Thứ Bảy, 7 tháng 1, 2017

Toàn cảnh mặt trận biên giới Vị Xuyên 1984-1989

07:55 - 14/07/2014

Trường Sơn


Rạng sáng 12/7/1984, trên cả ba hướng, các đơn vị đồng loạt nổ súng tiến công nhưng trận đánh không thành công. Sau đó, BTL Quân khu 2 dùng Sư 313 và 356 mở chiến dịch giành lại điểm cao 685, 300-400
Ngày 26/3/1984, trong khi Quân tình nguyện Việt Nam cùng lực lượng vũ trang cách mạng Campuchia bắt đầu đợt hoạt động lớn truy quét tàn quân Khmer Đỏ thì ở khu vực biên giới Việt-Trung, Trung Quốc cũng ráo riết chuẩn bị cho chiến dịch tiến công lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam. Trên tuyến biên giới thuộc tỉnh Hà Tuyên (nay là Hà Giang), Trung Quốc tập trung 4 sư đoàn bộ binh và 1 sư đoàn pháo binh của Đại quân khu Côn Minh trên thê đội một, áp sát hướng Vị Xuyên-Yên Minh.
Chiến sĩ Sư đoàn 325 trên chốt Vị Xuyên năm 1988. (Ảnh tư liệu)
Từ 2/4 đến 27/4/1984, Trung Quốc tiến hành một đợt bắn phá lớn trên toàn tuyến 6 tỉnh biên giới với trên 28.000 viên đạn pháo. Riêng Hà Giang phải chịu hơn 11.000 viên đạn pháo, ngay cả thị xã Hà Giang nằm sâu trong nội địa 18km cũng bị bắn phá.
5 giờ sáng ngày 28/4/1984, trên hướng Vị Xuyên quân Trung Quốc được 12.000 viên đạn pháo chi viện tấn công vào các trận địa phòng ngự của ta ở phía tây sông Lô. Do tương quan lực lượng chênh lệch, đến hết ngày 30/4/1984, Trung Quốc chiếm được các điểm tựa 1509, 772, 685, bình độ 300-400, 226, 233. Trung đoàn 122 Sư đoàn 313 của ta bị tổn thất, phải lùi xuống các vị trí thấp hơn để tiếp tục chiến đấu.
Ngày 30/4/1985, trên hướng Yên Minh, quân Trung Quốc đánh chiếm điểm tựa 1250 (Núi Bạc) do Tiểu đoàn 3 huyện Yên Minh bảo vệ.
Ngày 15/5/1984, trên hướng Vị Xuyên quân Trung Quốc tiếp tục mở một đợt tấn công ở phía đông sông Lô, chiếm khu vực Pa Hán, điểm tựa 1030 do Trung đoàn 266 Sư đoàn 313 bảo vệ.
Như vậy, từ 28/4 đến 16/5/1984, Trung Quốc đã lần lượt đánh chiếm và tổ chức chốt giữ phòng ngự, chiếm đóng trái phép nhiều vị trí trên lãnh thổ Việt Nam, bao gồm khu vực 1509, 772, 685, 233, 226 (Trung Quốc gọi là Lão Sơn), 1030 (Trung Quốc gọi là Đông Sơn) thuộc huyện Vị Xuyên và 1250 (Trung Quốc gọi là Giả Âm Sơn) thuộc huyện Yên Minh. Trên hướng Vị Xuyên, đối phương bố trí 1 sư đoàn trên tuyến một, 2 sư đoàn phía sau; hướng Yên Minh 1 trung đoàn phía trước, 2 trung đoàn phía sau.
Trước tình hình trên, ngày 20-5/1984, Bộ tư lệnh Quân khu 2 của ta quyết định nhanh chóng xây dựng trận địa, củng cố lại các đơn vị, kiên quyết chiến đấu ngăn chặn địch đồng thời từng bước tổ chức đánh lấy lại các điểm cao bị chiếm đóng.
Ngày 11/6/1984, quân ta tổ chức đánh địch ở 233 và 685 nhưng chưa giành lại được các vị trí này.
Tháng 6/1984, Quân khu 2 được giao nhiệm vụ tiến hành tiêu diệt một số vị trí bị chiếm đóng, tiến tới khôi phục các điểm tựa ở Vị Xuyên và Yên Minh. Bộ tư lệnh mặt trận quyết định sử dụng 3 trung đoàn bộ binh trong các đơn vị mới lên tăng cường, được sự chi viện của đặc công và pháo binh tham gia chiến đấu trong chiến dịch mang tên MB84. Ở phía đông sông Lô, Trung đoàn 876 Sư đoàn 356 đảm nhiệm tiến công điểm tựa 772, Trung đoàn 174 Sư đoàn 316 tiến công bình độ 300-400, ở phía tây Trung đoàn 141 Sư đoàn 312 tiến công điểm tựa 1030.
Rạng sáng 12/7/1984, trên cả ba hướng các đơn vị đồng loạt nổ súng tiến công. Tuy nhiên “do công tác chuẩn bị chưa chu đáo, nắm tình hình và đánh giá đối phương chưa đúng, quyết tâm và cách đánh chưa phù hợp, biểu hiện sự nóng vội trong chỉ đạo, chỉ huy” nên trận chiến đấu không thành công. Cả ba trung đoàn đều bị tổn thất lớn, hàng trăm cán bộ chiến sĩ anh dũng hy sinh, có cả cán bộ tiểu đoàn, trung đoàn. Chiều 12/7. Bộ tư lệnh mặt trận phải cho các đơn vị chuyển sang phòng ngự.
Gùi nước lên trận địa (Ảnh tư liệu)
Rút kinh nghiệm MB84, Quân khu 2 quyết định dùng Sư đoàn 313 và 356 mở chiến dịch vây lấn nhằm giành lại điểm cao 685 và 300-400 với cách đánh mới “sử dụng bộ binh, kết hợp đặc công, có hoả lực pháo binh chi viện mạnh, từng bước bao vây, chia cắt lấn sát”. Lần này các đơn vị có 4 tháng để chuẩn bị.
Ngày 18/11/1984, pháo binh ta bắt đầu bắn phá hoại vào các điểm tựa bị chiếm đóng ở 685 và 300-400. Sau 5 ngày đêm, Trung đoàn 14 Sư đoàn 313 bắt đầu tổ chức đánh lấn 300-400, Trung đoàn 153 Sư đoàn 356 được tăng cường một tiểu đoàn đặc công tiến hành vây lấn 685. Sau hai tháng liên tục chiến đấu (từ tháng 11/1984 đến tháng 1/1985), mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, các đơn vị của ta đã chiếm lại một số chốt, hình thành thế phòng ngự xen kẽ, bám sát, ngăn chặn địch ở ở  đồi Chuối, đồi Cô Ích, đồi Đài, A4, A21, khu Cót Ép, khu C và một phần khu E của điểm cao 685, có những nơi chỉ cách địch 15-20m, cá biệt có nơi 6-8m (chốt Bốn hầm). Ở đây cuộc chiến đấu giành giật từng thước đất, từng mỏm đá đã diễn ra rất quyết liệt. Các chốt ở Bốn hầm, đồi Cô Ích hay điểm tựa 685 hai bên liên tục thay nhau phản kích, giành đi giật lại tới 30-40 lần.
Từ ngày 27/5 đến 30-5/1985, sau khi thay quân, Trung Quốc mở một đợt tiến công lớn vào các điểm tựa của ta ở đồi Đài, đồi Cô Ích, bình độ 1100 ở phía tây sông Lô nhưng bị ta đẩy lui. Ngay sau đó, ngày 31/5/1985 quân ta tổ chức đánh chiếm và chốt giữ lại điểm tựa A6B, sau đó đánh bại 21 đợt phản kích của địch trong 13 ngày, giữ vững vị trí này cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Từ ngày 23 đến 25/9/1985, Trung Quốc mở một đợt tấn công vào các điểm tựa của ta từ đồi Tròn, lũng 840, Pa Hán (đông sông Lô) đến đồi Cô Ích, bình độ 1100 (tây sông Lô). Trừ Pa Hán bị chiếm và ta phản kích lấy lại sau 1 ngày, các trận địa khác đều được giữ vững.
Trong tháng 10 và tháng 11/1986, sau khi thay quân, phía Trung Quốc mở thêm nhiều đợt tiến công lấn chiếm nhằm đẩy quân ta khỏi khu vực bờ bắc suối Thanh Thủy nhưng đều thất bại.
Từ ngày 5 đến 7/1/1987, Trung Quốc sử dụng lực lượng cấp sư đoàn được pháo binh chi viện mở chiến dịch nhằm vào 13 điểm tựa của ta ở cả đông và tây sông Lô mà mục tiêu chủ yếu là đồi Đài và đồi Cô Ích. Mặc dù đối phương bắn tới trên 100.000 quả đạn pháo trong 3 ngày để chi viện bộ binh liên tục tiến công (có ngày tới 7 lần) nhưng đều bị bộ binh và pháo binh ta ngăn chặn ngay trước trận địa.
Từ sau thất bại này, phía Trung Quốc giảm dần các hoạt động tấn công lấn chiếm. Từ cuối tháng 12/1988, Trung Quốc bắt đầu ngừng bắn phá và từ tháng 3 đến tháng 9/1989 lần lượt rút quân khỏi các vị trí chiếm đóng còn lại trên lãnh thổ Việt Nam.
Theo tổng kết, trong 5 năm chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên mặt trận Vị Xuyên-Yên Minh, các lực lượng vũ trang Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn quân địch, phá hủy 200 khẩu pháo cối, 170 xe vận tải và nhiều kho tàng, trận địa… bắt sống 325 tù binh (bắt 6 tên trong chiến đấu và 319 tên thám báo, trinh sát đột nhập), thu nhiều vũ khí, trang bị…
Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Đoàn Khuê thăm cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 312 vừa hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu ở Vị Xuyên (Ảnh tư liệu)
Trong thời gian 1984-1989, phía Việt Nam đã nhiều lần thay phiên các đơn vị lên chiến đấu ở mặt trận Vị Xuyên-Yên Minh:
Quân khu 1 có Trung đoàn 2 Sư đoàn 3 Quân đoàn 14 (mang phiên hiệu E981/F356) và Trung đoàn 567 Sư đoàn 322 Quân đoàn 26 (mang phiên hiệu E982/F313).
Quân khu 2 có các sư đoàn bộ binh 313, 314, 316, 356, các trung đoàn 247 (Hà Tuyên), 754 (Sơn La) cùng các đơn vị pháo binh, xe tăng, đặc công, công binh, thông tin, vận tải của quân khu.
Đặc khu Quảng Ninh có Trung đoàn 568 Sư đoàn 328 (mang phiên hiệu E983).
Các đơn vị chủ lực Bộ có Sư đoàn 312 Quân đoàn 1, Sư đoàn 325 Quân đoàn 2, Sư đoàn 31 Quân đoàn 3.
Ngoài ra nhiều đơn vị nhỏ cấp đại đội, tiểu đoàn cũng được điều động lên tham gia trực tiếp hoặc hỗ trợ chiến đấu trong từng giai đoạn ngắn.
Ở phía tây sông Lô từ đầu năm 1984 đến tháng 12/1985: Sư đoàn 313 và 356; Tháng 5/1985: Sư đoàn 313; Tháng 12/1985: Sư đoàn 31; Tháng 6/1986: Sư đoàn 313; Tháng 2/1987: Sư đoàn 356; Tháng 8/1987: Sư đoàn 312; Tháng 1/1988: Sư đoàn 325; Tháng 9/1988: Sư đoàn 316; Tháng 5/1989: Sư đoàn 313.
Ở phía đông sông Lô từ đầu năm 1984: Trung đoàn 266 Sư đoàn 313; Tháng 7/1984: Trung đoàn 141 Sư đoàn 312; Tháng 4/1985: Trung đoàn 983; Tháng 11/1985: Trung đoàn 818 Sư đoàn 314; Tháng 2/1987: Trung đoàn 881 Sư đoàn 314; Tháng 9/1987: Trung đoàn 818 Sư đoàn 314 và Trung đoàn 754 Sơn La; Tháng 6/1988: Trung đoàn 726 Sư đoàn 314; Tháng 10/1988: Trung đoàn 247 Hà Tuyên. 
Về phía Trung Quốc, theo các tài liệu được công bố trên mạng, đã có 17 sư đoàn bộ binh và 5 sư đoàn, lữ đoàn pháo binh thuộc các Đại quân khu Côn Minh, Nam Kinh, Phúc Châu, Tế Nam, Lan Châu, Nam Kinh và Thành Đô lần lượt được huy động vào chiến dịch lấn chiếm biên giới từ 1984/1989.
Trong giai đoạn này, Trung Quốc đã bắn vào lãnh thổ Việt Nam thuộc tỉnh Hà Tuyên (mà chủ yếu là Vị Xuyên-Yên Minh) hơn 1,8 triệu quả đạn pháo cối, ngày cao điểm nhất hơn 60.000 quả.
(Bài viết tổng hợp theo lịch sử một số đơn vị và lời kể của các cựu chiến binh)

Thứ Sáu, 6 tháng 1, 2017

- VỀ ĐI ANH -Thơ tặng BT Trần Hồng Hà ;“TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT” CỦA NXB THANH NIÊN: “GIAO PHỐI” nghĩa là “KẾT HÔN”!

         
Ảnh: HTC
                 HOÀNG TUẤN CÔNG

Đó là định nghĩa của “Từ điển tiếng Việtthông dụng dành cho học sinh - sinh viên” (tác giả Ngọc Hằng - Kỳ Duyên - NXB Thanh Niên, 2016). 

          Bìa sách, ngoài dòng chữ nhái “Trung tâm từ điển học”, còn có những thông tin rất hấp dẫn, như: “Cập nhật nhiều mục từ mới”, “Nhiều hình ảnh minh hoạ”, sách “Bán nhiều nhất”...

          Vậy, sách này “cập nhiều mục từ mới” như thế nào?

          Xin thưa rằng hoàn toàn ngược lại. Nghĩa là rất nhiều từ cũ, từ dùng sai cách đây ngót một thế kỉ, đã được nhóm tác giả này “khai quật”, sao chép lại để “dành cho học sinhsinh viên”. Sau đây là ví dụ về một số cái sai của Nhóm Kim Danh - Ngọc Hằng (KDNH). Chúng tôi sẽ lấy chính cách giảng nghĩa của “Từ điển tiếng Việt” (Vietlex) do Trung tâm Từ điển học (The Lexicography Center – Vietlex) biên soạn (cuốn từ điển này bị Nhóm KDNH làm nhái, chúng tôi sẽ nói rõ ở phần sau), để chỉ ra những sai sót của KDNH (phần ví dụ của Vietlex, chúng tôi xin lược bớt):


- KDNH: “ba ba (dt) Rùa nhỏ ở nước ngọt, có mai dẹp phủ da, không vảy”.

          Không đúng, ba ba có thể còn to hơn cả rùa. Vietlex: “ba ba d. động vật thuộc họ rùa, sống ở nước ngọt, mai không có vảy mà được phủ bằng lớp da mềm, bơi nhanh, lặn được lâu”.

- KDNH: “bánh lái dt Bộ phận hình tròn để cầm lái tàu, xe”.

          Đây là nghĩa cũ, hiện nay không còn được dùng. Vietlex: “bánh lái d. bộ phận xoay được dùng để đổi hướng đi của phương tiện vận tải”.

- KDNH: “bệnh hoạn dt Bệnh tật và hoạn nạn”.

          Giảng thiếu nghĩa, dễ dẫn đến lầm lẫn. Vietlex: “bệnh hoạn • 病患 I d. [id] trạng thái bị đau ốm, bệnh tật [nói khái quát]. Đn: bệnh tật, tật bệnh. • 病患 II t. 1 ở trạng thái có bệnh thường kéo dài. 2 [tư tưởng, tình cảm] không được bình thường, không lành mạnh”.

- KDNH: “bò sát 1 tt Bò sát bụng xuống đất; 2.Loài bò sát (rắn, thằn lằn)”.

          “Bò sát” ở nghĩa 1 là cụm từ (ngữ động từ - động ngữ), không phải đơn vị từ vựng. Vietlex: “bò sát d. lớp động vật có xương sống, thở bằng phổi, chuyển dịch bằng cách bò sát đất, gồm rùa, thằn lằn, rắn, cá sấu, v.v.”.

- KDNH: “bút ký dt. Lời ghi viết bằng tay”.

          Vậy viết bằng bàn phím (máy tính), không được gọi là “bút kí” sao? Vietlex: “bút kí 筆記 d. thể kí ghi lại những điều tai nghe mắt thấy, những nhận xét, cảm xúc của người viết trước các hiện tượng trong cuộc sống”.

- KDNH: “cánh kiến dt Cánh con kiến”.

          “Cánh kiến” với nghĩa như vậy coi như chưa định nghĩa. Vietlex: “cánh kiến d. 1côn trùng cánh nửa cỡ nhỏ, sống thành bầy trên cây, tiết ra một chất nhựa màu đỏ thẫm, dùng để gắn. 2 chất do con cánh kiến tiết ra. Đn: cánh kiến đỏ”.

- KDNH: “công nhân dt. Nói chung những người lao động chân tay”.

          Nếu vậy thì “công nhân” khác gì nông dân? Vietlex: “công nhân 工人 d. người lao động chân tay làm việc ăn lương, trong các nhà máy, xí nghiệp, công trường, v.v.”.

- KDNH: “công quyền Quyền của người dân trong một nước, quyền công dân”.

          Giảng nghĩa phiến diện. Vietlex: “công quyền • 公權 I d. [cũ] các quyền của mọi công dân [nói khái quát] • 公權 II t. thuộc về bộ máy, cơ quan quyền lực nhà nước”.

- KDNH: “định tỉnh dt Thăm hỏi sức khoẻ của cha (thần hôn định tỉnh).

          Vậy, thăm hỏi sức khoẻ của mẹ không được gọi là “định tỉnh” hay sao?

- KDNH: “đô thị dt Thành phố nơi có tụ họp người buôn bán lớn”.

          Đây là cách giảng nghĩa quá cũ (copy từ “Việt-Nam tân từ-điển” của Thanh Nghị). Cũng không thể dùng từ đồng nghĩa “thành phố” để định nghĩa cho “đô thị”. Vietlex: “đô thị 都市 d. nơi dân cư đông đúc, là trung tâm thương nghiệp và có thể cả công nghiệp. Đn: thành phố, thành thị”.

- KDNH: “đội ngũ dt Nói chung về hàng ngũ trong quân đội”.

          Giảng nghĩa què cụt. Vietlex: “đội ngũ 隊伍 d. 1 khối đông người được tập hợp và tổ chức thành một lực lượng có quy củ. Đn: hàng ngũ. 2 tập hợp một số đông người có cùng chức năng hoặc nghề nghiệp”.

- KDNH: “eo éc tt Tiếng gà kêu”.

          Không có con gì kêu “eo éc”; nếu “eo óc” phải là tiếng gà gáy, chứ không phải “gà kêu”.
- KDNH: “ga xép (dt) Ga xe lửa nhỏ, các tàu không đỗ”.

          Nếu đúng như vậy, thì người ta làm ra ga xép để làm gì? Vietlex: “ga xép d. ga xe lửa nhỏ, dành cho tàu chậm hay tàu chợ, các tàu tốc hành không đỗ”.

- KDNH: gái dt Người thuộc về giống cái”.

          Cách diễn đạt cũ, rất thô. Vietlex: “gái d. 1 người thuộc nữ giới [thường là còn ít tuổi; nói khái quát]; phân biệt với trai. 2 [kng] người phụ nữ [hàm ý coi khinh] : mang tiền cho gái ~ mê gái ~ theo gái”.

- KDNH: “gấm vóc dt. ngb. Hai thứ này dệt bằng lụa tơ tằm”.

          Từ này thường được dùng theo nghĩa bóng, chứ không phải nghĩa đen. Vietlex: “gấm vóc d. [vch] gấm và vóc, hai thứ hàng dệt đẹp và quý; thường dùng để ví vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước”.

- KDNH: “gian dâm đt. Đi lấy vợ người ta”.

Giảng như vậy, có nghĩa là “cướp vợ” người ta, chứ đâu phải “gian dâm”? Vietlex: “gian dâm 奸淫 đg. có quan hệ tình dục bất chính, lén lút với nhau”.

- KDNH: gian phu dt. Người đàn ông có vợ còn đi lấy vợ người khác”.

Đây cũng không phải là nghĩa của “gian phu”. Vietlex: “gian phu 奸夫 d. [cũ] người đàn ông thông dâm với người đàn bà đã có chồng”.

- KDNH: “giao phối đt. Kết hôn”.

          Đây là nghĩa mà một số từ điển biên soạn trước 1975 có giảng (*). Tuy nhiên, hiện nay, “giao phối” được hiểu là hoạt động tính giao của động vật đực, cái, chứ không dùng cho người, càng không có nghĩa là “kết hôn”. Vietlex: “giao phối 交配 đg. như giao cấu[không nói về người]”. Hán điển (zidic.net): giao phối: chỉ hoạt động tính giao giữa động vật đực và cái; sự kết hợp tế bào sinh thực ở thực vật với nhau.” (nguyên văn: 交配 jiāopèi [mating] 雌雄物性交植物的雌雄生殖胞相).

          Rất nhiều yếu tố Hán Việt, chỉ là yếu tố cấu tạo từ nhưng lại được nhóm biên soạn thu thập và giải nghĩa như một từ, trong khi nó không bao giờ được dùng độc lập. Ví dụ “am đt Hiểu biết”; “bộc dt Đầy tớ”; “điệp Dò la”; “điệt dt Cháu đối với chú hay bác”, v.v. Chẳng ai có thể hiểu được nội dung thông báo trong các phát ngôn: “Ông ấy là ngườiam. Nó là bộc. Quân địch đang điệp.” nếu chiểu theo cách xử lí của hai tác giả Ngọc Hằng và Kỳ Duyên. Nhiều cách viết cũ, như: “cọng đồng, cọng sự, cọng tác”, v.v. vẫn được thu thập. Nhìn chung, các tác giả không có kiến thức về từ điển học.

          Sách giới thiệu có “Nhiều hình ảnh minh hoạ”, nhưng minh hoạ sai nhiều. Ví dụ:

- Mục “anh vũ dt. Giống chim vẹt”, nhưng hình minh hoạ lại là con chim gì đó gần giống chim sáo (mỏ không khoằm).

- Mục “diếp dt. Loại rau dùng ăn sống, còn gọi là rau sà lách”, có hai cái sai: thứ nhất, rau diếp không phải là tên gọi khác của xà lách; thứ hai, nói về rau diếp, “sà lách”, nhưng hình minh hoạ lại là rau dấp (hoặc diếp cá), lá giống lá trầu không, nở bông như bông kê.

- Mục “chim ưng”, minh hoạ và chú thích là “chim ưng”, nhưng hình vẽ lại là loài đại bàng đầu trắng.

- Mục “vạc”, minh hoạ con vạc, nhưng thực chất là cò, hoặc diệc vì cổ dài ngẳng, có túm lông dài trên đầu (trong khi vạc cổ to và ngắn).

- Mục “nụ” vẽ và chú thích “nụ hoa”, nhưng hình lại là một bông hoa đã nở bung hết cánh, thấy rõ cả nhị và nhuỵ.

- Mục “thằn lằn” minh hoạ “con thằn lằn”, nhưng lại là con tắc kè hoa, bụng to, mình ngắn, v.v.

          Vậy Ngọc Hằng - Kỳ Duyên là ai mà biên soạn từ điển cẩu thả đến vậy?

          Trên báo Nông Nghiệp Việt Nam (1/12/2015), bài “Nhiều sai sót trong Từ điển tiếng Việt” (NXB Từ điển Bách khoa), chúng tôi đã từng chỉ ra những cái sai nghiêm trọng của hai tác giả Kim Danh - Ngọc Hằng. Ví dụ: “bói toán (đgt) Xem bói bằng phương pháp toán học”; “làm dâu (đgt) Lấy chồng ở chung nhà với cha mẹ chồng”; “tội danh (dt) Tội rất nghiêm trọng, cả về mặt pháp luật và đạo đức”, v.v. Để kết thúc bài báo, chúng tôi có viết: “Đáng chú ý, “Từ điển tiếng Việt” (phổ thông và dành cho học sinh) của Nhóm tác giả thường thay tên đổi họ dưới các bút danh Kim Danh Ngọc Hằng; Kim Anh Ngọc Hằng; Kỳ Duyên Ngọc Hằng Đức Bốn... được Nhà xuất bản Thanh Niên, Nhà xuất bản Đồng Nai phát hành rất nhiều và cũng rất nhiều sai sót. Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này trong một bài viết khác”.

Từ điển khổ nhỏ của NXB Thanh Niên
do Nhóm tác giả thường thay tên đổi họ,
làm nhài từ điển của Viện ngôn ngữ, hoặc Trung tâm từ điển học Vietlex
Sách bày bán nhiều ở các nhà sách Thành phố Thanh Hoá.
Ảnh: HTC


          Khi chúng tôi chưa kịp “trở lại vấn đề”, thì nhóm tác giả này và NXB Thanh Niên đã “trở lại” dưới bút danh Ngọc Hằng - Kỳ Duyên, với những cái sai mới, nghiêm trọng hơn.

          Trước đây, Nhóm tác giả này thường trương mấy chữ “Ngôn ngữ Việt Nam” lên đầu trang bìa, khiến người mua nhầm lẫn từ điển do “Viện ngôn ngữ học” biên soạn. Đây là kiểu cố tình lập lờ đánh lận con đen, bởi đã là “Từ điển tiếng Việt”, thì không phải “Ngôn ngữ Việt Nam” thì là gì? Sau nhiều vụ bê bối trong biên soạn và xuất bản từ điển tiếng Việt, kiểu làm nhái thương hiệu này bị phản đối, thì Nhóm biên soạn Ngọc Hằng - Kỳ Duyên và NXB Thanh Niên lại “lập lờ”, làm nhái một cái tên có uy tín khác, đó là “Hội ngôn ngữ học”, hoặc “Trung tâm từ điển học” (vốn có tên chính thức là “Trung tâm Từ điển học – Vietlex” do GS Hoàng Phê sáng lập). Cụ thể, “Từ điển tiếng Việt thông dụng dành cho học sinh - sinh viên” phía trên cùng bìa 1, ghi “Ngọc Hằng - Kỳ Duyên, Trung tâm từ điển học”. Một cuốn khác (cũng do NXB Thanh Niên ấn hành), ghi “Kỳ Duyên - Đăng Khoa, Hội ngôn ngữ học”. Không rõ “Trung tâm từ điển học” của các vị Ngọc Hằng - Kỳ Duyên - Đăng Khoa là “Trung tâm từ điển học” nào? “Hội ngôn ngữ học” nào, ở đâu? Tên tuổi của các nhà “từ điển học”, mà sao giống như mượn tên con cái làm bút danh vậy?

          Đáng chú ý, 2 cuốn từ điển của NXB Thanh Niên có nội dung khác nhau (một cuốn 1090 trang, một cuốn 505 trang), nhưng đều có chung: “Giấy ĐKKHXB số: 293- 2015/CXB/888- 09/TN; Quyết định xuất bản số: 397/QĐ- TN/CN, in xong và nộp lưu chiểu tháng 1 năm 2016”. Nhóm tác giả và NXB Thanh Niên thường thay tên, đổi họ, xào xáo nội dung để xuất bản sách với nhiều phiên bản khác nhau, nên có cuốn ngoài bìa 1 ghi tác giả là “Kỳ Duyên - Đăng Khoa, Hội ngôn ngữ học”, nhưng bìa trong lại thành “Ngọc Hằng - Kỳ Duyên”(!)

          Dù biên soạn rất cẩu thả, nhiều sai sót nghiêm trọng như vậy, nhưng bìa từ điển vẫn ghi là “bán nhiều nhất”. Đây có lẽ không phải là lời hư trương của NXB Thanh Niên. Bởi từ điển này khổ nhỏ, nhằm vào nhóm độc giả đông đảo là “học sinh, sinh viên”, giá cả rất vừa túi tiền (từ 30 ngàn đồng, đến 50 ngàn đồng/cuốn).

          Trên đây chỉ là những sai sót mà chúng tôi lược trích thuộc phần chữ cái từ A đến G. Phần còn lại từ H đến Y cũng nhiều sai sót nghiêm trọng không kém, nhưng trong khuôn khổ một bài báo, chúng tôi không thể nêu hết. Điều đáng nói là Nhóm biên soạn “Kỳ Duyên - Ngọc Hằng - Đăng Khoa” và NXB Thanh Niên còn xuất bản cả từ điển chính tả tiếng Việt rất nhiều sai sót. Chúng tôi sẽ có bài viết riêng về cuốn từ điển chính tả này.

                                                Hoàng Tuấn Công/5/1/2017


(*). Ví dụ: "Hán Việt từ điển" (Đào Duy Anh); "Việt Nam tự điển" (Lê Văn Đức, Lê Ngọc Trụ hiệu đính); "Từ điển Việt Nam phổ thông" (Đào Văn Tập); "Việt Nam tân từ điển" (Thanh Nghị).

- VỀ ĐI ANH -
Phạm Hữu Long - Giáo viên, Nghệ An
.
Báo nhân dân vừa viết
Bộ trưởng Trần Hồng Hà
Mười sự kiện đặc biệt
Fomosa bỏ qua.
Không hiểu anh có não
Hay là cái hộp không
Hay đó là cục đất
Và mọc rất nhiều lông???
Một sự kiện lịch sử
Vang ra tận nước ngoài
Dân bốn tỉnh thất nghiệp
Cái lỗi này do ai?
GDP cũng giảm
Đến hai mươi phần trăm
Ảnh hưởng trên toàn quốc
Vậy mà anh lặng câm.
Chuyện anh biết biển độc
Vẫn hô hào anh em
Ăn cá và tắm biển
Anh nhìn lại thử xem.
Giờ công bố sự kiện
Anh lại giấu nhẹm đi
Y như mèo giấu cứt
Chả ra thể thống gì.
Anh làm tới bộ trưởng
Mà không có lương tâm
Anh chỉ là hạt bụi
Trong con mắt người dân.
Anh có đảng bảo vệ
Nên dù có thế nào
Dân chả làm gì được
Nên anh tưởng mình cao.
Nếu đất nước dân chủ
Anh có mà xúc phân
Ác quá, anh Hà ạ
Rồi trời sẽ dành phần.
Không làm được thỉ nghỉ
Để người khác lên thay
Anh đừng ngồi đó để
Phá hoại đất nước này.
.
Thích
Bình luận

Trung Hoa cổ đại từng có một chức quan khiến người đời phải kính nể, Hoàng Đế phải e dè

Bạn có biết vì sao ngày nay vẫn có các phim cổ trang Trung Quốc luôn hấp dẫn người xem? Vì sao Trung Hoa có nhiều danh tác lôi cuốn mạnh mẽ độc giả trên toàn thế giới? Phần quan trọng là nhờ những tài liệu quý giá được các quan Thái sử trong triều đình ghi chép từ đời này sang đời khác.

Tư Mã Thiên, Thái Sử Bá, Sử Ký, quan Thái sử, Bài chọn lọc,
Quan Thái sử được miêu tả là người đức cao, rất coi trọng sự thật. (Ảnh: Internet)
Dịch giả nổi tiếng, Burton Watson từng nói rằng: ”Không có dân tộc nào ham viết và đọc sử sách như dân tộc Trung Hoa”. Văn nhân thì ưa chép sử mà dân chúng thì ưa đọc sử, nghe sử. Những bộ truyện lớn nhất, danh tiếng nhất như Tam Quốc Chí, Thủy Hử, Đông Chu Liệt Quốc, Tây Hán Chí… phần lớn nội dung được vay mượn từ các câu chuyện trong lịch sử.
Sự thành công của nền văn học Trung Hoa nói chung không thể kể đến công lao của các quan Thái sử, chức quan lần đầu tiên được đặt ra dưới thời nhà Chu các đây hơn 3000 năm. Từ đó việc chép sử đã trở thành cái lệ, ngay cả những nước chư hầu như Yên, Tống, Trung Sơn… cũng có sử quan. Nhờ vậy mà ngày nay, người ta hiểu về thời Xuân Thu, đời Chiến Quốc nhiều hơn người phương tây hiểu về cổ sử Hi Lạp – La Mã.
Khác với các sử gia thông thường ở các nền văn hóa khác, quan Thái sử trong các triều đại Trung Hoa tuy là chức quan tuy không có nhiều quyền hành nhưng rất được kính nể, ngoài ghi chép những chuyện lớn nhỏ xảy ra trong xã hội quan Thái sử còn ghi chép cả những điều hay dở của vua chúa để khuyên răn, cảnh cáo họ.
Sử gia Trung Hoa được miêu tả là người đức cao, rất coi trọng sự thực, phải là người “uy vũ bất năng khuất” (không vì khuất phục cường quyền mà ghi chép sai sự thật). Trong quá khứ đã từng có rất nhiều câu chuyện bi tráng về các quan Thái sử khiến người đời sau hết lòng cảm phục.
Vì sự thật, không màng sống chết
Thời chiến quốc, nước Tề có một người tên là Thôi Trữ. Thôi Trữ tuy là đại phu nhưng lại có công giúp Khương Quang tiêu diệt em trai là Khương Nha lên làm vua nước Tề, tức Tề Trang Công, bản thân Thôi Trữ cũng được phong làm tể tướng. Tuy nhiên về sau, Tề Trang Công lại tư thông với vợ lẽ của Thôi Trữ là Đường Cơ, biết chuyện, Thôi Trữ tức giận lập mưu giết chết Tề Trang Công.
Quan Thái sử lúc bấy giờ là Thái sử Bá lập tức ghi vào sử sách:”Thôi Trữ giết vua Quang”, Thôi Trữ tức giận lập tức giết chết Bá. Sau đó các em trai của Bá là Trọng, Thúc lên thay chức Thái sử đều ghi chép giống như anh mình kết quả đều bị Thôi Trữ giết chết.
Đến lượt em út là Quý cũng lại chép như vậy, Thôi Trữ bực tức hỏi: ”Ba người anh của ngươi đều vì câu này mà chết, lẽ nào ngươi không biết quý tiếc mạng sống của mình hay sao?”. Quý bình thản đáp: ”Viết đúng sự thật là chức trách của quan chép sử. Nếu vì cầu sống mà làm chuyện sai trái vậy thần thà chết còn hơn”. Thôi Trữ nghe vậy đành thôi không giết nữa và từ đó còn e dè các quan Thái sử.
Nén nỗi đau tuyệt tự, hoàn thành nghiệp lớn
Tư Mã Thiên, Thái Sử Bá, Sử Ký, quan Thái sử, Bài chọn lọc,
Tác phẩm Sử ký của Tư Mã Thiên là một trong những quyển sử có tiếng nhất thế giới. (Ảnh: Internet)
Tư Mã Thiên là một quan Thái sử nhà Hán, cha ông Tư Mã Đàm cũng là quan Thái sử. Ông nổi tiếng với bộ “Sử ký Tư Mã Thiên” ghi chép lại các sự kiện xảy ra ở Trung Hoa hơn 2500 năm từ thời các Hoàng Đế  thần thoại cho tới thời ông sống.
Chuyện kể Trung Hoa dưới thời Hán Vũ Đế trở nên cực kỳ hùng mạnh về kinh tế, chính trị và quân sự. Nam chinh bắc phạt, mở mang bờ cõi. Năm 99 TCN, Vũ đế sai Lý Lăng mang quân đi giao tranh với Hung Nô phía Bắc. Lý Lăng thua trận còn đầu hàng quân Hung Nô, Vũ đế nghe được tin liền ban lệnh xử trảm cả nhà Lý Lăng.
Với tấm lòng trượng nghĩa của mình, Tư Mã Thiên dù không có giao tình với Lý Lăng ông vẫn đứng ra can gián Vũ đế, Vũ đế chẳng những không nghe còn giáng tội và xử ông hình phạt nặng nhất thời bấy giờ “cung hình” (thiến). Lúc đó ông chưa có con trai, chỉ có 1 con gái, với hình phạt trên gia đình ông xem như gia đình tuyệt tự và Tư Mã Thiên đã phạm phải đại tội bất hiếu với tổ tiên. Ông thống khổ muốn tự tử nhưng nhớ lại lời cha dặn lúc lâm chung, ông đã nhẫn nhục sống để hoàn thành bộ “Sử Ký” lưu danh cho đời sau.
Sau khi ra tù, ông được giữ lại để làm thái giám trong cung. Ngày hầu hạ Vũ Đế, đêm viết sách, mỗi lần nhớ tới nhục hình đều toát mồ hôi. Tư Mã Thiên hoàn thành bộ “Sử Ký” năm 91 TCN được 5 năm sau thì mất, hưởng thọ 60 tuổi.
Người Trung Hoa cổ đại giảng “thiện hữu thiện báo” có lẽ nhờ công đức to lớn của Tư Mã Thiên mà 352 năm sau, dòng họ Tư Mã nhà ông đã chinh phạt cả 3 nước Nguy-Thục-Ngô, thống nhất Trung Hoa, lập ra nhà Tấn.
Hoàng An Tổng Hợp