Ngày
26/3/1984, trong khi Quân tình nguyện Việt Nam cùng lực lượng vũ trang
cách mạng Campuchia bắt đầu đợt hoạt động lớn truy quét tàn quân
Khmer Đỏ thì ở khu vực biên giới Việt-Trung, Trung Quốc cũng ráo riết
chuẩn bị cho chiến dịch tiến công lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam.
Trên tuyến biên
giới thuộc tỉnh Hà Tuyên (nay là Hà Giang), Trung Quốc tập trung 4 sư
đoàn bộ binh và 1 sư đoàn pháo binh của Đại quân khu Côn Minh trên thê
đội một, áp sát hướng Vị Xuyên-Yên Minh.
Từ 2/4 đến
27/4/1984, Trung Quốc tiến hành một đợt bắn phá lớn trên toàn tuyến 6
tỉnh biên giới với trên 28.000 viên đạn pháo. Riêng Hà Giang phải chịu
hơn 11.000 viên đạn pháo, ngay cả thị xã Hà Giang nằm sâu trong nội
địa 18 km cũng bị bắn phá.
5 giờ sáng
28/4/1984, trên hướng Vị Xuyên quân Trung Quốc được 12.000 viên đạn pháo
chi viện tấn công vào các trận địa phòng ngự của ta ở phía tây sông
Lô. Do tương quan lực lượng chênh lệch, đến hết ngày 30/4/1984, Trung
Quốc chiếm được các điểm tựa 1509, 772, 685, bình độ 300-400, 226, 233.
Trung đoàn 122
Sư đoàn 313 của ta bị tổn thất, phải lùi xuống các vị trí thấp hơn
để tiếp tục chiến đấu. Ngày 30/4/1985, trên hướng Yên Minh, quân Trung
Quốc đánh chiếm điểm tựa 1250 (Nú iBạc) do Tiểu đoàn 3 huyện Yên Minh
bảo vệ.
Tướng Lê Duy Mật, Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên,
Nguyên Phó Tư lệnh QK 2 và P.V.Đ
( Ảnh chụp tháng 9/2015; ông qua đời 10/2015)
Ngày 15/5/1984,
trên hướng Vị Xuyên quân Trung Quốc tiếp tục mở một đợt tấn công ở
phía đông sông Lô, chiếm khu vực Pa Hán, điểm tựa 1030 do Trung đoàn 266
Sư đoàn 313 bảo vệ.
Như vậy, từ
28/4 đến 16/5/1984, Trung Quốc đã lần lượt đánh chiếm và tổ chức
chốt giữ phòng ngự, chiếm đóng trái phép nhiều vị trí trên lãnh
thổ Việt Nam, bao gồm khu vực 1509, 772, 685, 233, 226 (Trung Quốc gọi
là Lão Sơn), 1030 (Trung Quốc gọi là Đông Sơn) thuộc huyện Vị Xuyên và
1250 (Trung Quốc gọi là Giả Âm Sơn) thuộc huyện Yên Minh.
Trên hướng Vị
Xuyên, đối phương bố trí 1 sư đoàn trên tuyến một, 2 sư đoàn phía sau;
hướng Yên Minh 1 trung đoàn phía trước, 2 trung đoàn phía sau. Trước
tình hình trên, ngày 20-5-1984, Bộ tư lệnh Quân khu 2 của ta quyết định
nhanh chóng xây dựng trận địa, củng cố lại các đơn vị, kiên quyết
chiến đấu ngăn chặn địch đồng thời từng bước tổ chức đánh lấy lại
các điểm cao bị chiếm đóng.
Ngày 11/6/1984,
quân ta tổ chức đánh địch ở 233 và 685 nhưng chưa giành lại được các
vị trí này.Tháng 6/1984, Quân khu 2 được giao nhiệm vụ tiến hành tiêu
diệt một số vị trí bị chiếm đóng, tiến tới khôi phục các điểm tựa
ở Vị Xuyên và Yên Minh. Bộ tư lệnh mặt trận quyết định sử dụng 3
trung đoàn bộ binh trong các đơn vị mới lên tăng cường, được sự chi
viện của đặc công và pháo binh tham gia chiến đấu trong chiến dịch
mang tên MB84.
Ở phía đông sông Lô, Trung đoàn 876 Sư
đoàn 356 đảm nhiệm tiến công cao điểm tựa 772 và Trung đoàn 149 của sư
356 tấn công cao điểm 685; Ngoài ra trung đoàn 153 của 356 tham gia làm nhiệm vụ
vận tải. Trung đoàn 174 Sư đoàn 316 tiến công cao điểm 300-400. Ở phía tây
Trung đoàn 141 Sư đoàn 312 tiến công cao điểm 1030.
Rạng sáng
12/7/1984, trên cả ba hướng các đơn vị đồng loạt nổ súng tiến công.
Tuy nhiên “do công tác chuẩn bị chưa chu đáo, nắm tình hình và đánh giá đối
phương chưa đúng, quyết tâm và cách đánh chưa phù hợp, biểu hiện sự nóng vội
trong chỉ đạo, chỉ huy” nên trận chiến đấu không thành công. Cả ba trung đoàn đều bị tổn thất
lớn, hàng trăm cán bộ chiến sĩ anh dũng hy sinh, có cả cán bộ tiểu
đoàn, trung đoàn. Chiều 12/7/1984, Bộ tư lệnh mặt trận phải cho các
đơn vị chuyển sang phòng ngự.
Rút kinh nghiệm
MB 84, Quân khu 2 quyết định dùng Sư đoàn 313 và 356 mở chiến dịch vây
lấn nhằm giành lại điểm cao 685 và 300-400. Với cách đánh mới “sử dụng
bộ binh, kết hợp đặc công, có hoả lực pháo binh chi viện mạnh, từng bước bao
vây, chia cắt lấn sát”, gọi là “lẫn dũi”... Lần này các đơn vị có 4
tháng để chuẩn bị.
Ngày 18/11/1984,
pháo binh ta bắt đầu bắn phá hoại vào các điểm tựa bị chiếm đóng
ở 685 và 300-400. Sau 5 ngày đêm, Trung đoàn 14 Sư đoàn 313 bắt đầu tổ
chức đánh lấn 300-400, Trung đoàn 153 Sư đoàn 356 được tăng cường một
tiểu đoàn đặc công tiến hành vây lấn 685.
Sau hai tháng liên tục chiến đấu (từ
tháng 11/1984 đến tháng 1/1985), mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, các
đơn vị của ta đã chiếm lại một số chốt, hình thành thế phòng ngự
xen kẽ, bám sát, ngăn chặn địch ở đồi Chuối, đồi Cô X., đồi Đài,
A4, A21, khu Cót Ép, khu C và một phần khu E của điểm cao 685, có những
nơi chỉ cách địch 15-20 m, cá biệt có nơi 6-8 m(chốt Bốn hầm). Ở đây cuộc chiến đấu giành giật
từng thước đất, từng mỏm đá đã diễn ra rất quyết liệt. Các chốt ở
Bốn hầm, đồi Cô X. hay điểm tựa 685 hai bên liên tục thay nhau phản
kích, giành đi giật lại tới 30-40 lần.
Từ ngày 27/5 đến 30-5/1985, sau khi thay quân, Trung Quốc mở một đợt tiến công lớn vào các điểm tựa của ta ở đồi Đài, đồi Cô IX., bình độ 1100 ở phía tây sông Lô nhưng bị ta đẩy lui. Ngay sau đó, ngày 31/5/1985 quân ta tổ chức đánh chiếm và chốt giữ lại điểm tựa A6B, sau đó đánh bại 21 đợt phản kích của địch trong 13 ngày, giữ vững vị trí này cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Từ ngày 27/5 đến 30-5/1985, sau khi thay quân, Trung Quốc mở một đợt tiến công lớn vào các điểm tựa của ta ở đồi Đài, đồi Cô IX., bình độ 1100 ở phía tây sông Lô nhưng bị ta đẩy lui. Ngay sau đó, ngày 31/5/1985 quân ta tổ chức đánh chiếm và chốt giữ lại điểm tựa A6B, sau đó đánh bại 21 đợt phản kích của địch trong 13 ngày, giữ vững vị trí này cho đến khi chiến tranh kết thúc.
Từ ngày 23 đến
25/9/1985, Trung Quốc mở một đợt tấn công vào các điểm tựa của ta từ đồi
Tròn, lũng 840, Pa Hán (đông sông Lô) đến đồi Cô X., bình độ 1100 (tây sông
Lô). Trừ Pa Hán bị chiếm và ta phản kích lấy lại sau 1 ngày, các
trận địa khác đều được giữ vững.
Trong tháng 10
và tháng 11/1986, sau khi thay quân, phía Trung Quốc mở thêm nhiều đợt
tiến công lấn chiếm nhằm đẩy quân ta khỏi khu vực bờ bắc suối Thanh
Thủy nhưng đều thất bại.
Từ ngày 5 đến
7/1/1987, Trung Quốc sử dụng lực lượng cấp sư đoàn được pháo binh chi
viện mở chiến dịch nhằm vào 13 điểm tựa của ta ở cả đông và tây sông
Lô mà mục tiêu chủ yếu là đồi Đài và đồi Cô X. Mặc dù đối phương bắn tới
trên 100.000 quả đạn pháo trong 3 ngày để chi viện bộ binh liên tục
tiến công, (có ngày tới 7 lần) nhưng đều bị bộ binh và pháo binh ta
ngăn chặn ngay trước trận địa.
Từ sau thất bại này, phía Trung Quốc giảm dần các hoạt động tấn công lấn chiếm. Từ cuối tháng 12/1988, Trung Quốc bắt đầu ngừng bắn phá và từ tháng 3 đến tháng 9/1989 lần lượt rút quân khỏi các vị trí chiếm đóng còn lại trên lãnh thổ Việt Nam.
Theo tổng kết, trong 5 năm chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên mặt trận Vị Xuyên-Yên Minh, các lực lượng vũ trang Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn quân địch, phá hủy 200 khẩu pháo cối, 170 xe vận tải và nhiều kho tàng, trận địa… bắt sống 325 tù binh (bắt 6 tên trong chiến đấu và 319 tên thám báo, trinh sát đột nhập), thu nhiều vũ khí, trang bị…
Từ sau thất bại này, phía Trung Quốc giảm dần các hoạt động tấn công lấn chiếm. Từ cuối tháng 12/1988, Trung Quốc bắt đầu ngừng bắn phá và từ tháng 3 đến tháng 9/1989 lần lượt rút quân khỏi các vị trí chiếm đóng còn lại trên lãnh thổ Việt Nam.
Theo tổng kết, trong 5 năm chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trên mặt trận Vị Xuyên-Yên Minh, các lực lượng vũ trang Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu hàng ngàn quân địch, phá hủy 200 khẩu pháo cối, 170 xe vận tải và nhiều kho tàng, trận địa… bắt sống 325 tù binh (bắt 6 tên trong chiến đấu và 319 tên thám báo, trinh sát đột nhập), thu nhiều vũ khí, trang bị…
( Nguồn: Quân sử Việt Nam)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét