Thứ Hai, 1 tháng 5, 2017

Tai hoạ cuộc đời đã cứu cuốn sách, nếu không nó đã chết

01/05/2017  05:10 GMT+7

 Tai họa mang tới cho tôi biết bao ngang trái, đớn đau, bất hạnh nhưng đã giúp tôi “ngộ” ra nhiều điều, giúp tôi có một cái nhìn điềm tĩnh, thấu đáo hơn, và nó đã cứu sống cuốn sách này.
Nhưng làm sao tránh được sự thiên kiến về góc nhìn và quan điểm chính trị, nhất là khi ông đang cầm bút và cầm súng cho “phía bên này”?
Tôi suy nghĩ rất rõ ràng: Nếu không tôn trọng sự thật, đem quan điểm chính trị chủ quan của mình áp đặt vào các sự kiện, sự việc và tình tiết, trình bày nó theo mong muốn chủ quan của mình, thì cuốn sách sẽ hỏng hoàn toàn. Lịch sử là tự nó viết ra – đó chính là sự thật. Lịch sử không phải do bên thắng trận muốn nói thế nào cũng được, và bên thua trận muốn giải thích thế nào cũng xong. Không phải thế! Sự thật cuối cùng cũng trở về với sự thật.
Mặc dầu là một tác phẩm văn học, thể loại tôi lựa chọn là tiểu thuyết tư liệu lịch sử, nhưng trong suốt 19 chương với gần 600 trang sách, tôi tuyệt đối không chen bất cứ nhận xét, bình luận cá nhân nào, hoàn toàn không có sự hiện diện của tác giả.
Toàn bộ nội dung và những bản văn, tư liệu được viện dẫn trong sự dung tưởng của tác giả phục dựng từng sự kiện trong từng trang sách, tự nó nói lên tất cả. 
Trần Mai Hạnh, 30 Tháng Tư, Đất nước thống nhất
Ảnh tư liệu do nhà báo Trần Mai Hạnh cung cấp.
Để có được những tài liệu quý giá đó, ngoài may mắn được chứng kiến, được tắm mình trong các sự kiện với những trang ghi chép tại trận suốt dọc đường chiến dịch cho tới giờ phút toàn thắng, tôi phải có được những cơ duyên vô cùng kỳ lạ và sự hỗ trợ của rất nhiều người. Sự sắp đặt của cuộc sống nhiều lúc lạ lùng đến mức tôi không hiểu nổi, không cắt nghĩa nổi.
Năm 2000 cuốn sách cơ bản viết xong, tôi đã thay đổi tên sách 5 lần, với tựa sách lúc đó là: “Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa”, và đã đăng một vài chương trên Báo Văn Nghệ, với cách nhìn và kiểu diễn đạt “bên nguỵ bên ta”, “ta thắng địch thua” bên ta thì gọi tên, viết hoa, xưng hô trang trọng, bên kia thì hạ thấp, miệt thị, coi thường... Nếu cuốn sách ra đời thời điểm đó, theo cách đó, nó đã chết và bị thời gian đào thải lâu rồi...
Đúng là tai hoạ nghề nghiệp rồi vướng vòng lao lý đã mang tới cho tôi bao ngang trái, bao hệ lụy kinh hoàng. Nhưng cũng chính tai họa đã cứu cuốn sách này. Lúc vụ việc xảy ra, cuốn sách của tôi chỉ còn một chương cuối cùng là hoàn thiện.
Tại toà tôi có nói: “Tôi không có tội. Tôi bị oan. Thời gian sẽ chứng minh. Nhưng nếu tòa cứ tuyên án, thì tôi xin lui 15 ngày để hoàn thành nốt cuốn tiểu thuyết tư liệu lịch sử quan trọng với những tài liệu vô giá mà tôi đã trình bày trước tòa, rồi sau đó sẽ thụ án”.
Nhưng tòa không chịu và nói tôi mang tài liệu vào trong trại mà viết. Từ đỉnh vinh quang bỗng rơi vào tình cảnh bi thảm đó, tôi mới thực sự thấm thía và có điều kiện suy ngẫm sự đời, nhìn nhận cuộc sống một cách điềm tĩnh và thấu đáo. 
Tôi đã ngộ ra rất nhiều điều, nhìn nhận sự việc khách quan hơn, nhân văn hơn với cảnh ngộ, số phận của những người ở phía bên kia. Tôi hiểu rằng, dù dữ dội và đau đớn đến đâu, cuộc chiến tranh nào rồi cũng qua đi. Những năm tháng khổ đau, máu và nước mắt của bất cứ bên tham chiến nào cũng không bao giờ bị lãng quên và tất yếu trở thành một phần của lịch sử.
Cuốn sách còn dang dở luôn ám ảnh tâm trí tôi. Nhiều đêm thức giấc, tôi bừng tỉnh nhớ lại dọc đường chiến dịch, từ Huế đến Tây Nguyên, Sài Gòn tôi đã chứng kiến bao câu chuyện đau thương của con người. Những xác chết chưa phân huỷ hết dọc đường chiến dịch. Có bà mẹ ôm xác con, chạy bộ di tản theo quân đoàn 2 suốt từ Pleiku về Tuy Hòa, suốt ba ngày cứ ôm xác con chạy bộ đến kiệt sức vì không tìm được chỗ chôn con. Hàng nghìn bà con vì luận điệu tuyên truyền của chính quyền Sài Gòn là ở lại sẽ bị “Việt cộng tắm máu”, mà bồng bế nhau chạy theo binh lính quân đoàn 2.
Cũng là đồng bào mình chứ ai? Mình có nên viết về những điều đó bằng sự lạnh lùng, hả hê của người thắng trận không hay viết bằng sự cảm thông sâu sắc với thân phận con người trong chiến tranh?
Sau khi trở lại với cuộc sống và công việc thường ngày, có lúc tôi bỗng thấy mình có phần may mắn. Tai họa mang tới cho tôi biết bao ngang trái, đớn đau, bất hạnh nhưng đã giúp tôi “ngộ” ra nhiều điều, giúp tôi có một cái nhìn điềm tĩnh, thấu đáo hơn, và nó đã cứu sống cuốn sách này. 
Dù sau biến cố đó nhiều năm, tôi vẫn chưa viết được thêm dòng nào, thậm chí đã có lúc bất lực, không sao có hứng thú tiếp tục, có lúc tôi muốn đốt hết những tài liệu đó đi. Và rồi tôi chợt bừng thức, rỡ cuốn sách ra viết lại hoàn toàn, dưới ánh sáng của tình hình mới, với tinh thần quả cảm trước sự thật lịch sử, với cái nhìn khách quan, không thiên kiến, nhân văn trước số phận những người thuộc phía bên kia, đảm bảo sự trung thực của ngòi bút trước các sự kiện, sự việc, tình tiết đã diễn xa. Và cuốn sách đã mang một diện mạo hoàn toàn khác.
Trong suốt quá trình đó, điều gì làm ông ngạc nhiên hoặc khác với những gì ông vẫn hình dung trước đó?
Trong cuốn sách có 21 tài liệu nguyên bản tuyệt mật được in toàn văn trong phần phụ lục. Đó là những tài liệu ta thu được trên bàn làm việc và nơi ở của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu tại Dinh Độc Lập và trên bàn làm việc của Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam cộng hoà tại trụ sở Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn vào buổi trưa và chiều tối ngày 30-4-1975. Những tài liệu này làm tôi vỡ ra rất nhiều điều.
Ví dụ trên bàn làm việc của tướng Cao Văn Viên có đầy đủ các tập kiểm điểm, tường trình của tướng tá quân đội Sài Gòn thuộc các quân binh chủng, các quân đoàn, sư đoàn tại các mặt trận, các tuyến phòng thủ sau khi thất trận chạy về Sài Gòn.
Sau khi mất Tây Nguyên, Đà Nẵng, Huế, Nha Trang, Thiệu đã lập một Ủy ban điều tra nguyên nhân thảm bại, bắt tất cả tướng lĩnh thất trận chạy về Sài Gòn phải viết tường trình và “dọa” đưa tất cả ra tòa án binh... Đọc những bản tường trình ấy, tôi vỡ ra nhiều điều. Nếu quân đội Sài Gòn không có quân phong quân kỷ, hỗn quân hỗn quan, chạy bán sống bán chết như không ít tác phẩm, bài viết mô tả, thì làm sao trong những ngày sụp đổ cuối cùng còn bắt viết tường trình được, và làm sao tướng lĩnh quân đội Sài Gòn có thể ngồi viết những bản tường trình đầy đủ và chi tiết như vậy được.
Nếu không có những bản tường trình đó, thì cũng khó mà có cuốn sách này.
Trần Mai Hạnh, 30 Tháng Tư, Đất nước thống nhất
Nhà báo Trần Mai Hạnh trên đường tiến vào Sài Gòn. Ảnh tư liệu do Nhà báo Trần Mai Hạnh cung cấp
Cuốn sách được thể hiện dưới dạng tiểu thuyết, hẳn có phần hư cấu. Ông cân bằng thế nào?
Đã gọi là tiểu thuyết tư liệu lịch sử, tôi mong muốn tác phẩm của mình có giá trị văn chương, nhưng trước hết phải có giá trị vững chắc vê sự thật lịch sử.
Một ví dụ đơn giản thế này. Tác phẩm có tất cả 270 nhân vật, đều là người thật, việc thật. Chỉ cần sai một cái tên, thậm chí sai họ, sai tên lót thôi là có thể đổ vỡ tất cả.
Ví dụ tướng Nguyên Cao Kỳ, tác giả lại viết là tướng Nguyễn Quang Kỳ là “vất đi” tất cả. Không ai tin nữa, thậm chí bị phản ứng dữ dội từ người đọc.... Sau khi sở hữu khối lượng tài liệu đồ sộ, với sự dung tưởng phong phú của một nhà văn tôi đã hóa thân sang phía bên kia để phục dựng lại từng sự việc, từ diễn biến trên chiến trường, đến các cuộc họp cơ mật của hội đồng an ninh quốc gia..., ngày giờ diễn ra sự kiện, sự việc, các tranh luận, quyết sách, mệnh lệnh đều phải có các căn cứ, viện dẫn để người đọc thực sự tin cậy đó là sự thật...
Ví dụ, trong chương “Nước cờ định mệnh”, tôi dựng lại chi tiết cuộc họp tuyệt mật tại căn cứ Cam Ranh do Thiệu chủ trì đi đến quyết định rút bỏ Tây Nguyên.Dự cuộc họp chỉ có 6 người: Thiệu, Đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng, Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Trung tướng Đặng Văn Quang, cố vấn an ninh cao cấp của Thiệu, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, Tư lệnh quân đoàn 2, Đại tá Lê Hữu Đức, Quyền Tư lệnh Sư đoàn 23 bộ binh.
Tại cuộc họp đó, trước sức ép nặng nề của Quân giải phóng, trước nguy cơ quân đoàn 2 bị tiêu diệt, Thiệu đã buộc phải đưa ra một quyết định mang tính “định mệnh” - rút khỏi Tây Nguyên.
Cuộc họp được phục dựng lại chi tiết trong từng cử chỉ, thái độ, lời lẽ và lập luận của các thành viên dự họp. Đương nhiên, để phục dựng một cuộc họp quan trọng và sống động như vậy, không thể không có sự sáng tạo, tưởng tượng của nhà văn. Nhưng tất cả sự tưởng tượng đó đều trên cơ sở căn cứ của những tài liệu nguyên bản, căn cứ lời tường trình của các nhân chứng, các bản văn tin cậy đã được kiểm chứng từ nhiều nguồn.
Cùng một sự việc, được nhiều tướng lĩnh đề cập đến ở những góc độ khác nhau: từ bản tường trình nộp cho Nguyễn Văn Thiệu, biên bản lời khai sau khi bị Quân giải phóng bắt hoặc không di tản, ra trình diện chính quyền cách mạng, những người chạy ra nước ngoài bị triệu tập, viết tường trình kể lại chi tiết diễn biến sự việc tại Trung tâm Lịch sử quân sự lục quân Hoa Kỳ và trả lời báo chí quốc tế, hồi ký của nhân chứng… đã giúp rất nhiều cho việc thu thập, đối chiếu, kiểm chứng để phục dựng trung thực các sự kiên, sự việc, tình huống, thậm chí cả tình tiết đã diễn ra trong những ngày sụp đổ cuối cùng của chính thể Việt Nam Cộng hòa...
Ông đặc biệt ấn tượng với nhân vật nào nhất?
Nhân vật chính trong toàn bộ tác phẩm là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Tôi thậm chí có cả số thẻ căn cước và ngày cấp thẻ căn cước của cả Thiệu và vợ Thiệu. Thiệu đi lính, tiến lên từ quân đội đến khi vào Dinh Độc Lập làm Tổng thống.
Từ Dinh Độc Lập, Thiệu gọi điện cho tất cả các quân sư đoàn, trực tiếp chỉ huy toàn bộ cuộc chiến. Một con người cực kỳ thông minh, quyết đoán, lật lọng, mưu toan, thủ đoạn tàn bạo, bám Mỹ đến cùng và chống cộng sản đến cùng.
Ngoài ra, trong các tướng lĩnh Việt Nam cộng hoà, người khiến tôi ấn tượng nhất về mặt nhân cách là Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh quân đoàn Quân khu 4.
Khi đọc hồ sơ về ông ta, nhiều lần tôi lặng người. Khi chủ trì cuộc họp Bộ tư lệnh quân đoàn 4, đúng lúc Dương Văn Minh tuyên bố buông súng đầu hàng, cuộc họp biến thành cuộc tranh cãi gay gắt. Tướng Nam yêu cầu mang chiếc radio ra để giữa bàn và nói: “Tổng thống đã tuyên bố đầu hàng. Tôi cũng tuyên bố Quân đoàn 4 bỏ súng”.
Các tướng lĩnh khác lập tức chất vấn Nguyễn Khoa Nam: Tại sao đầu hàng, trong khi Quân đoàn 4 còn nguyên vẹn hải lục không quân, chưa một trận chạm súng với Quân giải phóng. Tranh cãi gay gắt, loạn xạ. Nguyễn Khoa Nam đã buồn rầu, nhưng vẫn cương quyết ra lệnh: “Tình thế đến lúc này không đảo ngược được. Tôi còn có trách nhiệm với 165.000 gia đình binh sĩ và đồng bào. Không thể để đổ máu thêm nữa. Tôi quyết định buông súng”
Chiều 30/4, Nguyễn Khoa Nam mặc quân phục nghiêm chỉnh, vào quân y viện thăm binh lính Sài Gòn bị thương nặng, phải nằm một chỗ không di chuyển được. Ông ta đến từng đầu giường nắm tay những người lính và chảy nước mắt.
Khi quay về, viên tỉnh trưởng gọi điện xin lệnh nổ mìn đã đặt sẵn để phá cầu, chặn bước tiến của xe tăng Quân Giải phóng. Nguyễn Khoa Nam lập tức ra lệnh: “Để cầu lại. Không được phá.”
Chiều tối hôm đó có hai cán bộ Quân giải phóng đến trụ sở Bộ tư Quân đoàn 4, gặp Nam yêu cầu Quân đoàn 4 buông sung. Nguyễn Khoa Nam tiếp đón lịch sư. Xong việc, khi bước ra ngoài sân Bộ tư lệnh, chia tay, Nguyễn khoa Nam đã bắt tay hai cán bộ Quân giải phóng.
Ngay sau đó, Nguyễn Khoa Nam đã lệnh truyền đạt cho chỉ huy tất cả các đơn vị trực thuộc Quân đoàn 4 yêu cầu buông súng, giương cờ trắng, chủ động gặp Quân giải phóng bàn giao căn cứ, súng đạn, tránh tuyệt đối đụng độ, đảm bảo an ninh tối đa cho dân chúng.
Đêm hôm đó, máy bay trực thăng riêng túc trực ở sân Bộ tư lệnh. Nguyễn Khoa Nam có thể lên trực thăng bay ra tầu chiến của Mỹ đang đậu ngoài khơi, di tản đi nước ngoài. Nhưng Nguyễn Khoa Nam đã chọn quyết định ở lại, và đêm đó sau những giằng xé, giông bão về nội tâm, Nguyễn Khoa Nam đã rút súng ngắn bắn vào đầu tự sát...
Những bản tường trình của tướng tá Quân đoàn 4 có mặt tại các cuộc họp cuối cùng của quân đoàn do Nguyễn Khoa Nam chủ trì, lời kể của cần vụ ở bên cạnh nguyễn Khoa Nam tới phút chót, lời kể của bác sĩ khám nghiệm tử thi lúc Nguyễn Khoa Nam qua đời, biên bản pháp y... đã giúp tôi xây dựng chương sách có đề cập đến quân đoàn 4 và khắc họa với chừng mực nhất định nhằm đảm bảo sự tin cậy vào tính chân thực về hình ảnh của nhân vật Nguyễn Khoa Nam...
Còn có những câu chuyện hay uẩn khúc nào mà ông chưa thể đưa vào cuốn sách?
Cuộc chiến đã kết thúc hơn 4 thập kỷ. Quan hệ Mỹ - Việt cũng đã được bình thường hoá. Không còn rào cản nào về việc phục dựng trung thực sự thật lịch sử. Không còn chuyện dám đưa hay không. Mà chỉ là đưa như thế nào? Lần đầu tiên xuất bản, tôi không in các tài liệu nguyên bản ở phần phụ lục.
Đến lần tái bản thứ nhất tôi in toàn văn 21 tài liệu nguyên bản được xem là tuyệt mật ở thời điểm đó. Còn để sử dụng được hết nguồn tư liệu đồ sộ, cuốn sách phải lên đến nghìn trang. Nếu có thể, tôi mong sẽ đưa được những tư liệu còn lại tới độc giả khi tiếp tục tái bản có bổ sung cuốn sách này vào dịp kỷ niệm 50 năm Ngày thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2025)
Hoàng Hườngthực hiện

Con trai Tổng bí thư Lê Duẩn nói về đặc quyền và lợi thế trời cho của TP Hồ Chí Minh

Từ đổ nát chiến tranh đến ngôi vị số 1:

Con trai Tổng bí thư Lê Duẩn nói về đặc quyền và lợi thế trời cho

Sau 42 năm tính từ 11g trưa ngày 30/4/1975, Sài Gòn – TP.HCM đã chuyển mình từ thành phố phục vụ chiến tranh sang Trung tâm kinh tế, văn hóa–xã hội lớn nhất phía nam Việt Nam. 
Chặng đường 42 năm sau thời khắc 11g ngày 30/4/1975 được ghi dấu bằng nhiều thay đổi mạnh mẽ để góp phần quan trọng đưa đất nước Việt Nam “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” như lời dặn của Bác Hồ. 
TS. Lê Kiên Thành, con trai cố TBT Lê Duẩn chia sẻ, “Quê cha tôi ở miền Trung, tôi sinh ra ở Hà Nội, nhưng có gần 30 năm sống ở Sài Gòn-TP. Hồ Chí Minh. Ước mơ, khát vọng cháy bỏng nhất của tôi luôn hòa chung với con người thành phố này. Cho nên những điều tôi nói là sự thiết tha thật tận đáy lòng góp phần nhỏ bé của mình với TP để cùng tìm được con đường đi lên đúng đắn nhất, để vừa nhanh, vừa vững mạnh, sánh vai với những đô thị, TP lớn trong khu vực và thế giới”.
Tuần Việt Nam xin giới thiệu góc nhìn của con trai cố TBT Lê Duẩn về Sài Gòn-TP.HCM.
Thưa ông, bắt đầu từ những trăn trở, suy nghĩ của các nhà lãnh đạo TP.HCM những nhiệm kỳ gần đây về việc đưa TP.HCM phát triển lên tầm cao mới. Nhìn chung họ đều cho rằng, cần có cơ chế phù hợp để TP.HCM, tháo gỡ những vướng mắc đang trì níu v.v… Nhiều đề án và kiến nghị đã được đưa ra, được trình lên Trung ương… Có những phần đã được đồng ý, có phần vẫn còn phải nghiên cứu tiếp… Là người gắn bó với TP như vậy, ông có những suy nghĩ về việc này như thế nào?
TS. Lê Kiên Thành: Tôi cũng theo dõi và nghe những kiến nghị. Ví dụ kế hoạch tạo cho thành phố một cơ chế phù hợp, biến TP thành một đặc khu; đưa TP về vị trí trong lịch sử đã từng- là số một của khu vực, tức  “Hòn ngọc Viễn Đông” v.v… Tôi rất quan tâm và rất mừng.
thành phố Hồ Chí Minh,Lê Kiên Thành, Cố Tổng bí thư Lê Duẩn
Sài Gòn-TP. Hồ Chí Minh có vị trí chiến lược đặc biệt mang tính quyết định trong mọi thời kỳ. Ảnh: Lê Anh Dũng
Tôi sinh ra ở Hà Nội. Quê cha thì lại ở miền Trung. Nhưng tôi đã có gần 30 năm, tức là gần nửa cuộc đời mình, sống ở thành phố này cho nên trong máu thịt của tôi; trong ước mơ, khát vọng cháy bỏng nhất của tôi luôn hòa chung với con người TP.HCM! Cho nên khi nghe nhà lãnh đạo quyết tâm đẩy TP phát triển, sánh với vị trí “Hòn ngọc Viễn Đông” như từng có, với vai trò xứng đáng của TP mang tên Bác,… tất cả những quan điểm đó đều hợp với mong mỏi của tôi cũng như nhân dân TP.
Để những ý tưởng này thành hiện thực, cần có cách tiếp cận khách quan và khoa học để tránh bị “lệch” khi đi tìm mũi đột phá, cũng như hóa giải những khó khăn từ nội tại của TP.HCM, tìm ra hướng phát triển phù hợp, mạnh mẽ. Chúng ta làm việc gì chỉ thấy thuận lợi, không thấy khó khăn thì cũng không được. Ngược lại, chỉ thấy khó khăn mà “quên” mất thuận lợi thì cũng không xong. Cần phải tránh ngay từ đầu bị “lệch” như vậy!
Đừng quên, thời chiến tranh, bên nào cũng muốn có được Sài Gòn, nay chúng ta gọi là TP.HCM? Đó bởi vì TP có vị trí chiến lược đặc biệt mang tính quyết định. Thời bình cũng vậy, TP có vai trò là đầu tàu thúc đẩy cả nước.  
Hiện Sài Gòn-TP.HCM đã và đang được hưởng những gì, những cái đó có “đặc biệt” không?
Nhìn lại lịch sử, từ Hà Nội, Hải Phòng ở miền Bắc cho đến Huế, Đã Nẵng ở miền Trung… từng bị chiến tranh làm tổn thương ghê gớm. Nhưng Sài Gòn-TP. HCM là đô thị lớn duy nhất suốt mấy chục năm chiến tranh không hề bị tàn phá.
Sài Gòn–TP.HCM là trung tâm đầu não của chế độ cũ nên được Mỹ đầu tư hạ tầng khá tốt trong khi miền Bắc bị bom đạn vùi dập, giao thông gần như không còn gì. Huế và Đà Nẵng cũng bị bom đạn chà đi sát lại.
Một lợi thế nữa của Sài Gòn-TP.HCM không có nơi nào có được là với những đầu tư khổng lồ từ sẵn có, TP.HCM không phải khấu hao. Nói chính xác ra thì khấu hao của TP.HCM chính là sự hy sinh xương máu của cả dân tộc, trong đó có nhân dân TP.
Thế thì thử hỏi, TP. Hồ Chí Minh đã có những “đặc quyền”, “đặc lợi chưa”? Rõ ràng là có rồi. Nói cách khác, đây là lợi thế số một và duy nhất chỉ Sài Gòn-TP.HCM mới có, và cũng là duy nhất.   
thành phố Hồ Chí Minh,Lê Kiên Thành, Cố Tổng bí thư Lê Duẩn
Chính những lợi thế không tỉnh thành nào có được đã giúp Sài Gòn-TP.HCM có vai trò quan trọng với cả nước. Ảnh: Lê Anh Dũng.
Thêm một “đặc quyền”, “đặc lợi” nữa là TP này chưa từng bị thiên tai tàn phá. Bao nhiêu năm nay bão, thiên tai vào Hà Nội, Hải Phòng, miền Trung, và vào tận Cà Mau, Cần Thơ, nhưng tuyệt nhiên chưa không bao giờ bão tấn công Sài Gòn… Đây là những “đặc quyền” về địa lý.
Thì chính những lợi thế này đã giúp Sài Gòn-TP.HCM có vai trò quan trọng với cả nước. Dù chỉ chiếm chưa đầy 10% dân số nhưng TP đóng góp tới ¼ ngân sách quốc gia, và còn nhiều đóng góp quan trọng khác như ông biết đấy?
TP. HCM đang được hưởng nhiều ưu đãi về lịch sử, địa lý. Đây chính là “đất lành” nên nguồn nhân lực tốt nhất của cả nước cũng dồn về đây.
Những thành công của TP.HCM thời gian qua đều có nguồn gốc từ những lợi thế có một không hai này. TP.HCM đã đóng góp rất lớn cho cả nước, đặc biệt là trong ngân sách của cả nước thì phần đóng góp của TP.HCM chiếm tỷ trọng rất lớn. Tuy nhiên, nếu chỉ thấy con số này cũng như những con số “ấn tượng” khác như thế thì vô hình chung chúng ta sẽ khó thấy hết tiềm lực và nội lực quan trọng khác, mang tính quyết định.
Xin ông nói rõ thêm chỗ này?
Cái quan trọng nhất không phải là Sài Gòn-TP. HCM sẽ làm bao nhiêu tiền và đóng góp cho ngân sách tăng bao nhiêu. Mà cái quan trọng trước nhất, cái quan trọng đặc biệt là những cái hay, cái giỏi, cái tiến bộ của TP có sức lan tỏa như thế nào đến cả nước từ KT – XH cho đến văn hóa, khoa học kỹ thuật v.v...
Ngày từ đầu Sài Gòn-TP.HCM đã được xác định “vì cả nước, cùng cả nước”. Đây là trách nhiệm của TP.HCM với cả nước cũng như trách nhiệm của cả nước với TP.HCM. Sự gắn bó này đã quyện chặt từ hồi còn chiến tranh cho đến hòa bình, phát triển kinh tế, không thể tách rời.
Tôi vẫn băn khoăn một chút ở chỗ, nếu khoác cho Sài Gòn-TP.HCM “cơ chế đặc thù” thì vô hình chung chúng ta sẽ hạn chế sự lan tỏa của TP với các địa phương khác.
Sẽ không thể chỗ nào cũng làm đặc khu kinh tế được, và không thể lấy cái hay của đặc khu này để áp dụng phát triển cho một địa phương bình thường khác. Bởi khi đã là “đặc thù” thì khó mà tương tác, hợp tác với các địa phương “không đặc thù”.
Liệu rồi mô hình đó nó tác động thế nào để  những cái hay, những cái tiến bộ, những cái đột phá của TP. HCM có sức lan tỏa đến toàn bộ nền kinh tế? Hay cái đó phải nằm chung trong tổng thể nền kinh tế cũng như các mặt văn hóa – xã hội khác? Chúng ta cần suy nghĩ rất kỹ ở chỗ này để cân nhắc, có sự lựa chọn phù hợp cho các kế hoạch phát triển thành phố.
(Còn nữa)
Duy Chiến thực hiện

TUOITRE:Bác tin đồn Formosa Hà Tĩnh phát thải dioxin/furan; INFONET: Bộ TNMT: Khí thải Formosa chứa lượng Dioxin cực thấp, dễ dàng kiểm soát

Bộ TNMT: Khí thải Formosa chứa lượng Dioxin cực thấp, dễ dàng kiểm soát


Nguyễn Lê



Từ ngày 24/4/2017, trên mạng xã hội Facebook xuất hiện tin đồn trong khí thải Lò luyện cốc của Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (Formosa) có chứa chất Dioxin/Furan; tin đồn này đã nhanh chóng lan truyền và thu hút dư luận quan tâm.
Trước sự việc này, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT) đã tổ chức cuộc họp, với sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà khoa học, chuyên gia về môi trường và luyện thép trao đổi, thảo luận trên cơ sở khoa học và thực tiễn về khả năng phát thải Dioxin của ngành công nghiệp luyện gang thép nói chung và của Formosa nói riêng.
Tham khảo Hướng dẫn Môi trường – Sức khỏe - An toàn ngành sản xuất tổng hợp của Chương trình Tư vấn IFC tại Đông Nam Á – Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới, Bộ Tài nguyên và Môi trường thông tin khẳng định: 

Dioxin/Furan có phát thải trong công đoạn Thiêu kết quặng sắt và Lò điện EAF. Phát thải Dioxin/Furan trong công nghiệp sản xuất thép có phát sinh không chủ ý một lượng nhỏ Dioxin/Furan trong công nghệ Lò điện hồ quang (EAF) và công đoạn Thiêu kết quặng trong công nghệ luyện thép Chu trình kín; lượng phát thải Dioxin/Furan tại Lò chuyển (BOF) là rất thấp và không phát sinh từ công đoạn luyện cốc của Tổ hợp gang thép.

Về công nghệ luyện gang thép của Formosa, Tổ hợp gang thép của FHS sử dụng công nghệ sản xuất thép theo Chu trình kín; công nghệ sử dụng đã được các tổ chức có uy tín trên thế giới (Veolia của Pháp và Atkins của Anh) đánh giá là công nghệ mới, tiên tiến của EU và Nhật Bản, được đầu tư bài bản, quy mô lớn, sử dụng các thiết bị, công nghệ hiện đại, tiên tiến trên thế giới.

Các công đoạn: luyện cốc, luyện gang, cán thép (cán dây, cán nóng, cán nguội) và các hạng mục công trình phụ trợ khác không phát thải Dioxin/Furan cũng như các Nhá máy luyện gang thép tương tự trên thế giới.

Đối với công đoạn Thiêu kết quặng sắt của Formosa đã lắp đặt và đang vận hành thử nghiệm là công mới, tiên tiến (nguyên liệu đầu vào gồm: quặng sắt nhập khẩu từ Úc, Braxin; chất trợ dung là dolomit, đá bạch vân và đá xà vân, đá vôi; cốc vụn và than gầy; vảy cán thép), thời gian từ khi nhập liệu đến khi ra quặng thiêu kết khoảng 25-76 phút (tùy thuộc vào lớp lớp liệu dày hay mỏn, độ thông khí của lớp liệu); nhiên liệu sử dụng cho thiêu kết quặng là khí COG sạch (thành phần gồm: CO, H2, CH4) đốt trên bề mặt và dùng quạt hút để hút dòng khí nóng xuống phía dưới (nhiệt độ đốt trên bề mặt là 1.100 – 1.150oC và dòng khí ra khỏi công đoạn thiêu kết có nhiệt độ từ 120-140oC), được xử lý bằng hệ thống lọc bụi tĩnh điện, có lắp đặt hệ thống quan trắc khí thải tự động liên tục và truyền dữ liệu trực tiếp về Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Hà Tĩnh để kiểm tra, giám sát;

Kết quả quả đo đạc và phân tích mẫu khí thải ống khói Xưởng Thiêu kết của Formosa trong 02 ngày 17-18/02/2017 (đo 03 lần) do Viện Công nghệ môi trường thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam thực hiện cho thấy, nồng độ Tổng Dioxi/Furan là 0,361-0,388 TEQ ng/Nm3, nhỏ hơn nhiều Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp sản xuất thép (QCVN 51:2013/BTNMT cho phép Tổng Dioxin/Furan tính theo TEQ nhỏ hơn 0,6 ng/Nm3).

- Đối với Lò chuyển thổi oxy (BOF) của Formosa đã lắp đặt là công nghệ mới của Nhật Bản (thổi đỉnh bằng Ôxy và khuấy đáy bằng Nitơ) sử dụng 90% gang lỏng của Lò cao với nhiệt độ từ 1.400-1.500oC và sử dụng khoảng 10-12% thép phế sạch để làm nguội. Cũng như các Lò BOF tiên tiến khác trên thế giới, khả năng phát thải Dioxin/Furan từ lò BOF của FHS sử dụng thép phế liệu sách là rất thấp thấp và thấp hơn nhiều QCVN 51:2013/BTNMT cho phép. 

Như vậy, Bộ TNMT với các thông tin khoa học nêu trên, hoàn toàn có đủ cơ sở khoa học để khẳng định tin đồn trên các trang mạng như nêu ở trên là không chính xác.
Trong quá trình luyện thép của Formosa có thể phát sinh ngoài chủ ý một lượng không đáng kể Dioxin/Firan từ công đoạn thiêu kết quặng sắt, tuy nhiên hoàn toàn có thể kiểm soát được quá trình phát thải này.
Cụ thể, để kiểm soát chặt chẽ việc phát thải Dioxin/Furan trong quá trình vận hành của Formosa, Bộ TNMT đã và đang phối hợp chặt chẽ với Viện Công nghệ môi trường – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Trung tâm Quan trắc môi trường – Tổng cục Môi trường, Trung tâm Nhiệt đới Việt Nga – Bộ Quốc phòng, Tổ giám sát của Bộ Tài nguyên và Môi trường và tỉnh Hà Tĩnh, một số cơ quan khoa học và tổ chức quốc tế liên quan giám sát chặt chẽ, đo đạc và phân tích khí thải hàng ngày, bao gồm cả Dioxin/Furan của FHS theo Quyết định số 2604/QĐ-BTNMT ngày 09/11/2016 của Bộ trưởng Bộ TNMT.

Bộ TNMT cũng kiểm soát chặt chẽ và yêu cầu Formosa sử dụng quặng sắt chất lượng tốt, thép phế liệu sạch để làm nguội trong Lò BOF; sử dụng quặng chất lượng tốt và các vật liệu đầu vào sạch trong công đoạn thiêu kết, kết hợp với hệ thống xử lý khí thải đã lắp đặt để xử lý Dioxin/Furan đạt QCVN 51:2013/BTNMT theo quy định.

Bác tin đồn Formosa Hà Tĩnh phát thải dioxin/furan

29/04/2017 19:38 GMT+7
TTO - Theo Bộ TN-MT, từ ngày 24-4 trên mạng xã hội facebook xuất hiện tin đồn cho rằng khí thải từ lò luyện cốc của Formosa Hà Tĩnh có chứa chất độc dioxin/furan.  
​Chiều 29-4, Bộ Tài nguyên - môi trường (TN-MT) phát thông cáo báo chí bác bỏ tin đồn trên mạng xã hội về việc nhà máy của Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (Formosa Hà Tĩnh) phát thải chất độc dioxin/furan.
Theo Bộ TN-MT, từ ngày 24-4 trên mạng xã hội facebook xuất hiện tin đồn cho rằng khí thải từ lò luyện cốc của Formosa Hà Tĩnh có chứa chất độc dioxin/furan. Tin đồn này nhanh chóng được lan truyền trên mạng, thu hút nhiều người dùng facebook quan tâm chia sẻ và bình luận.
Bộ TN-MT cho biết đã tổ chức cuộc họp với sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà khoa học, chuyên gia môi trường và luyện thép để trao đổi, thảo luận trên cơ sở khoa học và thực tiễn về khả năng phát thải dioxin của ngành công nghiệp gang thép nói chung và của Formosa Hà Tĩnh.
Bộ TN-MT cũng đã tham khảo hướng dẫn Môi trường - Sức khỏe - An toàn ngành sản xuất tổng hợp của chương trình tư vấn IFC tại Đông Nam Á - Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới.
Theo Bộ TN-MT, ngành sản xuất thép trên thế giới có ba công nghệ chính gồm chu trình kín, chu trình hở cà chu trình luyện kim phi coke (cốc). Trong đó, Formosa Hà Tĩnh đang áp dụng công nghệ chu trình kín với nguyên liệu chính  là quặng sắt/quặng thiêu kết, than cốc cùng một số chất trợ dung như đá vôi, huỳnh thạch.
Thiết bị công nghệ mà Formosa đang sử dụng là lò chuyển thổi oxy (BOF), vốn đang được sử dụng để sản xuất 74,2% trong tổng số 1,6 tỉ tấn thép của toàn thế giới năm 2015. Ở Việt Nam tỉ lệ lò BOF chiếm 25%, lò hồ quang điện (EAF) chiếm 59,9%, còn lại là lò cảm ứng.
Bộ TN-MT cho biết theo thống kê của châu Âu, do công nghệ lò BOF sử dụng phần lớn nguyên liệu là gang lỏng (khoảng 90%) nên dioxin/furan phát thải rất thấp, chỉ khoảng 0.001-0,11µg I-TEQ/tấn thép lỏng.
“Như vậy, lượng phát thải dioxin/furan tại lò BOF là rất thấp và không phát sinh từ công đoạn luyện cốc của tổ hợp gang thép” - Bộ TN-MT kết luận.
Theo Bộ TN-MT, Formosa Hà Tĩnh sử dụng công nghệ chu trình kín nên các công đoạn luyện cốc, cán thép và các hạng mục công trình phụ trợ khác không phát thải dioxin/furan. Với công đoạn thiêu kết quặng sắt, Formosa Hà Tĩnh đã lắp đặt và đang vận hành thử nghiệm là công nghệ mới, tiên tiến và dưới sự kiểm tra, giám sát của Sở TN-MT Hà Tĩnh.
Kết quả đo đạc và phân tích mẫu khí thải ống khói ở xưởng thiêu kết của Formosa Hà Tĩnh trong hai ngày 17 và 18-2 (đo 3 lần) do Viện công nghệ môi trường thuộc Viện hàn lâm KHCN Việt Nam thực hiện cho thấy nồng độ tổng dioxin/furan là 0,361-0.388 TEQ ng/Nm3, nhỏ hơn nhiều so với quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về khí thải công nghiệp sản xuất thép (QCVN 51:2013/BTNMT cho phép mức tổng Dioxin/Furan tính theo TEQ nhỏ hơn 0,6ng/Nm3).
“Hoàn toàn có đủ cơ sở khoa học để khẳng định tin đồn trên các trang mạng xã hội là không chính xác. Trong quá trình luyện thép Formosa Hà Tĩnh có thể phát sinh ngoài chủ ý một lượng không đáng kể Dioxin/Furan từ công đoạn thiêu kết quặng sắt, tuy nhiên hoàn toàn có thể kiểm soát được quá trình này” - Bộ TN-MT kết luận. 
Bộ TN-MT cho biết đã và đang phối hợp với Viện Công nghệ môi trường, Trung tâm Quan trắc môi trường, Trung tâm nhiệt đới Việt - Nga (Bộ Quốc phòng), tổ giám sát của Bộ TN-MT và tỉnh Hà Tĩnh, cùng một số cơ quan khoa học và tổ chức quốc tế giám sát chặt chẽ, đo đạc và phân tích khí thải hàng ngày tại Formosa, trong đó bao gồm cả dioxin/furan.
NGUYỄN TRIỀU

Sạt lở bờ biển ngày càng dữ dội

08:00 AM - 01/05/2017 Thanh Niên

Rừng dương phòng hộ do bà Lê Thị Kim Định trồng 20 năm trước đã bị sóng đánh bật /// Ảnh: Đình Tuyển
Sạt lở bờ sông hiện là câu chuyện 'nóng' ở ĐBSCL, nhưng qua ghi nhận thực tế của PV Thanh Niên, sạt lở bờ biển cũng đang xảy ra rất dữ dội.
Rừng cũng không giữ được
Dẫn chúng tôi đi dọc bờ biển, nơi những cây dương gần 20 năm tuổi bị sóng đánh bật gốc nằm ngổn ngang, chồng chất kéo dài hàng ki lô mét, bà Lê Thị Kim Định (ở ấp Nhà Mát, xã Trường Long Hòa, TX.Duyên Hải, Trà Vinh) lo lắng: “Triều cường ngày càng bất thường, năm nay tới tháng 3 mà sóng vẫn dữ dội quá. Rừng cũng không giữ được, người dân không biết phải làm thế nào để ứng phó”.
Nhìn về phía biển gần khu vực Vàm Láng Nước, bà Định bảo cách đây khoảng 4 - 5 năm, đất liền còn nằm tít ngoài xa vài trăm mét. Từ rẫy trồng dưa hấu của gia đình bà, muốn ra đến biển phải đi “mỏi chân” qua giồng cát trồng dương tới bãi bồi rồi mới tới biển. Thế nhưng, đến mùa gió chướng năm rồi (tháng 10.2016 - 3.2017 - PV), biển đã cuốn phăng tất cả. “15 công đất tôi nhận trồng dương từ năm 1997 đến nay đã mất hết, những đợt triều cường cuối cùng vừa rồi sóng còn cạp mất hai luống dưa với khoảng 2.000 m2 đất nhà tôi”, bà Định nói.
Cuốn phăng rừng phòng hộ
Dọc bãi biển từ Vàm Láng Nước (xã Trường Long Hòa) tới khu vực biển ấp Chợ (xã Hiệp Thạnh, TX.Duyên Hải), cách cửa sông Cổ Chiên (một nhánh của sông Tiền) khoảng hơn 10 km, sạt lở càng ghê gớm hơn. Ngoài những khu vực có kè đê biển thì từng vạt rừng phòng hộ đã bị sóng biển xóa sổ. Tại ấp Bào, xã Hiệp Thạnh, một chiếc bảng bê tông “Nghiêm cấm chặt phá rừng” nằm trơ trọi giữa sóng biển, xung quanh không còn cây cối. Cách đó vài trăm mét, những cây cột điện, bờ vuông tôm… cũng đã “dầm mình” dưới sóng biển… “Tất cả khu vực ngập nước này trước đây đều là đất liền, là nhà dân, đường sá, rừng phòng hộ và ao nuôi thủy sản của người dân”, anh Đoàn Thanh Long, một ngư dân làm nghề câu ở xã Trường Long Hòa, cho biết. Gia đình anh Long là một trong những hộ bị ảnh hưởng nặng nề nhất của sạt lở biển. Chỉ tay về chiếc tàu cá đang đánh bắt cách bờ hơn 1 km, anh Long nói cách đây 20 năm, đất của gia đình anh khoảng 2 ha nằm ngay chỗ chiếc tàu giăng lưới. Sau này, khi sóng biển lấn vào, cuốn mất đất mỗi năm, gia đình anh buộc phải chuyển sang ấp Nhà Mát, xã Trường Long Hòa lập nghiệp. Mồ mả ông bà cũng phải chạy lở mấy lần.
Xuôi về hướng cửa sông Cổ Chiên, qua đoạn kè bê tông cũng là cảnh rừng dương đổ ngã ngổn ngang. Ông Phạm Văn Em, ngụ ấp Chợ, xã Hiệp Thạnh nhà ở cạnh rặng cây dương ít ỏi còn sót lại mé biển cho biết: “Mùa gió chướng, chẳng đêm nào người dân ở đây ngủ yên vì sợ sóng đánh lở dương đổ vào nhà”.
Trưởng phòng Kinh tế TX.Duyên Hải Nguyễn Trung Cang cho biết chỉ tính riêng 2 xã Trường Long Hòa và Hiệp Thạnh, hiện có gần 3 km bờ biển xung yếu, mỗi năm sạt lở lại nhanh hơn. “Mùa gió chướng vừa rồi, tính ra đã có hàng chục héc ta đất của TX.Duyên Hải bị sóng biển cuốn mất. Bây giờ, địa phương chỉ còn biết trông chờ vào những dự án kè từ T.Ư”, ông Cang nói.
Sau lở là nguy cơ tan rã
Tương tự như ở Trà Vinh, tại tỉnh Bến Tre, người dân ven biển, nhất là khu vực gần cửa sông Cửu Long (sông Ba Lai, Hàm Luông, Cửa Đại) cũng liên tục đối mặt với sạt lở nghiêm trọng làm mất đất sản xuất, rừng phòng hộ. Cuộc sống người dân bị ảnh hưởng nặng nề nhất ở 3 huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Qua 2 đợt triều cường xảy ra gần đây, ông Bùi Văn Cầm (sống tại cồn Nhàn, xã Bảo Thuận, H.Ba Tri) lo âu: “Chưa năm nào sạt lở lại diễn ra nghiêm trọng và trên diện rộng như hiện nay. Nếu như trước đây, mỗi năm biển chỉ xâm thực từ 10 - 15 m thì hiện tại sạt lở tăng gấp đôi, có đoạn lở sâu vào cả 100 m”.
Cồn Nhàn có 75 hộ với 376 nhân khẩu, mấy năm nay sạt lở đã khiến diện tích của cồn thu hẹp từ 120 ha hiện chỉ còn lại khoảng 75 ha. Còn theo thống kê của ngành nông nghiệp tỉnh Bến Tre, khoảng 5 năm trở lại đây, sạt lở bờ biển khiến tỉnh này mất khoảng 120 ha đất, 54 ha rừng phòng hộ.
Đánh giá thực trạng trên, thạc sĩ Nguyễn Hữu Thiện, chuyên gia sinh thái độc lập về Mê Kông, cho rằng cùng với việc rừng ngập mặn bị mất đi, không còn chắn sóng hữu hiệu, bờ biển bị sạt lở với tốc độ đáng báo động. Lý giải về nguyên nhân của sạt lở biển gia tăng, ông Thiện nói: “Phù sa sông Cửu Long xuôi ra biển tạo thành một vùng nước đục khoảng 20 - 30 km tính từ bờ ra. Lớp nước đục đó chính là chiếc áo giáp của đồng bằng. Nước đục nặng hơn nước trong, khi sóng biển gặp lớp phù sa này sẽ giảm bớt sức mạnh đánh vào bờ. Tuy nhiên, khi mất phù sa, chiếc áo giáp bị mỏng, sạt lở sẽ gia tăng, quá trình bồi đắp yếu đi thì một quá trình tan rã bắt đầu”.
Cùng quan điểm trên, TS Dương Văn Ni (Khoa Môi trường - Tài nguyên thiên nhiên, Đại học Cần Thơ), cho rằng vùng biển cửa sông Cửu Long vốn đã hình thành nên những thềm cát. Thềm cát này như lớp kè dưới chân của ĐBSCL. “Mùa lũ, cát sẽ theo dòng chảy đưa ra cửa sông tích tụ. Hết mùa lũ, tới mùa gió chướng thềm cát sẽ được sóng biển tái phân phối dọc theo đồng bằng. Tuy nhiên, hiện nay lớp cát trên ngày một ít đi vừa do tự nhiên, vừa do con người như thủy điện chặn lại, khai thác cát quá mức. Hệ quả là khi lượng cát bù đắp ít hơn lượng cát bị lấy đi thì sóng biển sẽ gây xói lở vào bờ”, ông Ni nói.
Cũng theo các nhà khoa học ở ĐBSCL, mất đi phù sa, cát chính là thách thức lớn nhất của ĐBSCL. Những vùng đất bồi biến mất hay tình trạng sạt lở bờ biển gia tăng hiện nay chính là biểu hiện rõ nhất của sự tan rã.
Báo cáo của Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên cho biết trong khoảng 2003 - 2012, vùng bờ biển bùn từ Bạc Liêu trở xuống qua Kiên Giang nhiều nơi bị sạt lở với tốc độ hơn 50 m/năm, đặc biệt là đoạn 180 km phía biển Đông. Hơn 50% chiều dài của bờ biển 700 km của ĐBSCL đã bị sạt lở trong khoảng thời gian này. Biển Tây sóng ít dữ dội nhưng khoảng 60% bờ biển phía tây cũng đã bị sạt lở. Tính trung bình trong khoảng thời gian này, bờ biển ở ĐBSCL mất khoảng 5 km2 đất mỗi năm do sạt lở. 
Đình Tuyển

Phạm Bình Minh đi Mỹ: Thành công hay thất bại?

Chuyến công du liên hoàn “Trung trước, Mỹ sau” của ông Phạm Bình Minh, phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng, vào Tháng Tư năm nay rốt cuộc tiếp nhận được cái gì?

Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh bắt tay Ngoại trưởng Mỹ Rex Tillerson. Ảnh: Bộ Ngoại giao.

Hai “thành tích”

Tại Bắc Kinh, ông Minh có cuộc tiếp xúc với những nhân vật trong Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Trung Quốc. Nhưng cũng như kết quả chuyến công du của Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đi Trung Quốc vào Tháng Giêng, hầu hết các trao đổi vẫn chỉ là lời nói xã giao “ấm tình đồng chí” nhưng không có giải pháp cụ thể nào, đặc biệt là giải pháp về tiền theo cách “hỗ trợ tín dụng để chế độ Việt Nam ổn định chính trị.”

Còn tại Washington, DC, ông Minh cũng được gặp những quan chức cấp cao, trong đó đặc biệt là ngoại trưởng và cố vấn an ninh quốc gia. Thành quả lớn nhất và có vẻ bất ngờ nhất là chính cố vấn an ninh quốc gia, chứ không phải giới ngoại giao của Mỹ, trao cho ông Minh bức thư của Tổng Thống Donald Trump mời Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc thăm Mỹ. Động thái này diễn ra ngay sau khi Phó Tổng Thống Mike Pence thông báo tại Indonesia rằng ông Trump sẽ dự hội nghị APEC tại Việt Nam vào Tháng Mười Một. Đó là một kết quả lớn mà theo một chuyên gia phân tích chính trị của Mỹ, điều này khiến giới lãnh đạo Việt Nam hưng phấn và hy vọng hẳn lên, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang phải chịu quá nhiều sức ép về quá nhiều phương diện từ kinh tế, quốc phòng và xã hội.

Một kết quả khác, tuy không được rõ nét như kết quả trên, nhưng cũng có thể được xem là “kết quả” trong chuyến đi của ông Minh: báo đảng Việt Nam tường thuật “Hoa Kỳ ủng hộ việc Việt Nam tiếp tục được hưởng các nguồn vốn vay ưu đãi IDA của Ngân Hàng Thế Giới (WB) phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn tới cũng như các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ APEC.”

Cần nhắc lại, IDA là một định chế tài chính của WB cho vay tín dụng lại suất ưu đãi dành cho các nước nghèo trên thế giới. Nhiều năm trước, trong khi luôn tìm nhiều cách để trưng bày thành tích “hóa rồng” và GDP lên đến 7-9% hàng năm cùng thu nhập đầu người lên đến vài ba ngàn đô la, giới lãnh đạo Việt Nam lại hành động ngược lại khi miệt mài xin tín dụng và viện trợ không hoàn lại. Lý lẽ đưa ra: Việt Nam là một quốc gia… vẫn còn nghèo.

Nhưng đến cuối năm 2015, với những thành tích tăng trưởng mà Việt Nam tự khoác lên mình, WB đã quyết định chấm dứt các chương trình cho vay ODA ưu đãi và bắt buộc Việt Nam phải tốt nghiệp IDA, nghĩa là sẽ phải vay tín dụng của WB với lãi suất cao hơn cùng thời gian ân hạn giảm đi. Đến lúc này, một hiện tượng lạ xảy ra: “Học sinh” Việt Nam tìm cách để được “lưu ban,” tức muốn được kéo dài thời gian vay ưu đãi IDA càng lâu càng tốt.

Tuy nhiên, đó là tất cả cho chuyến đi Mỹ của ông Phạm Bình Minh.

Sau tất cả, đã không có bất kỳ một hơi hướng hay manh mối nào về Hiệp Định Thương Mại Song Phương Việt-Mỹ (BTA).

BTA đâu rồi?

Sau chuyến đi Mỹ của ông Phạm Bình Minh, những tờ báo đảng tường thuật chi tiết nhất về những nội dung đã được mang ra bàn thảo Việt-Mỹ đã không một lời nhắc đến bản hiệp định mà giới lãnh đạo Việt Nam đang mong đợi, và hẳn là mong muốn hơn bao giờ hết.

Cần nhắc lại, chuyến công du Hoa Kỳ của ông Phạm Bình Minh được giới phân tích chính trị Hoa kỳ thông tin là một chuyến đi dọn đường cho cuộc thăm viếng Hoa Kỳ tiếp theo của Thủ Tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc.

Lại có nhiều dấu hiệu cho thấy nhu cầu và mối quan tâm đầu tiên và trên hết của Việt Nam vẫn là thương mại song phương với Hoa Kỳ, sau đó mới là những chủ đề về “xoay trục sang Châu Á – Thái Bình Dương” và “giao lưu” quân sự – quốc phòng Việt-Mỹ ở khu vực Biển Đông. Nhu cầu và mối quan tâm ấy ồn ã hẳn lên từ sau khi Hiệp Định Đối Tác Kinh Tế Xuyên Thái Bình Dương (TPP) hầu như tan vỡ kể từ Tháng Mười Một, 2016 – khi Tổng Thống Trump tuyên bố đoạn tuyệt với hiệp định này, cũng chấm dứt luôn công sức cùng hy vọng kéo dài suốt sáu năm đàm phán của Việt Nam.

Sau 15 năm thực hiện BTA mà đã khiến phi mã giá trị giao thương Việt-Mỹ đến hàng trăm lần, giờ đây, chính quyền của Tổng Thống Trump đang tiến hành rà soát lại toàn bộ BTA này. Việc rà soát này xuất phát từ lời lên án của ông Trump về 16 quốc gia có thương mại song phương “gây hại” cho kinh tế Hoa Kỳ, trong đó có Việt Nam.

Một hệ quả rất không mong đợi đối với Việt Nam là nếu Mỹ “siết” các điều kiện thương mại như đánh thuế xuyên biên giới, dựng đứng hàng rào kiểm nghiệm chất lượng đối với hàng hóa Việt Nam mà trước đó cá basa, tôm, gạo đã trở thành “nạn nhân,” đồng thời ngưng trệ BTA hoặc làm cho hiệp định này trở nên khó khăn hơn nhiều so với 15 năm trước đó, giá trị xuất siêu hàng năm của Việt Nam vào Hoa Kỳ sẽ tụt hẳn.

Trong khi đó, một nguồn “ngoại lực” khác là kiều hối về Việt Nam cũng đang sụt mạnh đến hơn $4 tỷ trong năm 2016 so với năm 2015, báo hiệu một chu kỳ khó tránh thoát về suy giảm tình cảm của “kiều bào ta” đối với chế độ cầm quyền, càng khiến chân đứng của chế độ này dễ bị vỡ vụn hơn bao giờ hết.

Nhưng muốn có được BTA lại không hề dễ dàng. Một BTA với Việt Nam được không chỉ do hành pháp mà còn là do Quốc Hội Hoa Kỳ quyết định.

Còn nhớ vào năm 2015, chỉ riêng định chế quyền đàm phán nhanh (TPA) nằm trong TPP mà chính quyền của Tổng Thống Barack Obama đã phải trình ra hai viện của Quốc Hội Mỹ và đã phải bỏ phiếu đến nghẹt thở 3-4 lần mới thông qua được. Còn nay, trong bối cảnh hàng hóa nước ngoài đang có xu thế tràn ngập nước Mỹ và khiến sụt giảm giá trị xuất siêu của Mỹ, đồng thời làm tăng tỷ lệ thất nghiệp tại nước này, chắc hẳn ông Trump sẽ không thể nhiệt tình đối với BTA cho Việt Nam mà không có những điều kiện đặc biệt kèm theo. Lối suy nghĩ và cách thức hành xử của ông Trump chắc chắn sẽ ảnh hưởng tới nhiều thượng nghị sĩ đảng Cộng Hòa và cả đảng Dân Chủ trong Quốc Hội Mỹ khi nhìn thấy bản dự thảo BTA trước mặt.

Trong lúc đó, nhóm dân biểu quan tâm đến Việt Nam trong nhóm Vietnam Caucus đang trở nên hùng mạnh và ngày càng có tiếng nói mạnh mẽ trong Quốc Hội Hoa Kỳ. Dân Biểu Alan Lowenthal (Dân Chủ-California) là một trong những nhân vật như vậy. Vào đầu Tháng Tư, sau việc phía Việt Nam nêu ra một lời đánh tiếng để Thủ Tướng Phúc “sẵn sàng đi thăm Mỹ,” ông Lowenthal đã nói thẳng với Đài Á Châu Tự Do: “Tôi khẳng định với ngài đại sứ (Ted Osius) rằng Việt Nam muốn tăng cường mối quan hệ thương mại và ký kết BTA thì phải trả tự do cho tất cả tù nhân lương tâm. Nếu họ không làm thế thì không thể có BTA. Tùy thuộc vào chính phủ Việt Nam thôi! Đây là thông điệp của tôi chuyển đến chính phủ Việt Nam.”

Thế nhưng giới lãnh đạo Việt Nam có làm gì để cải thiện nhân quyền?

Còn EVFTA?

Cho tới nay, vẫn chưa hiện ra bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy giới lãnh đạo Việt Nam chịu nhân nhượng bất kỳ nội dung nào trong “gói cải thiện nhân quyền” mà người Mỹ, một lần nữa trong không biết bao nhiêu lần, đặt lại. Thậm chí Luật Về Hội và Luật Biểu Tình – những quyền căn bản quá thiết thân của người dân mà Hiến Pháp Việt Nam từ năm 1992 hứa hẹn nhưng đã bị giới lãnh đạo Việt Nam nuốt lời suốt một phần tư thế kỷ qua, vào Tháng Tư năm nay bị Bộ Công An, chính phủ của ông Nguyễn Xuân Phúc, cùng Quốc Hội của bà Nguyễn Thị Kim Ngân rút khỏi chương trình bỏ phiếu thông qua luật năm 2017 và cả năm 2018.

Hãy đề cập đôi chút về chuyến công du ba nước Châu Âu là Thụy Điển, Hungary, và Czech của Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân vào Tháng Tư năm nay.

Chuyến đi mang một mục đích đặc biệt là “thúc đẩy quốc hội ba nước ủng hộ việc ký chính thức, phê chuẩn Hiệp Định Thương Mại Tự Do Việt Nam-EU (EVFTA).”

Đáng lý ra, trách nhiệm vận động các nước thành viên thông qua EVFTA là của Nghị Viện Châu Âu. Nhưng hẳn do tình thế đã biến diễn như thể “nước đã đến chân,” giới chóp bu Việt Nam không thể ngồi rung đùi chờ đợi Châu Âu thông qua EVFTA như cách người Mỹ đã mang BTA đến tận miệng cho Việt Nam 16 năm trước, hay Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) đặc cách xét cho Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này vào năm 2007. Mọi chuyện đã trở nên khó khăn hơn rất nhiều, đặc biệt sau khi TPP hầu như tan vỡ.

Một cách nào đó, chủ tịch quốc hội Việt Nam đã làm thay công việc vận động của Nghị Viện Châu Âu. Cũng có thể hiểu một cách nào đó, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng phải làm mọi cách để tìm ra một hiệp định thương mại thay thế cho TPP chết yểu, cũng là cách để ông có được thành tích mang lợi ích kinh tế về cho đảng và do đó sẽ kéo dài tuổi thọ tổng bí thư của ông. Rất có thể đó là lý do chính yếu mà ông Trọng “đẩy” bà Ngân đi Châu Âu vận động EVFTA với tư cách “kênh quốc hội,” bất chấp chính thể Việt Nam vẫn hoàn toàn không quan tâm và càng không hề tôn trọng nhân quyền theo yêu cầu của EU.

Nhưng khác hẳn với quan điểm nhẹ nhàng những năm trước về nhân quyền Việt Nam, từ sau khi bị một số tổ chức nhân quyền quốc tế thẳng thắn phê phán, EU bắt đầu chuyển sang thái độ mạnh mẽ hơn trong việc đòi hỏi chính quyền Việt Nam phải cải thiện nhân quyền. EVFTA chính là một bằng chứng khi hiệp định này lần đầu tiên đã gắn điều kiện Việt Nam phải cải thiện nhân quyền với lộ trình triển khai các điều ước thương mại.

Kết quả đáng thất vọng đối với phái đoàn của bà Nguyễn Thị Kim Ngân là sau các cuộc làm việc ở Châu Âu, không có bất cứ một khoản viện trợ không hoàn lại nào được phía chủ nhà thông báo dành cho Việt Nam. Ngay cả Thụy Điển – vốn được Việt Nam hy vọng nhất về “tình cảm rất đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ” – cũng không còn tỏ ra hào phóng như thường biếu một số tiền viện trợ không hoàn lại vào những lần giới lãnh đạo Việt Nam thăm Thụy Điển những năm trước. Thậm chí, lãnh đạo Quốc Hội Thụy Điển cũng không hứa hẹn bất kỳ điều gì liên quan đến viện trợ không hoàn lại trong thời gian tới cho Việt Nam. Hẳn quốc gia này vẫn chưa thể quên việc họ đã bắt buộc phải ngừng vô thời hạn các khoản viện trợ ODA cho Việt Nam vào năm 2013 sau khi phát hiện hàng loạt gian dối của quan chức Việt. Sau đó cả Bộ Ngoại Giao Úc và vài quốc gia khác cũng bắt đầu cắt giảm viện trợ.

Trong khi không nhận được khoản viện trợ nào, đoàn “quốc tế vận” của bà Kim Ngân cũng không có được văn bản cam kết nào của quốc hội ba quốc gia này là “sẽ thúc đẩy để Liên Âu sớm phê chuẩn EVFTA.” Tất cả chỉ là nói miệng theo lối xã giao mà chẳng có gì chắc chắn!

Muốn EVFTA được thông qua, phải có sự thống nhất của quốc hội thuộc 27 nước thành viên. Sự đồng thuận giữa các nước EU lại tương đối cao về vấn đề nhân quyền. Chỉ cần vài nước không thông qua thì EVFTA sẽ bị khựng lại.

Cho tới Tháng Tư, Việt Nam vẫn chưa có được manh mối đáng hy vọng nào cho cả EVFTA lẫn BTA. Tương lai gần rất dễ nhận ra là nếu không có những cải thiện đáng kể nào về nhân quyền từ giới lãnh đạo Việt Nam, chuyến đi Mỹ sắp tới của Thủ Tướng Phúc sẽ trở nên công cốc.

Phạm Chí Dũng



(Người Việt)