Chủ Nhật, 28 tháng 8, 2016

Li Ming (Triết gia Trung Quốc): “Vì sao người Trung Quốc ngu thế?”

Print Friendly
chinapeople
Tác giả: Li Ming (Triết gia Trung Quốc) | Biên dịch: Nguyễn Hải Hoành
Lời giới thiệuNhiều người cho rằng văn minh Trung Hoa có đóng góp quá nhỏ bé (xét về số dân) vào thành tựu của văn minh nhân loại, về khoa học tự nhiên cũng như khoc học xã hội. Tìm ra căn nguyên của tình trạng này là một vấn đề có tầm quan trọng đối với Trung Quốc, từng được một vài học giả phương Tây, hoặc phương Tây gốc Hoa bàn luận, nhưng dường như giới học giả Trung Quốc lại thiếu quan tâm vấn đề này, có lẽ vì họ không muốn nói tới các mặt tiêu cực của thể chế chính trị-văn hóa nước họ. Trong tình hình đó, cuốn “Vì sao người Trung Quốc ngu thế?” của triết gia Li Ming (Lê Minh, xuất bản 2003) thu hút được sự chú ý của dư luận. Dưới đây là bài nói của Li Ming tại ĐH Bắc Kinh về sách trên. Bài gồm 6 phần: 1) Vì sao người Trung Quốc là một dân tộc “vô học”?  2) Vì sao sự ngu dốt của người Trung Quốc là kết quả tất nhiên của sự lựa chọn không ngừng xuất phát từ lợi ích tự thân của kẻ thống trị các đời trước; 3) Vì sao người phương Tây trong xã hội cận đại lại trở nên thông minh? 4) Nghi ngờ về sự “thông minh” của người phương Tây trong thế kỷ 21; 5) Tình trạng ngu dốt và thông minh hiện nay của người Trung Quốc; 6) Sau thế kỷ 21, người Trung Quốc nên trở nên thông minh như thế nào? Dưới đây xin giới thiệu phần đầu.
Trong cuốn “Người Trung Quốc xấu xí”, ông Bá Dương đã xúc phạm mạnh đồng bào TQ (TQ), và bị họ chửi cho mất mặt, giờ đây tôi lại lấy thuyết “ngu dốt” ra để gây sự lần nữa thì chẳng phải là tự chuốc lấy quả đắng đấy ư? Thực ra không phải tôi thích gây sự, mà là do cổ họng tôi bị hóc xương, không lấy xương ra thì khó chịu. Lại còn một lý do nữa là TQ từ xưa tới nay có quá nhiều văn nhân tự khoe mình thông minh, làm cho những người TQ bình thường lâu nay cũng thường xuyên rơi vào đám sương mù dầy đặc tự cho mình là thông minh, mọi người đều mơ giấc mơ người TQ “thông minh”, dường như người nước ta đúng là đặc biệt có gene thông minh. Tiếc thay, mơ mộng rốt cuộc chỉ là mơ mộng. Trên thực tế, người TQ có đúng là thông minh như thế không? Song le thông minh là gì, ngu dốt là gì?
Tôi cho rằng đó chỉ là kết luận rút ra được từ sự so sánh với các chủng loại người khác. Quan điểm của tôi là: trong sự so sánh đó, chủng loại người nào có thể cung cấp cho nền văn minh của toàn nhân loại những nhà tư tưởng lớn, nhà khoa học lớn, nhà công nghệ lớn, nhà nghệ sĩ lớn đẳng cấp thế giới, thì chủng loại người ấy là thông minh. Ngược lại, là chủng loại người ngu dốt.
Nói cách khác, qua so sánh, chủng loại người nào giỏi hơn về khám phá các quy luật mới (về tự nhiên, xã hội, tâm lý loài người), về phát minh công nghệ mới (tư duy, công cụ, máy móc), sáng tạo các tri thức mới (về khoa học, nghệ thuật), thì thuộc về chủng loại người thông minh. Ngược lại chủng loại người nào không giỏi, thậm chí không có thể khám phá quy luật mới, phát minh công nghệ mới, sáng tạo tri thức mới thì là không thông minh.
Dĩ nhiên, thông minh hoặc không thông minh, ngu dốt hoặc không ngu dốt đều mãi mãi ở trong quá trình biến động. Vì thế nên nói không có chủng loại người nào có số phận an bài là thông minh, cũng không có ai số phạn an bài là ngu dốt. Nhưng nếu mọi người tự mình kiên trì mãi mãi không biến đổi thì “ngu dốt” cũng có thể trở thành một loại số phận. Tôi vô cùng lo ngại người TQ trong tình hình trường kỳ giữ một truyền thống lịch sử “bất biến” sẽ thực sự có số phận như vậy.
Người TQ có thực sự thông minh không? Nếu người TQ thực sự thông minh như thế thì trong dòng sông lịch sử dài dằng dặc rốt cuộc họ đã cống hiến cho nền văn minh nhân loại được bao nhiêu nhà tư tưởng lớn, nhà khoa học lớn, nhà công nghệ lớn, nghệ sĩ lớn cấp thế giới, cung cấp được bao nhiêu khám phá lớn về quy luật, phát minh lớn về công nghệ và nghệ thuật, sáng tạo lớn về tri thức?
Nếu người TQ thực sự thông minh thì tại sao trong hơn 100 năm gần đây, về nhân cách chính trị lại luôn luôn bị người nước khác bắt nạt, về  kinh tế toàn là bị người ta bóc lột, về văn hóa học thuật toàn là bị người ta phân biệt đối xử? Cái “thông minh” tự tâng bốc mình có thể biến thành thông minh thực sự được chăng? Rõ ràng không thông minh mà cứ tự tâng bốc mình thông minh, điều đó nên nói là ngu dốt thực sự.
Socrates ở thời cổ Hy Lạp được nhiều người cho là người thông minh nhất. Nhưng cái ông thích được tâng bốc hơn cả lại không phải là sự thông minh của mình, mà ông bao giờ cũng tự xưng: “Tôi biết sự vô tri của mình”. Cho nên Socrates là thủy tổ của phép biện chứng. Ông hiểu sâu sắc thực chất của sự việc con người sở dĩ “thông minh” không phải là ở bản thân sự thông minh mà là ở chỗ thực sự nhận thức được sự vô tri của mình và biết cách vượt qua sự vô tri đó. Trong lịch sử TQ có bao nhiêu sĩ đại phu và văn nhân dám công khai thừa nhận mình vô tri? Lại có bao nhiêu người đã nghiêm chỉnh khắc phục được sự vô tri của mình? Trên ý nghĩa này thực sự có thể nói chính là giới sĩ đại phu văn nhân trong các đời trước đã liên tục tạo ra sự ngu dốt của người TQ. Sở dĩ hôm nay tôi phải lớn tiếng tuyên bố về sự “ngu dốt” của người TQ ngày xưa và ngày nay, thực ra là tôi vô cùng mong muốn người TQ trong tương lai sẽ trở thành “thông minh”.
Lịch sử mấy nghìn năm của TQ thực ra là lịch sử các sĩ đại phu văn nhân tự khoe “thông minh”. Các sĩ đại phu văn nhân “thông minh” trong các thời đại trước đây đã để lại cho người TQ ngày nay những trước tác có tới hàng tỷ chữ, trong đó nổi tiếng nhất có bộ Nhị thập tứ sử, Tư trị Thông giám, Vĩnh Lạc đại điển, Tứ khố toàn thư v.v… Tiếc thay nếu dùng chiếc cân tri thức lý tính của con người hiện đại mà cân đo lượng văn bản lớn ấy thì phần tri thức của nó nhẹ tới mức làm người TQ cảm thấy đau khổ, chỉ đáng một phần vạn lượng tri thức ngày nay. Có một điểm càng làm cho người ta không thể không ghi nhớ là nếu ai hiện nay vẫn vùi đầu vào núi văn bản ấy thì người đó sẽ được nhân bản thành một vị văn nhân tự khoe “thông minh’ của TQ. Các vị văn nhân tự khoe “thông minh’ của TQ trong các thời đại trước đây chính là được nhân bản từ núi thư tịch ấy. Chính vì thế mà xã hội và lịch sử TQ cũng được nhân bản lặp đi lặp lại vô cùng giống như thời xưa, thậm chí như nhau. Chỉ trong một trăm năm gần đây mới có chút thay đổi, nhưng phần cốt lõi thì vẫn khá cứng — tức giới văn nhân TQ cho đến nay vẫn chưa nhận thấy sự vô tri của mình và tại sao lại vô tri, khắc phục sự vô tri như thế nào. Điều này đúng là thực sự ngu dốt.
Sự ngu dốt của người TQ trước hết, hoặc về căn bản, vẫn là sự ngu dốt của giới sĩ đại phu văn nhân nước này. Văn nhân các triều đại trước đây đã làm ra rất nhiều thư tịch có hàm lượng tri thức cực nhỏ — Kinh, Sử, Tử, Tập. Văn nhân TQ ngày nay vẫn tiếp tục làm ra rất nhiều văn bản loại ấy, tạo ra một lượng lớn rác rưởi văn tự trong toàn bộ nền văn minh TQ. Trước kia Lỗ Tấn từng đau khổ cảnh báo thanh thiếu niên TQ cần bớt đọc, thậm chí không đọc sách do văn nhân TQ viết. Qua đây có thể thấy ông sớm hiểu rõ tính nghiêm trọng tồn tại trong núi rác văn tự của nền văn minh TQ. Chính là sự nhân bản lặp lại núi rác rưởi văn tự ấy đã lấp kín con đường trí tuệ của bao nhiêu thế hệ người TQ. Thứ đầu tiên được chế tạo với khối lượng lớn là sự ngu dốt của văn nhân TQ, sau đó nó khuếch đại thành sự ngu dốt của người TQ. Đó là số phận sự ngu dốt của người TQ trong hơn hai nghìn năm qua, nhất là trong 500 năm gần đây, và đặc biệt là 200 năm nay.
  1. Vì sao người Trung quốc là một dân tộc “vô học”?
Tác giả đã sống được ngót 60 tuổi, làm học giả trong khoảng 20 năm, cho tới nay mới chợt tỉnh ngộ biết rằng “học” là gì. Sự tỉnh ngộ ấy cũng làm cho tôi bỗng dưng rơi vào một nỗi buồn sâu sắc: người TQ (dân tộc Trung Hoa) có lịch sử văn minh 5 nghìn năm mà chẳng lưu lại bao nhiêu thứ thực sự đáng để hậu thế học tập. Là một học giả hiện đại TQ tôi vô cùng đau khổ phát hiện thấy người TQ chúng ta vốn dĩ căn bản chưa hiểu thế nào mới là “học” đích thực, do đó mà đến nỗi hầu như vô “học”.
Điều đó thực ra không khó kiểm chứng. Chỉ cần mời mọi người đọc lại một lượt toàn bộ các giáo trình tiểu học, trung học, đại học, viện nghiên cứu sinh, xem xem trong số những kiến thức đáng gọi là “học” dạy cho học sinh, rốt cuộc có bao nhiêu cái là do người TQ chúng ta khám phá, phát minh và sáng tạo.
Kết quả ra sao? Có thể nói, ngoại trừ những thứ như ngữ văn TQ, y dược TQ, sân khấu, thư, họa TQ — số lượng các kiến thức thổ sản ấy đã cực ít lại cũng khó có thể gọi là “học” mà chỉ có thể gọi là “thuật” — hầu như 9999 phần vạn các kiến thức còn lại đều là “sản phẩm du nhập qua đường biển” từ phương Tây. Trong các lĩnh vực như thiên văn, địa chất, địa lý, toán học, vật lý, hóa học, sinh vật, tâm lý, triết học, khoa học xã hội (chính trị học, kinh tế học, xã hội học, pháp học, luân lý học, tân văn học….) thì người TQ chúng ta có truyền thống 5000 năm lịch sử lâu đời và chiếm tỷ lệ số dân nhiều nhất thế giới, rốt cuộc sáng tạo được môn học nào, khoa học nào? Chúng ta lại có ưu thế rõ rệt ở lĩnh vực nào vậy? Thậm chí người Nhật cũng có thể cười chế nhạo chúng ta “Đôn Hoàng ở TQ nhưng Đôn Hoàng học thì lại ở Nhật”.
Bình tĩnh tự xét mình, nên thừa nhận là trong nền văn minh TQ 5000 năm, chúng ta có chữ “học” động từ (học hỏi, học ở chỗ hỏi, vậy hỏi ai? Hỏi trời, hỏi các đại nhân, hỏi các thánh nhân) mà không có chữ “học” danh từ (môn học, khoa học, những tri thức có năng lực sinh trưởng kéo dài, có sinh mạng riêng, tự làm thành hệ thống).
Nhìn tổng quát xưa nay, chúng ta có quan trắc thiên văn nhưng không có môn thiên văn học; có khảo sát địa lý (như Từ Hạ Khách du ký…) nhưng không có địa chất học, địa lý học; có trồng trọt thực vật, vận dụng thực vật nhưng không có thực vật học; có dạy thú và sử dụng động vật nhưng không có động vật học (phương pháp dùng trong các môn động vật học, thực vật học hiện nay vẫn dùng phương pháp phân loại hệ thống do người phương Tây phát minh); có tính toán con số cụ thể nhưng không có toán học trừu tượng; có Tứ đại phát minh nhưng không có vật lý học, hóa học; có kiến trúc cầu hầm nhà nhưng không có cơ học kiến trúc (vật liệu, công trình, kết cấu); thậm chí ta có ngôn ngữ, chữ viết, hội họa, âm nhạc, nhưng không có các môn học thành hệ thống như ngôn ngữ học, ngữ pháp học, tư từ học (Thuyết văn giải tự của Hứa Thận là một bộ tự điển, Mã thị văn thông là sản phẩm sau khi học ngữ pháp học của phương Tây, Lục thư pháp tắc chưa hình thành nguyên lý nghiêm chỉnh), mỹ thuật học (hội họa TQ không có thấu thị học, sắc thái học…), âm nhạc học (tuy rằng Chu Tải Dục đời Minh đầu tiên phát hiện thập nhị bình quân luật nhưng không làm nó trở thành hòa thanh học, âm luật học v.v…).
Sau hơn 20 năm làm học giả TQ, tới nay tôi mới bừng tỉnh dậy sau giấc mơ lớn: người TQ chúng ta tự xưng có nền văn minh truyền thống cổ xưa 5000 năm nhưng lại là một nền văn minh vô “học”.
Thưa đồng bào, chẳng lẽ quý vị không cảm nhận được điều đó ư? Tứ đại phát minh của ta cố nhiên vĩ đại đấy nhưng đều chỉ là “thuật” mà thôi, hơn nữa lại là kỹ thuật khá thô sơ do tiền nhân thời xưa phát hiện và phát minh ra trong trải nghiệm cuộc sống trực tiếp tiếp xúc với thiên nhiên, những cái đó chưa được nâng lên thành “học”, cũng tức là chưa biến thành tư duy lý luận trừu tượng, thành học thuyết giải thích quy luật của sự vật. Chẳng hạn thuốc súng trong Tứ đại phát minh , thành phần vật chất (nguyên tố) của nó là gì? Tính chất hóa học thế nào? Nguyên lý gây nổ của nó là gì? Lại nói kim chỉ nam trong Tứ đại phát minh vì sao nó mãi mãi chỉ về phương Nam (hoặc Bắc), rốt cuộc từ tính là gì? Tất cả những cái đó đều phải chờ đến sau này khi người phương Tây tiến hành tư duy lý luận trừu tượng mới có được nhận thức. Trên tất cả các mặt, người TQ chúng ta hầu như chỉ dừng bước không tiến tiếp ở “thuật” mà thôi, vì thế nên thành tích trong lĩnh vực “học” cực kỳ nhỏ bé, quả thật có thể nói là vô “học”.
“Học” với ý nghĩa môn học, là gì vậy? Điều quan trọng là ở chỗ có lý luận trừu tượng cao độ, lý luận đó có thể giải thích hiện tượng đã có của sự vật, lại có thể mô tả một cách trừu tượng quy luật phát sinh của hiện tượng, vì thế không những có thể giải thích cụ thể sự vận hành thực tế lúc đó của sự vật mà còn có thể dự đoán trạng thái và sự biến đổi của sự vật trong tương lai, và được kiểm chứng hoặc chứng thực, hoặc chứng ngụy trong thực tiễn sau đó.
Một trong những tiền đề quan trọng nhất để xây dựng lý luận là phải nắm được quy luật tư duy logic cơ bản nhất. Hơn hai nghìn năm qua, nhất là 200 năm gần đây, nền giáo dục người TQ từ nhỏ được tiếp thụ chỉ có sự nhồi nhét Tứ thư Ngũ kinh, xưa nay chưa bao giờ biết logic là cái gì, sĩ đại phu-văn nhân còn như vậy, nói gì tới đông đảo dân chúng mù chữ. Tại TQ còn có một điểm đặc biệt làm đứt đoạn nền văn minh — đó là sự tách rời hầu như tuyệt đối giữa người lao động phổ thông với tầng lớp văn nhân biết đọc biết viết.
Hầu như toàn bộ những người TQ tiếp xúc với thiên nhiên và có kinh nghiệm lao động sản xuất đều không biết đọc biết viết, nhưng giới văn nhân TQ biết đọc biết viết lại hầu như căn bản không tiếp xúc với thiên nhiên. Nói khác đi nghĩa là từ xưa tới nay cái đầu (tư duy) và cái tay (thực tiễn) của người TQ hầu như bị tách rời tuyệt đối. Cộng thêm tư duy của văn nhân TQ lại về căn bản thiếu mất sự huấn luyện của tính quy luật logic có ý thức, qua đó tạo nên sự tách rời tuyệt đối giữa “thuật” với “học”. Do sự đứt rời song trùng ấy mà cho dù chưa xét tới còn có nhiều nhân tố khác vô cùng bất lợi như chế độ xã hội, tập tục… thì cũng đã ngăn trở vô cùng nghiêm trọng con đường phát triển trí tuệ của người TQ rồi. Đó dường như là số phận ngu dốt của người TQ trong mấy nghìn năm qua, nhất là trong 200 năm gần đây.
Sự tách rời giữa đầu óc với tay chân trong văn hóa truyền thống TQ, cũng tức là tách rời  giữa tư duy và thực tiễn, cùng sự xa lạ giữa tư duy với logic của văn nhân TQ, đã tạo ra sự “học” của người TQ: hầu như duy nhất chỉ có cái “học” hỏi mà căn bản không có sự học hiểu, suy luận, giải thích, càng chưa thể nói tới sự học sáng tạo kiến trúc cấu tạo của tư duy logic trừu tượng.
Tứ thư Ngũ kinh và những thứ tràn ngập thành tai họa hơn nữa như Kinh, Sử, Tử, Tập, hầu như toàn bộ đều là sự học hỏi. Văn hóa truyền thống TQ chỉ có sự học-hỏi, cộng thêm sự tách rời giữa đầu (tư duy) với tay (thực tiễn) và tiếp tục tạo ra sự đứt rời giữa “học” đích thực với “thuật” đã nói ở trên, — sự đứt rời song trùng ấy trên thực tế đã tạo nên sự vô “học” của người TQ từ xưa tới nay.
Trải qua quá trình Tây học truyền vào TQ trong 100 năm gần đây, TQ ngày nay cũng chỉ có cái “học” đi theo cái “học” của phương Tây mà về cơ bản chưa có cái “học” của bản thổ. Chính vì thế mà các “học nhân” của TQ ngày nay, trong quá trình học sẽ cảm thấy một cách nặng nề rằng mình đã mắc phải chứng “mất tiếng nói”. Hầu như mọi từ ngữ, khái niệm về “học” đều du nhập từ phương Tây, mà không có liên quan chút nào với truyền thống văn hóa bản xứ của chúng ta. Miệng là của người TQ nhưng nội dung lời nói lại là những điều trải qua sự suy nghĩ nghiền ngẫm của người phương Tây. Giấy viết, sách vở, truyền thông là phương tiện của bản xứ (song máy móc làm giấy, làm sách và thiết bị truyền thông cũng có thể của phương Tây), nhưng mọi đạo lý, quy phạm, quy tắc, quy luật…  được sách báo truyền thông nói tới đều là những thứ người phương Tây phát hiện, phát minh và sáng tạo. Trong tình hình này chúng ta còn có thể nói người TQ không “ngu dốt” ư?  Nếu còn muốn tự khoe mình “thông minh” kiểu AQ thì chúng ta lại “thông minh” ở chỗ nào vậy?
Khi phân tích kỹ nền văn minh 5000 năm của TQ, có một môn tri thức có thể gọi là “học” được — đó là “Trung Y học” [Y học Trung Hoa]. Có lẽ cũng chỉ trong lĩnh vực “Trung Y học”, người TQ có thể để lại cho nhân loại một thứ duy nhất có thể gọi là “lý luận” của mình. Đó là lý luận “Âm dương ngũ hành”. Tiếc thay tuy đây là thứ lý luận duy nhất trên thế giới có thể gọi là lý luận của người TQ, thuộc loại sánh được với lý luận logic của phương Tây, nhưng kể từ khi nó xuất hiện cách đây hơn 2000 năm, trong quãng thời gian dài dằng dặc sau đó, thứ lý luận ấy không hề có chút tiến triển nào. Người TQ không hề nghĩ tới chuyện nên tiếp tục cải thiện, đẩy mạnh lý thuyết này, mà chỉ mù quáng sùng tín nó, làm theo nó. Cuối cùng lý thuyết ấy chẳng những chưa được cải thiện mà ngược lại ngày càng trở nên cũ rích, xơ cứng. Cho tới nay số người TQ tiếp thụ lý luận logic của phương Tây ngày càng tăng lên, họ chỉ có thể coi thường thuyết Âm dương Ngũ hành, phỉ nhổ thuyết đó, thậm chí vu khống nó, coi là thứ lạc hậu, mê tín, thuộc cùng loại với thuật phù thủy.
[…..]
Xin trở lại vấn đề trước đây, đi tìm nguồn gốc tại sao người TQ trong lịch sử lại vô “học”. Hiện nay có thể đã rất rõ ràng, đó là do trong lịch sử dài lâu, người TQ chưa tự mình sáng lập được một cơ sở có thể đặt nền móng cho tất cả mọi thứ “học”, cái cơ sở mà người phương Tây cận-hiện đại dựa vào để xây dựng hầu như tất cả mọi thứ “học” — Logic đối xứng nhị nguyên luận.
Nói rõ hơn, tức là logic hình thức, logic hình học, logic số lý, logic biện chứng … được từng bước hoàn thiện kể từ Aristotle, Euclid… Về bản chất, các logic này đều là logic tính đối xứng và nhị nguyên luận. Triết học phương Tây từ Plato trở đi, từ bản thể luận tới nhận thức luận, thứ được các triết gia phương Tây ra sức hoàn thiện là bản thân phương pháp tư duy logic đối xứng nhị nguyên luận. Chính là sự không ngừng hoàn thiện, phát triển của phương pháp logic phương Tây (từ triết học cổ đại đến triết học cổ đại) và sự kết hợp hữu cơ với phương pháp thực nghiệm có lựa chọn trong thời cận đại, đã sinh ra và xúc tiến các khoa “học” trên mọi lĩnh vực, mọi tầng nấc của phương Tây thời cận-hiện đại.
Hegel nói người TQ “không có triết học”. Chẳng may người TQ bị ông nói trúng. Đúng là người TQ không có triết học, mà điều đó lại ở chỗ người TQ không có logic — dĩ nhiên là nói logic đối xứng nhị nguyên luận. Các văn nhân nhiều đời trước của chúng ta chưa từng bỏ công sức vào việc thăm dò quy luật của bản thân tư duy. Họ chỉ có duy nhất một phương pháp tư duy là độc đoán trực giác và trực giác độc đoán. Tư duy độc đoán trực giác ấy ngoài việc sản sinh những ý kiến đủ mọi màu sắc ra thì chẳng thể có được sự suy lý khuếch trương, kéo dài, càng không thể có sự kiến cấu sáng tạo trừu tượng. Cho nên những tư liệu do các văn nhân TQ viết, ngoài việc có ý nghĩa chất đống to bằng hạt cát ra thì căn bản không thể có giá trị lý luận kiến cấu hữu cơ. Điều đó làm cho văn nhân chúng ta bao đời qua chưa bao giờ hiểu được lý luận là gì. Về cơ bản, văn nhân TQ là một lũ người lùn văn hóa chẳng biết lý luận là cái gì, chỉ biết phát biểu ý kiến (ý khí chi kiến) mà thôi. Dựa vào những người ấy thì mãi mãi chẳng có thể xây đắp nên tòa lâu đài khoa học cận-hiện đại. Cho dù trên mặt sáng lập kỹ thuật và nghệ thuật thì phần lớn cũng chỉ có thể là những thứ bình thường, nông cạn, vô vị, thậm chí thấp hèn. Chính vì thế mà đã hình thành một lịch sử hầu như vô “học” hơn hai nghìn năm qua của TQ, qua đó tạo ra sự ngu dốt trên thực chất của văn nhân TQ rồi mở rộng ra thành sự ngu dốt của người TQ (nhất là trong 200 năm gần đây).
Trong tất cả các nguyên nhân làm cho người TQ thời cận đại bị đày đọa, nguyên nhân căn bản nhất là sự ngu dốt của họ — tình trạng này dần dần tích tụ mà thành trong lịch sử dài lâu. Do logic mà lạc hậu, nghèo khó. Do logic mà bị kẻ khác bắt nạt, bị đánh, bị kỳ thị. Chỉ có từ đó nhận thức được sự ngu dốt của mình và thoát ra khỏi sự ngu dốt ấy thì người TQ mới có thể thay đổi tất cả trong thế kỷ và thời đại mới.
Trên đây đã phân tích nguyên nhân tình trạng người TQ vô “học” , quy lại chủ yếu là hai điểm sau:
1- Trong lịch sử lâu dài, những người TQ biết chữ thì không làm công việc sản xuất; ngược lại, những người làm sản xuất thì không biết chữ — điều này đã tạo nên sự hoàn toàn tách rời giữa tư duy với thực tiễn. Nói gọn lại, tức sự hoàn toàn tách rời giữa “bộ não” và “cánh tay” của người TQ.
2- Trong lịch sử dài hơn 2000 năm, sự hoàn toàn tách rời giữa “bộ não” và “cánh tay”, giữa “học” và “thuật” của người TQ — sự tách rời song trùng này làm nên nguyên nhân lịch sử giải thích vì sao người chúng ta ngu dốt như thế. Vấn đề này phải được phân tích tiếp. Vì sao người TQ lại có căn nguyên lịch sử như thế? Đây chính là vấn đề cần được giải đáp trong phần sau.
Nguyễn Hải Hoành dịch. Bản gốc tiếng Trung: 中国人为什么这么愚蠢?- 黎 鸣
- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2016/08/28/vi-sao-nguoi-trung-quoc-ngu/#sthash.Mt2zNvIu.dpuf

Việt Nam và Trung Quốc sẽ ‘tuần tra chung ở Vịnh Bắc Bộ’

Tư lệnh Cảnh sát Biển Việt Nam Nguyễn Quang Đạm hôm qua, 26/8, gặp người đứng đầu lực lượng tuần duyên Trung Quốc Mạnh Hoàng Vĩ ở Bắc Kinh.

Tàu tuần duyên Trung Quốc và Việt Nam "vờn" nhau trên biển Đông hồi giữa năm 2014, khi quan hệ hai nước trở nên căng thẳng vì giàn khoan dầu HD 981.
Tàu tuần duyên Trung Quốc và Việt Nam "vờn" nhau trên biển Đông hồi giữa năm 2014, khi quan hệ hai nước trở nên căng thẳng vì giàn khoan dầu HD 981.
Theo báo chí Trung Quốc, hai bên đã “đạt đồng thuận” về việc “sẽ tuần tra ở vùng đánh bắt cá chung ở Vịnh Bắc Bộ hai lần một năm”, cũng như “thực hiện các chuyến thăm hữu nghị của tàu bè hai lực lượng vào thời điểm sớm nhất có thể”.

Ngoài ra, tin cho hay, Việt Nam “sẽ cử nhân lực tới tham gia vào cuộc huấn luyện tăng cường khả năng về thực thi luật pháp trên biển do Trung Quốc tổ chức vào năm 2017”.

Trong một bài bình luận, Xinhua viết rằng đây là cuộc họp song phương đầu tiên giữa lực lượng tuần duyên hai nước.

Ngoài ra, hãng tin nhà nước của Trung Quốc viết thêm rằng “hợp tác trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc là hình mẫu về xử lý tranh chấp trên biển Đông”.

Trong khi đó, dường như báo chí điện tử Việt Nam không đăng tải tin này, và chưa rõ là vì sao lại như vậy.

Tin chính của trang web thuộc Cảnh sát Biển là về “buổi nói chuyện truyền thống về 18 năm xây dựng, phát triển và trưởng thành của Lực lượng Cảnh sát Biển Việt Nam” của Trung tướng Hoàng Văn Đồng Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Cảnh sát Biển.

Cuộc họp trên diễn ra hai ngày sau khi Trung Quốc kết thúc cuộc tập trận bắn đạn thật kéo dài 4 ngày ở Vịnh Bắc Bộ.

Theo Xinhua, Global Times, Inquirer, VietTimes, CSB

(VOA)

11 gợi ý phòng chống ung thư của TS Việt được vinh danh tại Mỹ

TS Phan Minh Liêm | 

11 gợi ý phòng chống ung thư của TS Việt được vinh danh tại Mỹ
Tiến sĩ Phan Minh Liêm

2/3 số ca ung thư có thể được phòng tránh nếu áp dụng đầy đủ các biện pháp phòng ngừa ung thư. Sau đây là một số thông tin hữu ích có thể giúp các bạn giảm đáng kể nguy cơ ung thư.

LTS: TS Phan Minh Liêm là người Việt Nam đầu tiên được 4 lần vinh danh trên bức tường danh dự của Viện Anderson đặt tại Houston, Texas. Thời gian qua, anh đã có bài viết chia sẻ cho độc giả Trí Thức Trẻ 11 bí quyết để phòng ngừa căn bệnh ung thư
Nhận thấy vấn đề này được nhiều người quan tâm, TS Phan Minh Liêm đã 3 lần gửi bản update thông tin nhằm đem đến cho độc giả thông tin đầy đủ nhất về kiến thức phòng tránh và tầm soát ung thư. Bài viết gửi đến độc giả dưới đây là bản hoàn thiện nhất của TS người Việt đã được sự góp ý quý giá của các chuyên gia về ung thư tại Viện Anderson.
Chúng tôi xin trân trọng gửi đến độc giả bài viết đầy tâm huyết của TS Phan Minh Liêm.
Ung thư là một căn bệnh vô cùng nguy hiểm lấy đi sinh mệnh của hơn 8 triệu bệnh nhân trên toàn thế giới mỗi năm. Hơn 14 triệu ca ung thư được phát hiện mới mỗi năm và số ca bệnh ung thư đang tăng nhanh tại nhiều nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Việt Nam là một trong những nước có tỉ lệ tử vong do ung thư cao trên thế giới. 
Tuy nhiên, 2/3 số ca ung thư có thể được phòng tránh nếu chúng ta áp dụng đầy đủ các biện pháp phòng ngừa ung thư. Sau đây là một số thông tin hữu ích có thể giúp các bạn giảm đáng kể nguy cơ ung thư của bản thân và gia đình, người thân. Đây là phiên bản cập nhật với nhiều thông tin hơn so với phiên bản đã được công bố trước đây. Xin cảm ơn các bạn.
11 gợi ý phòng chống ung thư của TS Việt được vinh danh tại Mỹ - Ảnh 1.
Hình 1: Những điều nên lưu ý để giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư.
1. Tầm soát ung thư định kì theo hướng dẫn của các chuyên gia y tế. Việc tầm soát và xét nghiệm phát hiện ung thư sớm rất quan trọng trong việc điều trị và phòng ngừa căn bệnh nguy hiểm này.
Sau đây là khuyến cáo của Trung tâm Ung thư MD Anderson về cách tầm soát ung thư dành cho nam và nữ với nguy cơ ung thư ở mức trung bình.
11 gợi ý phòng chống ung thư của TS Việt được vinh danh tại Mỹ - Ảnh 2.
Hình 2: Khuyến cáo tầm soát ung thư của Trung tâm Ung thư MD Anderson dành cho nữ với nguy cơ ung thư ở mức trung bình.
11 gợi ý phòng chống ung thư của TS Việt được vinh danh tại Mỹ - Ảnh 3.
Hình 3: Khuyến cáo tầm soát ung thư của Trung tâm Ung thư MD Anderson dành cho nam với nguy cơ ung thư ở mức trung bình.
Đối với các trường hợp có nguy cơ cao, các bạn nên tham khảo ý kiến của các chuyên gia về ung thư để được tư vấn cách phòng ngừa, xét nghiệm phù hợp.
Một số link trên Internet với các hướng dẫn xét nghiệm và phòng ngừa ung thư:
http://kienthucgioitinh.org/tu-kham-vu-de-phat-hien-ung-thu-nguc-som-nhat.html
http://yhoccongdong.com/thongtin/cong-huong-tu-tuyen-vu/
http://yhoccongdong.com/thongtin/nhu-anh-va-mri-vu-nhung-dieu-can-biet/
http://ruybangtim.com/ung-thu-co-tu-cung-tam-soat/
http://ruybangtim.com/nen-hieu-the-nao-ve-vaccine-ngua-hpv-va-ung-thu-co-tu-cung/
http://ww5.komen.org/BreastCancer/BreastSelfExam.html
http://www.cancer.org/cancer/breastcancer/moreinformation/breastcancerearlydetection/breast-cancer-early-detection-acs-recs-bse?docSelected=breast-cancer-early-detection-acs-recs-clinical-breast-exam
http://www.webmd.com/breast-cancer/guide/breast-self-exam
http://www.cancer.org/cancer/cancerbasics/signs-and-symptoms-of-cancer
http://www.cancer.org/healthy/findcancerearly/cancerscreeningguidelines/
Việc tầm soát ung thư đặc biệt quan trọng khi nguy cơ ung thư cao (ví dụ như do tiền sử gia đình có người mắc ung thư, do tiếp xúc với tác nhân gây ung thư,...) hoặc khi cơ thể xuất hiện một số dấu hiệu cảnh báo ung thư như sau.
Các bạn lưu ý đây chỉ là các dấu hiệu cảnh báo chứ không có nghĩa là chúng ta bị mắc ung thư thư khi có các triệu chứng bên dưới. Khi có một trong các biểu hiện dưới đây lặp đi lặp lại nhiều lần và kéo dài mà không rõ nguyên nhân thì chúng ta nên đi tầm soát ung thư và khám bệnh kĩ càng.
11 gợi ý phòng chống ung thư của TS Việt được vinh danh tại Mỹ - Ảnh 5.
Hình 4: 12 dấu hiệu cảnh báo ung thư.
11 gợi ý phòng chống ung thư của TS Việt được vinh danh tại Mỹ - Ảnh 6.
Hình 5: Các dấu hiệu cảnh báo ung thư vú.
2. Không hút thuốc và tránh xa nơi có khói thuốc. Khói thuốc chứa rất nhiều độc tố gây ra nhiều loại ung thư, bao gồm ung thư phổi, ung thư não, ung thư bàng quang,.. Hút thuốc thụ động, hút thuốc lá điện tử, shisha cũng làm tăng đáng kể nguy cơ ung thư.
3. Tránh tiêu thụ các loại tương, tương đen, chao, đậu phụng, hắc xì dầu, nước tương, và thực phẩm bị nhiễm độc tố aflatoxin. Chỉ sử dụng các sản phẩm có chất lượng đảm bảo và đã được kiểm định hàm lượng độc tố aflatoxin.
Aflatoxin là một độc tố rất nguy hiểm làm tăng đáng kể nguy cơ ung thư gan. Không ăn các loại thực phẩm nhiễm khuẩn hoặc nấm mốc. Hạn chế ăn các loại dưa muối, dưa cải, củ cải muối. Tránh ăn các loại thức ăn quá mặn hoặc quá ngọt.
4. Tránh ăn các loại thức ăn bị cháy khét vì các loại thực phẩm cháy khét chứa rất nhiều độc tố gây ung thư, đặc biệt là các loại ung thư đường tiêu hoá (ung thư ruột, ung thư dạ dày,...).Hạn chế chiên, nướng, hạn chế sử dụng nhiệt độ quá cao trong quá trình chế biến thực phẩm. Hạn chế ăn các loại thịt đỏ như thịt bò, thịt heo, thịt cừu, thịt gia súc màu đỏ.
Nên ăn cá, tôm, hải sản, thức ăn chay, thực phẩm an toàn. Các thức ăn nóng, và có dầu mỡ không nên đựng trong các vật dụng có nguồn gốc từ nhựa, xốp, nylon. Thủy tinh, thép, sứ là các vật liệu an toàn đối với việc lưu trữ thực phẩm.
5. Hạn chế ăn các loại thịt chế biến sẵn, xúc xích, hot dog, paté gan, các thực phẩm có nhiều chất bảo quản, chất tạo hương, chất tạo mùi, phụ gia, hoặc phẩm màu độc hại.
6. Hạn chế tối đa việc sử dụng thức uống có cồn (rượu, bia, kể cả rượu thuốc cũng cần hạn chế hoặc tránh sử dụng nếu có thể). Việc tiêu thụ thường xuyên các loại thức uống có cồn sẽ tăng nguy cơ bị xơ gan, một tiền căn dễ dẫn đến bệnh ung thư gan.
7. Tập thể dục điều độ và nhẹ nhàng, sống nơi yên tĩnh, thoáng mát, thư giãn, ở nơi có nhiều cây xanh. Chú ý không để thừa cân, thiếu cân và phòng ngừa tiểu đường. Béo phì và tiểu đường làm tăng nguy cơ ung thư. Chế độ ăn uống đúng bữa, ăn vừa đủ no. Ngủ sớm và đủ 8 giờ mỗi ngày. Yoga, thiền tĩnh tâm, thư giãn, cầu nguyện, làm việc thiện nguyện rất tốt cho sức khỏe.
Nam giới nên tập thể dục ít nhất 40-45 phút mỗi ngày. Nữ nên tập thể dục thể thao ít nhất 35-40 phút mỗi ngày.
8. Sức khoẻ tinh thần rất quan trọng đối với việc phòng ngừa và điều trị ung thư. Khi chúng ta lạc quan, hạnh phúc, phấn chấn, vui vẻ thì hệ miễn dịch sẽ hoạt động hiệu quả và tiêu diệt ung thư tốt hơn. Ngược lại, khi chúng ta bi quan, buồn, chán đời thì hệ miễn dịch hoạt động yếu, cơ thể sản xuất ra các stress hormone làm kích thích ung thư phát triển.
9. Phòng tránh các tác nhân gây bệnh như virus HPV, HBV, HCV, HIV, vi khuẩn HP bởi vì các tác nhân này làm tăng đáng kể nguy cơ ung thư. Hiện nay đã có các loại vaccine phòng ngừa HPV, HBV (virus viêm gan siêu vi B).
Chúng ta nên tiêm chủng phòng ngừa các loại virus này. Đối với vi khuẩn HP, chúng ta nên tầm soát định kì và nếu bị nhiễm vi khuẩn HP thì chúng ta nên dùng kháng sinh đặc hiệu để điều trị theo chỉ định của bác sĩ.
10. Tăng cường sử dụng các loại rau xanh, hoa quả, thực phẩm an toàn, giúp giảm nguy cơ ung thư như nghệ, trà xanh, súp lơ xanh, súp lơ trắng, táo, lê, nho, cam, chanh, dầu ôliu,...
Nghệ có chứa nhiều curcumin và trà xanh có chứa nhiều EGCG. Theo các nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng giai đoạn ban đầu thì curcumin và EGCG là các hợp chất có hoạt tính kháng ung thư. Nhiều thử nghiệm lâm sàng và nghiên cứu đang được tiếp tục tiến hành để tăng hoạt tính và khảo sát chuyên sâu tiềm năng ứng dụng curcumin và EGCG trong điều trị và phòng ngừa ung thư.
Tuy nhiên việc sử dụng các chế phẩm, các chiết xuất curcumin, EGCG, thực phẩm chức năng,... cần có sự tư vấn của các chuyên gia y tế để tránh các tương tác thuốc và tránh các tác dụng phụ.
Các hoạt chất như curcumin, EGCG,... hiện nay vẫn chưa thay thế được việc điều trị ung thư bằng các phương pháp điều trị ung thư như hoá trị, xạ trị, phẫu thuật,...
Các hoạt chất như curcumin và EGCG và các biến thể liên quan đến curcumin và EGCG đang được tiếp tục nghiên cứu và tối ưu hoá nhằm ứng dụng trong điều trị ung thư nhưng các nghiên cứu này sẽ cần nhiều thời gian để hoàn tất.
11. Bảo vệ cơ thể khỏi các tác nhân gây ung thư. Hạn chế tác hại của tia tử ngoại (đặc biệt trong khoảng thời gian từ 10 giờ sáng đến 4 giờ chiều, lúc cường độ tia tử ngoại cao nhất trong ngày), khói bụi, các hoá chất độc hại, chất phóng xạ,...
Một số hoá chất sử dụng trong ngành công nghiệp thực phẩm, công nghiệp chăm sóc sắc đẹp, in ấn, da giày, thuốc nhuộm tóc, sơn móng tay, mực in, chất tạo màu... có chứa nhiều hoá chất tăng nguy cơ ung thư. Do đó, mình cần mang bao tay, khẩu trang, tăng cường thông thoáng khí, sử dụng các hệ thống lọc.
Sử dụng kem chống nắng, dùng mũ, dù che nắng khi tiếp xúc với tia tử ngoại. Hạn chế tiếp xúc và cần đeo khẩu trang, đồ bảo hộ chuyên dụng khi tiếp xúc với amiăng cũng như các loại vật liệu và sản phẩm có chứa amiăng (asbestos) vì amiăng là tác nhân gây ra nhiều loại ung thư như ung thư phổi, ung thư thực quản, ung thư trung biểu mô, ung thư buồng trứng,...
Sau đây là tóm tắt về các biện pháp chúng ta có thể áp dụng để giảm nguy cơ ung thư. Ung thư là căn bệnh nguy hiểm nhưng nếu chúng ta áp dụng đầy đủ các biện pháp phòng ngừa thì có thể phòng tránh 2/3 số ca ung thư.
11 gợi ý phòng chống ung thư của TS Việt được vinh danh tại Mỹ - Ảnh 7.
Hình 6: Những biện pháp giúp giảm nguy cơ ung thư
Các thông tin chi tiết hơn về các biện pháp phòng ngừa ung thư, các loại thực phẩm giúp giảm nguy cơ ung thư,... được upload tại link sau:
http://www.slideshare.net/LiemMinhPhan/nhng-bin-php-gip-gim-nguy-c-ung-th
Các lời khuyên giúp giảm nguy cơ ung thư được cập nhật với sự tư vấn, góp ý, và hỗ trợ của GS. TS. Mong-Hong Lee, GS. TS. Sai-Ching Yeung (Trung tâm Ung thư MD Anderson), bạn Nguyễn Cao Luân (tổ chức Ruy Băng Tím) và rất nhiều bạn đọc. Tác giả xin chân thành cảm ơn và xin tri ân quí cơ quan báo chí truyền thông đã giúp chuyển tải những thông tin hữu ích này đến với bạn đọc.
theo Trí Thức Trẻ