cứu và học tập các mô tả tình huống, rồi mở rộng, lường tính tất cả các vấn đề phát sinh trong Bộ luật. Nhà làm luật nên chăng cần suy nghĩ về các vấn đề phát sinh trong cuộc sống, dự đoán, lường tính các vấn đề phát sinh, chứ không phải là đi sửa chữa về mặt câu chữ theo kiểu "làm văn tập thể" như một đại biểu quốc hội đã nói trước Quốc hội.
3.3. Pháp luật thời kỳ phong kiến, đặc biệt là Quốc triều Hình luật thời Lê thể hiện tính nhân văn sâu sắc, các quy định của nó vừa mang tính đạo đức dân tộc, vừa mang tính quy phạm pháp luật, là những cơ sở để giáo dục truyền thống, xây dựng những con người Việt Nam có thể hội nhập với thế giới nhưng vẫn giữ gìn bản sắc dân tộc đã được khẳng định và bảo tồn trong suốt chiều dài lịch sử.

4. Pháp luật hình sự của Việt Nam thời kỳ phong kiến là phương tiện để điều tiết các quan hệ xã hội nhờ đó tạo ra được một trật tự xã hội ổn định có tác dụng thúc đẩy xã hội phong kiến Việt Nam phát triển. Mặc dù còn tồn tại các vấn đề thuộc về bản chất của pháp luật phong kiến như pháp luật đã thể chế hóa đặc quyền của giai cấp thống trị, bảo vệ các trật tự đẳng cấp phong kiến như trật tự vua - tôi, trật tự gia trưởng, trật tự đẳng cấp quan liêu. Các trật tự này đều được thiết lập theo nguyên tắc bất bình đẳng trên cơ sở xác định mối quan hệ trên dưới. Các vấn đề này đã thuộc về bản chất của pháp luật phong kiến và đương nhiên, pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến cũng không thể vượt qua được quy luật này. Tuy nhiên, pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến đã có những quy định mà cho đến nay, chúng ta vẫn phải nhìn nhận một cách đúng đắn về nó.

5. Chúng ta phải khẳng định với nhau rằng, các triều đại phong kiến Việt Nam có vay mượn, sao chép từ các triều đại phong kiến của đế chế Trung Hoa về luật pháp, đặc biệt là các đời Đường, Tống, Minh và Thanh. Nhưng không vì vậy, luật pháp Việt Nam thời kỳ phong kiến lại đánh mất đi bản sắc dân tộc của mình. Đây chính là sự sáng tạo của cha ông ta, GS.TS. Insun Yu (trường Đại học Quốc gia Seoul - Hàn Quốc) đã nhận xét: "Hệ thống luật pháp thời phong kiến ở bán đảo Triều Tiên và Việt Nam (Đại Việt, Đại Nam) chịu ảnh hưởng của luật pháp Trung Quốc, cụ thể là luật nhà Đường; Luật pháp phong kiến ở Việt Nam chịu ảnh hưởng của luật nhà Đường nhiều hơn ở bán đảo Triều Tiên, nhưng vẫn có tính địa phương trong đó; Luật pháp của vương triều Choson chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của bộ luật nhà Minh; Đạo Khổng ảnh hưởng mạnh đến xã hội truyền thống trên bán đảo Triều Tiên và Việt Nam do đó đã kéo theo những ảnh hưởng về luật pháp từ Trung Quốc, nhưng bán đảo Triều Tiên chịu ảnh hưởng của Nho giáo mạnh hơn xã hội truyền thống Việt Nam".

6. Xã hội Việt Nam rất dễ tiếp nhận những nguyên lý của các tôn giáo nhưng khi nó vào đến Việt Nam nó đã bị Việt hóa đi rất nhiều và nó trở nên mềm mại hơn, thuần Việt hơn. Ví dụ như khi ở Trung Hoa, Nho gia chủ trương mối quan hệ Quân - Sư - Phụ nhưng khi sang Việt Nam mối quan hệ này bị thay đổi đi rất nhiều, người Việt Nam yêu nước, yêu quê hương chứ không coi trọng vị trí quân - thần như Nho gia chủ trương. Chính vì vậy mà các bộ luật của Việt Nam thời kỳ phong kiến rất chú trọng đến bảo vệ cương thổ quốc gia, vấn đề này được đặt lên hàng đầu. Hơn nữa, nếu như một nền pháp luật không hợp lòng dân, không phù hợp với đạo đức, tập quán của người dân ở quốc gia đó thì sẽ không tồn tại được lâu. Chúng ta so sánh giữa thời gian "sống" của hai bộ luật là Quốc triều Hình luật thời nhà Lê và Hoàng Việt luật lệ thời nhà Nguyễn sẽ thấy rõ điều này. Quốc triều Hình luật thời nhà Lê rất gần gũi với phong tục, tập quán và đạo đức của người Việt Nam nên có sức sống rất mãnh liệt, có một thực tế là cho đến thời điểm mà tôi đang hoàn thành luận văn này thì những điều luật của Quốc triều Hình luật vẫn được bảo tồn trong một số hương ước của các làng tại vùng nông thôn Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ. Còn Hoàng Việt luật lệ do vay mượn một cách khiên cưỡng bộ luật nhà Thanh - Trung Hoa nên không có sự phù hợp với đặc tính dân tộc Việt. Do vậy, nó không có sức sống lâu bền được. Lẽ dĩ nhiên, đề tài và nội dung đề cập không tránh khỏi tính phiến diện, vì nó được triển khai trong khía cạnh hẹp so với nội dung to lớn của các nội dung và yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đang phát động, cũng như không thể đi sâu hết được những ý tưởng cao thâm mà ông cha ta đã ra sức xây dựng và được kết tinh dưới những bộ luật. Có thể nói không quá rằng, việc xây dựng các bộ luật là biểu hiện của một nền văn hóa của một dân tộc. Một bộ luật đã hàm chứa tất cả những quan hệ xã hội, những phong tục, tập quán, thể hiện đức tính của cả dân tộc trong thời điểm đó. Vì vậy, học tập, đúc rút những kinh nghiệm của cha ông trong việc xây dựng, áp dụng pháp luật là một việc làm không phải chỉ là sự hoài cổ mà còn là sự nhìn về quá khứ oai hùng, nhân văn của dân tộc. Để kết thúc luận văn này, tôi xin trích dẫn câu nói của Montesquieu trong cuốn Tinh thần pháp luật: "... trong một thể chế cộng hòa tốt đẹp, nói chung mọi thứ phải do phong tục quyết định".

References 
1. Lê Cảm (1999), "Luật hình sự Việt Nam trước thế kỷ XV", Dân chủ và pháp luật, (5). 
2. Lê Cảm (1999), "Luật hình sự Việt Nam thế kỷ XV - cuối thế kỷ XVIII", Dân chủ và pháp luật, (8). 
3. Lê Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 
4. Lê Cảm (Chủ biên) (2007), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 
5. Nguyễn Huy Chiểu (1972), Hình luật, Viện Đại học Sài Gòn, Sài Gòn. 
6. Thiều Chửu (2005), Hán - Việt tự điển, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 
7. Quỳnh Cư - Đỗ Đức Hùng (1995), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội. 
8. Đại Nam thực lục (tiền biên) (1962), Nxb Sử học, Hà Nội. 
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới, Hà Nội. 
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội. 
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 12/6 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội. 
12. Nguyễn Hùng Hậu (2003), "Đặc điểm của Nho Việt", Triết học, 3(142). 
13. Hoàng Việt luật lệ (2002), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 
14. Nguyễn Ngọc Hòa (2005), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập I, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 
15. Nguyễn Ngọc Hòa (2005), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập II, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội 
16. Nguyễn Ngọc Hòa (2005), "Khái niệm tội phạm - so sánh giữa bộ luật Hồng Đức và bộ luật hình sự hiện nay", Nhà nước và pháp luật, (1). 
17. Nguyễn Ngọc Hòa (2007), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 
18. Phạm Đăng Hùng, Lê Công Lai (1996), Lịch sử triết học Phương Đông, Nxb Giao thông vận tải, Hà nội. 
19. Insun Yu (2008), Những hệ thống luật pháp truyền thống ở Trung Quốc, bán đảo Triều Tiên và Việt Nam, Chuyên đề khoa học. 
20. Kinh Dịch (1986), (Bản dịch tiếng Việt của Nguyễn Hiến Lê), Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội; 21. Lịch triều hiến chương loại chí (2008), tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
22. Lịch triều hiến chương loại chí (2008), tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
23. Ngô Sỹ Liên (2003), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
24. Phan Huy Lê (1960), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
25. Nguyễn Đình Lộc - Uông Chu Lưu - Hoàng Thế Liên (2006), Từ điển luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
26. Luận ngữ (1950), Nxb Trí Đức Tòng Thơ, Sài Gòn. 
27. Vũ Văn Mẫu (1975), Cổ luật Việt Nam và Tư pháp sử diễn giảng, Sài gòn. 
28. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, (Bản dịch tiếng Việt: Hoàng Thanh Đạm), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
29. Hoàng Phê (Chủ biên) (2006), Từ điển tiếng Việt, Nxbn Đà Nẵng, Đà Nẵng. 
30. Vũ Thị Phụng (2003), Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 
31. Hoàng Thị Kim Quế (1999), "Một số suy nghĩ về mối quan hệ giữa pháp luật và đạo đức trong hệ thống điều chỉnh xã hội", Nhà nước và pháp luật, (135). 
32. Hoàng Thị Kim Quế (2005), Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 
33. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội. 
34. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội. 
35. Quốc hội (2009), Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung), Hà Nội. 
36. Quốc triều Hình luật (Luật hình triều Lê - Luật Hồng Đức) (2003), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 37. Trương Hữu Quýnh (1982), Chế độ ruộng đất ở Việt Nam thế kỷ XI - XVIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
38. J.J. Rousseau (2006), Bàn về khế ước xã hội, (Bản dịch tiếng Việt: Hoàng Thanh Đạm), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 
39. Văn Tân (1963), "Thử căn cứ vào bộ luật Hồng Đức để tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lê sơ", Nghiên cứu Lịch sử, (46). 
40. Kiều Đình Thụ (1998), Tìm hiểu Luật hình sự Việt Nam, Nxb Đồng Nai. 
41. Nguyễn Quang Thắng (2002), Lược khảo Hoàng Việt luật lệ, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 42. Hà Văn Thư - Trần Hồng Đức (2005), Tóm tắt niêm biểu lịch sử Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 
43. Trần Quang Tiệp (2003), Lịch sử Luật hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
44. Lê Đức Tiết (1998), Về hương ước và lệ làng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
45. Đinh Gia Trinh (1968), Sơ thảo Lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam, Tập I (Từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
46. Tứ Thư (2003), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 
47. Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam, Quyển I - Những vấn đề chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
48. Việt sử lược (1960), Nxb Sử học, Hà Nội. 
49. Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn (1972), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
TIẾNG ANH 50. Samuel Hungtington, The Clash of Civilzation and the remaking of World order, Simon & Schuster Published, Canada, 2001.


Thứ Năm, 5 tháng 1, 2017

Vì sao ông Tập nhận định cuộc chiến chống tham nhũng đã giành được ‘thế áp đảo’?; Nguồn gốc của phong tục đốt pháo ngày Tết

Đã bao đời nay tại Việt Nam, người ta đốt pháo trong các dịp như mừng tân gia, mừng thăng quan tiến chức, mừng thọ, mừng sinh con trai… Đặc biệt trong Tết Nguyên đán, đốt pháo là một phong tục không thể thiếu. Vậy phong tục đó từ đâu mà ra và có ý nghĩa gì?

đốt pháo hoa, phong tục, ngày tết,
Đốt pháo là phong tục của Tết Việt xưa. (Ảnh: Internet)
Bài thơ Vịnh Tết của Nguyễn Công Trứ đã miêu tả đầy đủ cảnh Tết dù là Tết của người nghèo:
“Bánh chưng chất chặt chừng hai chiếc,
Rượu thuốc ngâm đầy độ nửa siêu.
Trừ tịch kêu vang ba tiếng pháo,
Nguyên tiêu cao ngất một gang nêu!”
Pháo có nguồn gốc từ Trung Quốc cổ đại, cách đây khoảng 2.000 năm về trước. Truyền thuyết phổ biến nhất kể rằng pháo được phát minh bởi một đầu bếp người Trung Quốc khi tình cờ trộn than, lưu huỳnh và kali nitrat với nhau, những thứ này đều thường có trong nhà bếp thời đó. Hỗn hợp này có thể cháy và khi được nén trong ống tre thì phát nổ.
Một số nguồn tin cũng cho rằng, pháo được một đạo sĩ người Trung Quốc cổ đại tên Lý Điền, ​​sống vào thời nhà Tống (960-1279) phát minh ra vào khoảng 1.000 năm trước. Trong triều đại nhà Tống, người dân địa phương đã lập miếu thờ ông. Hiện nay, người dân Trung Quốc vẫn thắp hương thờ Lý Điền để kỷ niệm sự kiện này vào mỗi ngày 18/4 hàng năm.
đốt pháo hoa, phong tục, ngày tết,
Pháo bông có nguồn gốc từ Trung Hoa cổ đại. (Ảnh: Internet)
Từ xưa đến nay, pháo được cho là có sức mạnh xua đuổi tà ma, chúng sẽ hoảng sợ trước những tiếng pháo nổ lớn. Pháo được sử dụng cho mục đích này tại hầu hết các sự kiện như đám cưới, đám tang, sinh nhật, mừng thọ,… đặc biệt là vào dịp Tết Nguyên Đán để xua đuổi ma quỷ cho một năm may mắn.
Ngoài ra đốt pháo cũng là một cách dự đoán tương lai. Nhà ai đốt pháo không nổ phải châm lại hai ba lần, hay pháo nổ rời rạc thì năm đó làm ăn không thuận lợi. Đám cưới mà đốt pháo không nổ cũng là một điềm xui.
Trong lễ mừng thọ, mừng thăng quan, mừng sinh con trai, mừng tân gia, người ta đốt pháo khi cử hành lễ gia tiên, và khi có những quan khách sang trọng đến. Trong ngày Tết, người ta đốt pháo lúc giao thừa và sau đó là suốt ba ngày Tết. Khi đến nhà ai chúc Tết, khi vào cổng, khách cũng có thể đốt một phong pháo để chúc mừng.
Người Ý cũng bị mê hoặc với pháo bông kể từ khi nhà thám hiểm Marco Polo mang pháo nổ từ Phương Đông trở về vào năm 1292. Vào thời kì Phục hưng ở châu Âu (1400 -1500), người Ý là những người Châu Âu đầu tiên phát triển, tạo ra thêm nhiều màu sắc cho pháo, cải tiến kĩ thuật bắn pháo, giúp pháo bông phát triển thành pháo hoa.
đốt pháo hoa, phong tục, ngày tết,
Bắn pháo hoa trên sông Themes, London năm 1974. (Ảnh: Internet)
Người Anh cũng bị cuốn hút với pháo hoa. Pháo hoa đã trở nên rất phổ biến ở Vương quốc Anh dưới thời trị vì của Nữ hoàng Elizabeth I. Thậm chí Nữ hoàng yêu thích pháo hoa đến độ đặt cho nó một tước hiệu mới là “Ngọn đuốc của nước Anh”(Fire Master of England).
Hoàng đế James Đệ Nhị cũng tự phong tước vị đó cho mình vì ông rất hài lòng với những tràng pháo hoa trong ngày kỷ niệm lễ đăng quang.
Tổng hợp

tập cận bình

Vì sao ông Tập nhận định cuộc chiến chống tham nhũng đã giành được ‘thế áp đảo’?

Tại một cuộc họp gần đây của giới lãnh đạo hàng đầu trong chính quyền Trung Quốc, ông Tập Cận Bình đã gửi đi tín hiệu mạnh mẽ nhất từ trước đến nay rằng ông đang tiến sát cựu lãnh đạo Giang Trạch Dân, đối thủ chính trị của ông Tập.
“Cuộc chiến chống tham nhũng đã giành được thế áp đảo”, trích đoạn một tuyên bố được truyền tải qua Tân Hoa Xã về cuộc họp của Bộ chính trị vào hôm 28/12 do ông Tập chủ trì.
Đánh giá này của ông Tập là tuyên bố lạc quan nhất từ trước đến nay. Tại cuộc họp thường niên của Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Đảng vào tháng 1/2016, ông Tập mới chỉ nhận định “Cuộc chiến chống tham nhũng đang giành được thế áp đảo”, theo Tân Hoa Xã. Còn trong cuộc họp tương tự trước đó tròn một năm, ông nói rằng công tác chống tham nhũng “chưa đạt được thắng lợi áp đảo”.
Trên bề mặt, chiến dịch chống tham nhũng của ông Tập Cận Bình dường như là một nỗ lực thuần túy nhằm diệt trừ những sai phạm của các quan chức trong chính quyền, và lật ngược văn hóa tham nhũng ở Trung Quốc. Tuy nhiên chiến dịch chống tham nhũng của ông Tập luôn có một mục đích cơ bản là diệt trừ phe đối thủ – cựu Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Giang Trạch Dân.
Ông Giang đã cài cắm nhiều nhân vật trung thành vào các chức vụ cao cấp để tiếp tục duy trì vị thế thống trị sau khi chuyển giao chức vụ cho người kế nhiệm Hồ Cẩm Đào. Nhiều quan chức cấp thấp cũng ủng hộ ông Giang vì ông này cho phép họ trở nên giàu có và quyền lực bằng tình trạng tham nhũng và hủ bại.
Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào (trái), và người tiền nhiệm Giang Trạch Dân xem cuộc diễu hành nhân lễ kỷ niệm 60 năm ngày thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tại Bắc Kinh, ngày 01/10/2009. (Xinhua / Yao Dawei)
Ông Tập đã cho thấy rằng chiến dịch chống tham nhũng của ông là nhằm giành lấy quyền lực từ tay ông Giang. Điều này chưa từng được thể hiện trong các tuyên bố chính thức, nhưng lại khá hiển nhiên khi người ta hiểu được ẩn ý của những tuyên bố đó.
Các đồng minh đầy quyền lực của ông Giang đã bị thanh trừng, chẳng hạn Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang, Quách Bá Hùng, Từ Tài Hậu, Lệnh Kế Hoạch. Những người này thường xuyên bị ông Tập điểm tên và bêu xấu trong các bài diễn văn chính thức và các bài xã luận trên các báo Đảng. Họ bị miêu tả là những kẻ đầy tham vọng có âm mưu chính trị đã bị khai trừ khỏi Đảng và bỏ tù.
Cựu Bộ trưởng Công an Chu Vĩnh Khang (trái) và ủy viên Bộ Chính trị Bạc Hy Lai là hai trợ thủ đắc lực của ông Giang Trạch Dân trong cuộc đàn áp Pháp Luân Công (Ảnh: People’s Daily Online)
Giới lãnh đạo các cơ quan chủ chốt của Đảng do phe Giang kiểm soát – như ngành an ninh, tuyên truyền, các văn phòng giám sát Hồng Kông – cũng bị các nhà điều tra chống tham nhũng trừng trị vì thiếu “nhận thức và nhạy bén chính trị”, ám chỉ việc không tuân thủ hoặc không thực thi đúng đắn các mệnh lệnh của ông Tập.
Ba đồng minh của ông Giang trong bảy thành viên của Ban thường vụ Bộ chính trị đã bị cảnh cáo trực tiếp hoặc gián tiếp.
Các cấp dưới của Phó Thủ tướng Trương Cao Lệ, những người đã giành được các vị trí đứng đầu ở Thiên Tân khi ông Trương là lãnh đạo của thành phố này, đã bị điều tra vì tham nhũng, một động thái mà có thể báo trước việc ông Trương cuối cùng cũng sẽ bị điều tra.
Trong lúc đó, một tờ báo thân Bắc Kinh ở Hồng Kông đã cáo buộc trưởng bộ máy lập pháp Trương Đức Giang và trưởng ban tuyên truyền Lưu Vân Sơn về việc mang “tai ương” đến cho Hồng Kông. Tờ báo này khẳng định ông Trương và ông Lưu đã thoát khỏi bị truy cứu trách nhiệm do khách hàng chính trị của họ là ông Giang Trạch Dân.
Bản thân ông Giang dường như cũng bị kiểm soát kể từ tháng 8/2015, khi Nhân dân Nhật báo cho đăng một bài xã luận cảnh báo các quan chức đặc quyền đã về hưu không được tham dự vào chính trị đương thời.
Ông Giang không được nhìn thấy trước công chúng sau cuộc diễu binh lớn vào năm 2015. Ông ta cũng không có mặt trong lễ tang của các quan chức Đảng nổi bật. Đây là một điềm xấu trong chính quyền Trung Quốc, khi mà địa vị và quyền lực thật sự của các quan chức hàng đầu được thể hiện qua các sự kiện trông có vẻ nhỏ nhặt.
Vào tháng 3/2016, ông Trịnh Ân Sủng, luật sư nhân quyền ở Thượng Hải đã kể với Đại Kỷ Nguyên rằng ông Giang và hai con trai đã chịu một số biện pháp quản thúc, trích lời “các nguồn tin cực kỳ đáng tin cậy”. Ông Trịnh cũng kể về hoàn cảnh đã được nới lỏng của mình. Ông là người đã đối đầu với các thành viên đầy quyền lực của phe cánh ông Giang tại Thượng Hải, và hiện đang bị quản thúc tại gia.
Vào tháng 6/2016, Đại Kỷ Nguyên biết được từ một thành viên thuộc nhóm an ninh đặc biệt dành cho các quan chức cấp cao về hưu rằng ông Giang đã bị cảnh sát bán quân sự Trung Quốc ép rời khỏi tư gia vào ngày 10/6, và bị đưa vào một quân khu.
Cựu Phó Chủ tịch Trung Quốc Tăng Khánh Hồng tham dự phiên khai mạc Đại hội Đảng lần thứ 18 được tổ chức tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh vào ngày 18/11/2012 (Ảnh: Feng Li / Getty Images)
Việc ông Giang và khả năng cả trợ thủ quan trọng của ông ta – cựu Phó Chủ tịch nước Tăng Khánh Hồng, đang gặp rắc rối lớn đã được ông Tập Cận Bình gợi ý công khai trong bài phát biểu về “thế áp đảo” của chiến dịch chống tham nhũng tại phiên họp ngày 28/12 của Bộ Chính trị. Tuyên bố này gợi ý một “bước ngoặt lớn trong tình thế”, theo ông Tân Tử Lăng, một quan chức quốc phòng Trung Quốc về hưu có mối liên hệ với các quan chức Trung Quốc hàng đầu có tiếng nói ôn hòa.
“Hiện giờ tất cả các thành viên trong phe cánh của ông Giang và những người vẫn còn hy vọng vào phe này có thể thấy được tình hình một cách rõ ràng và họ sẽ bị sốc lớn”, ông Tân nói tiếp. “Những con chuột sẽ sớm rời khỏi con tàu đắm”.
Ông Tân tin rằng với việc ông Tập nhắc lại nhiều lần về tính kỷ luật của giới lãnh đạo cấp cao, thì “những người có vấn đề và cần loại bỏ sẽ phải ra đi”.
Ông Tân cho biết: “Ông Trương Đức Giang đã tạo ra những vấn đề gay gắt ở Hồng Kông và ông Tăng Khánh Hồng vẫn chống lưng cho ông ta”. Ông Trương, một thành viên Ban Thường vụ Bộ chính trị, “rất có thể bị sẽ hạ đài, đó không phải là điều không thể”.
Larry Ong, Đại Kỷ Nguyên tiếng Anh
Thanh Nguyên tổng hợp
Xem thêm: