Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử cho rằng trong cuộc chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất, Trần Quốc Tuấn chỉ là một tướng trẻ, chưa thể trực tiếp cầm quân chỉ huy, và những người có công lớn nhất chình là tướng Lê Tần và Thái sư Trần Thủ Độ. Tuy nhiên, những ghi chép trong cuốn “Đông A di sự” lại cho thấy một việc hoàn toàn khác. Cuốn sách này không chỉ hé lộ về nội tình của nhà Trần mà còn trả lại năm sinh cho Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, điều từng gây tranh cãi trong giới những người yêu thích tử vi ở Việt Nam.
Tiếp nối kỳ 1, chúng ta đã biết được nội tình của nhà Trần trước cuộc chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất. Theo đó, thái sư Trần Thủ Độ nắm gần như toàn bộ quyền lực trong tay, nhưng vì để có được đội quân tinh nhuệ nhất của đất nước thời bấy giờ, vua Trần Thái Tông chỉ định Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trở thành Tiết chế tổng chỉ huy quân đội. Tuy nhiên, thực quyền lại không được trao vào tay Trần Quốc Tuấn, đây là điều chính sử có ghi nhận. Nhưng trong cuốn “Đông A di sự” mà chúng ta đã nhắc tới ở kỳ trước, những sự việc sau đó lại không hề được chính sử nhắc tới…
Nguy cơ cận kề
Năm 1257, tin tức về đại quân Mông Cổ đang chuẩn bị các bước tiến đánh Đại Việt dồn dập báo về, cả nước đang chuẩn bị chống lại đội quân hiếu chiến nhất lịch sử. Nhưng trong triều đình, chức Tiết chế vẫn chưa có ai nắm, Trần Quốc Tuấn dù được chỉ định nhưng nhà vua do dự chưa ban chiếu chỉ. Trong Hoàng thân nhiều người còn nghi ngại Trần Quốc Tuấn có thể theo lời trăn trối của cha mà nổi cuộc binh biến cướp ngôi.
Tháng 8 năm 1257, thủ lĩnh đạo dân binh, trấn thủ biên giới là Hà Khuất khẩn cấp báo tin tướng Mông Cổ là Ngột Lương Hơp Thai dàn đại quân ở biên giới, uy hiếp, đe dọa, sai sứ giả đến chiêu hàng.
Trong cuộc thiết triều, tướng quân Lê Tần dẫn đầu một số tướng lĩnh muốn Trần Quốc Tuấn lĩnh ấn Tiết chế, nhưng một số Hoàng thân bị ám ảnh bởi lời di chúc thì muốn Thái sư Trần Thủ Độ lĩnh ấn tiết chế. Vua Trần Thái Tông hiểu rằng nếu để Trần Thủ Độ hay bất kỳ ai khác lĩnh ấn Tiết chế thì chỉ có thể điều được quân triều đình, còn lực lượng Ngũ Yên hữu dụng và tinh nhuệ bậc nhất thì không thể nắm trọn. Hơn nữa, dưới áp lực của thái sư Trần Thủ Độ, vua chưa biết phải giải quyết ra sao.
Lá số thánh nhân
Cuốn “Đông A di sự” có ghi chép, bấy giờ Huệ Túc Phu Nhân mở lời nói rằng có thể xem lá số tử vi cho Trần Quốc Tuấn.
Đến đây cần nói rõ một điều, trong chính sử không ghi chép ngày sinh của Trần Quốc Tuấn. Nhà tử vi lừng danh là cụ Thiên Lương dựa vào các dữ kiện để đoán ngày sinh của Trần Quốc Tuấn là giờ Ngọ ngày 30 tháng Chạp năm Mậu Tý (1228) khiến nhiều người mến mộ tử vi tin theo. Tuy nhiên cuốn “Đông A di sự” – cuốn sách của người triều Trần viết ra – đã ghi chép rằng vua Trần Thái Tông nói, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn sinh giờ Mùi, ngày 1 tháng 5 năm Nhâm Thìn (1232).
Trước đây mỗi khi xem tử vi cho ai, Huệ Túc Phu Nhân chỉ cần bấm ngón tay là nói rõ số mệnh rồi. Nhưng lần này liên quan đến vận mệnh giang sơn xã tắc nên Huệ Túc Phu Nhân rất cẩn thận cầm bút chấm lá số rất chi tiết.
Rồi Huệ Túc Phu Nhân nói với vua rằng:
Tuổi Nhâm Thìn thuộc mệnh thủy, cung mệnh lại nằm ở Hợi cũng là hành thủy, nơi lập mệnh là nơi chỗ đứng con người, cùng là hành thủy nên cuộc đời lúc nào cũng được thuận tiện.
Cục là bước đi dài ngắn khác nhau, lá số này thuộc kim cục, mà kim sinh thủy, nên cục sinh mệnh lại đồng thời cũng sinh ra hành của cung mệnh, thì từ bản chất, tới chỗ đứng, được bước đi sinh ra. Như vậy không bao giờ thất bại, cũng không bao giờ chết bất đắc kỳ tử. Nếu trao bình quyền cho người này thì chỉ có thắng hoặc hòa chứ không bao giờ bại.
Lời của Huệ Túc Phu Nhân khiến nhà vua thở dài nhẹ nhõm, trút bớt được gánh nặng. Huệ Túc Phu Nhân nói tiếp:
Tử vi, Thất sát thủ mệnh, được Hóa quyền, Văn khúc, Trường sinh phù tá thì đây là số của một bậc tể thần, làm lên sự nghiệp vang lừng khắp hoàn vũ, muôn dân trông chờ, nghìn vạn năm sau còn tôn kính. Nói khác đi, mệnh của vương là mệnh của bậc thánh nhân. Như vậy thì bệ hạ còn trì nghi gì nữa mà không ban chỉ trao quyền Tiết chế cho vương, để vương kịp thời chuẩn bị phá giặc.
Thấy nhà vua vẫn chưa hết lo lắng, Huệ Túc Phu Nhân nói tiếp điểm then chốt:
Bệ hạ sợ trao binh quyền cho vương, rồi vương cướp ngôi vua ư? Nhất định không có. Nếu như vương cướp ngôi, thì muôn nghìn năm sau, sử xanh còn chép vương là một gian thần tặc tử. Trong khi số của vương là số đại anh hùng, đại thánh nhân… Thì nhất định không có việc vương cướp ngôi rồi.
Vì sao thái sư Trần Thủ Độ đành chịu?
Ít ai biết rằng, trước buổi thiết triều một ngày, Huệ Túc Phu Nhân đã trao một tờ “hoa tiên” cho Trần Thủ Độ rồi nói rằng: “Tôi mới làm một bài thơ mừng tuổi thọ của Thượng phụ. Rất mong Thượng phụ thu nhận.”
Trần Thủ Độ nhận “hoa tiên”, khi rời khỏi hoàng thành mới mở ra đọc, trong đó viết: “Trước thượng phụ thua cuộc, có hứa làm theo tôi ba việc. Việc thứ nhất là cho gia đình tôi kiều ngụ ở Đại Việt. Bây giờ tôi xin yêu cầu điều thứ nhì, mong thượng phụ thực hiện. Đó là: Mai này hoàng thượng chỉ định ai lĩnh chức Tiết chế thống quốc binh sự, xin thái sư đừng cản trở”. (Xem phần Câu chuyện đánh cuộc tử vi nổi tiếng nhà Trần, bài Người phụ nữ giúp Trần Quốc Tuấn giữ chức “Quốc Công Tiết Chế” đánh bại quân Nguyên Mông)
Vào buổi thiết triều, Thái sư Trần Thủ Độ hiến kế là nên dàn quân chuẩn bị trước, rồi cho gọt tóc sứ giả nhằm hạ nhục Mông Cổ. Ngột Lương Hợp Thai bị hạ nhục như thế sẽ uất lên mà đem quân đánh gấp. Phàm khi ra quân mà tướng cáu giận dễ ra các quyết định lầm lẫn mà bị đánh bại.
Tướng quân Lê Tần nhắc lại ý cần phải cử một vị là Tiết chế quân mã, nhiều người tán thành.
Vua Trần Thái Tông nhìn mọi người một lượt rồi nói: “Suốt mấy ngày qua, trẫm đã suy nghĩ kỹ. Lại xét số Tử vi, khấn các vị tiên hiền Đại Việt phù hộ. Nay trẫm quyết định.”
Gần hai trăm người thiết triều ai cũng hồi hộp, không một tiếng động, nhà vua bước đến bên trao thanh bảo kiếm cho Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, rồi tuyên bố:
Kể từ lúc này, Hưng Đạo vương là Tiết chế toàn bộ binh mã Đại Việt. Khi mang thanh kiếm này thì vương là trẫm. Mọi mệnh lệnh vương ban ra là lệnh của trẫm.
Nhiều người nhẹ nhõm hân hoan. Trần Thủ Độ cùng một số Hoàng thân cau mặt, nhưng cũng không biết phải làm sao vì Huệ Túc Phu Nhân đã dặn trước Trần Thủ Độ phải thực hiện lời hứa thứ hai, là khi hoàng thượng tuyên bố ai giữ chức Tiết chế thì không được cản trở.
Nhớ lại lúc Huệ Túc Phu Nhân đánh cuộc tử vi với mình, Trần Thủ Độ cũng hiểu bà là người tài giỏi, lại nói được cả những uẩn khúc cá nhân của cuộc đời mình, nên Trần Thủ Độ cũng an tâm, cho rằng Huệ Túc Phu Nhân sẽ không nhầm lẫn (Xem bài: Lý giải tường tận con người Trần Thủ Độ qua xuất thân và lá số tử vi). Hơn nữa, việc đề phòng binh biến nếu Trần Hưng Đạo thực hiện di chúc của cha thì Trần Thủ Độ cũng có chuẩn bị.
Tiết chế đưa ra kế sách chống giặc
Hôm sau, tại buổi nghị triều tại điện Uy Viễn diễn ra vào tháng 8 năm 1257 (âm lịch), các tướng cùng bàn kế chống quân Mông Cổ, mọi người đều mong ngóng Tiết chế đưa ra kế sách. Hưng Đạo Vương năm ấy mới 25 tuổi, hướng vào triều thần nêu cách chống giặc của mình:
Phàm ra quân, phải sử dụng ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. May mắn thay nhân hòa ta đã đạt được từ lâu rồi. Hiện cả nước đang chờ phá giặc.
Thứ nhì là thiên thời. Nếu bây giờ ta sai cắt mũi 3 tên bồi sứ họ Trịnh, rồi thả về (tức đây là cách hạ nhục Sứ giả Mông Cổ) như thái sư bàn hôm trước, dĩ nhiên ta chọc cho Ngột Lương Hợp Thai nổi giận, đến mất bình tĩnh. Y sẽ xua quân tràn vào đánh ta trong tháng 9. Thế nhưng, khí hậu tháng 9 đến tháng Chạp là mùa lạnh. Thiên thời đối với quân ta thực bất lợi. Vì quân ta chịu lạnh dở. Ngược lại, khí hậu này lợi cho quân Mông Cổ, vì chúng sống ở vùng thảo nguyên, khí hậu lạnh cắt da, xé thịt. Khí hậu của ta đối với chúng là khí hậu mát mẻ, người ngựa của chúng sẽ cảm thấy dễ chịu.
Triều thần nghe đến đây ai cũng thấy điều này rất hợp lý, kể cả vua Trần Thái Tông và thái sư Trần Thủ Độ. Trần Hưng Đạo tiếp lời:
Vậy ta cứ giữ bí mật việc tống giam sứ, để Ngột Lương Hợp Thai mỏi mắt chờ. Hết tháng 9 không thấy sứ về, y lại sai sứ sang nữa. Ta cũng bắt giam. Sang tháng 10 không thấy sứ về, y có thể sai sứ sang nữa. Ta lại bắt giam. Như vậy y có xuất quân cũng phải sang cuối tháng Chạp. Ta chỉ cần cầm cự vài tháng, khí hậu trở thành ấm áp với ta, trở thành ôn nhiệt với Mông Cổ. Thế là ta đạt được thiên thời.
Về địa lợi. Ưu điểm của giặc là kỵ binh xung trận, là phá thành. Vậy ta không thủ thành, cũng chẳng dàn quân. Ta cần dụ cho giặc vào sâu trong nước. Trước hết, triều đình cần rời khỏi Thăng Long, ẩn vào sống với dân. Mỗi bộ ẩn vào một thôn xã khác nhau, luôn di chuyển, để giặc không biết tung tích. Ta dùng chim ưng liên lạc với nhau. Gia đình các đại thần, các võ tướng, ai ở đâu, thì đưa về quê mình sống với dân chúng. Như thế các quan yên tâm phá giặc, không phải vướng vít thê nhi.
Đến đây các triều thần đều đồng tình với kế sách của Hưng Đạo Vương, kể cả những ai trước đây vốn không đồng tình để ông giữ chức Tiết chế.
Thế nhưng nhằm đề phòng Hưng Đạo Vương có thể tạo biến theo di chúc của cha, thái sư Trần Thủ Độ tìm cách chỉ để cho Hưng Đạo Vương tiết chế ba quân chống giặc, thực hiện theo đúng kế sách của ông, nhưng lại ngăn không cho Hưng Đạo Vương trực tiếp chỉ huy quân xung trận.
Vì thế trong cuộc chiến chống Mông Cổ lần thứ nhất, Hưng Đạo Vương đề ra toàn bộ kế sách chống giặc, trao binh phù cắt cử các tướng đi trấn giữ các nơi, nhưng bản thân ông lại không trực tiếp chỉ huy cánh quân nào cả.
Diệu toán
Những diễn biến trong cuộc chiến chống Mông Cổ lần thứ nhất cũng cho thấy, mọi việc đều theo đúng kế hoạch của Hưng Đạo Vương.
Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” dẫn tham khảo từ sách “Nguyên sử loại biên” và sách “Cương mục tục biên” của Trung Quốc chép rằng:
Năm 1257, Ngột Lương Hợp Thai đã bình được nước Đại Lý, kéo quân sang nước ta, ba lần sai sứ đến dụ nhà vua đầu hàng, đều không thấy sứ thần trở về, bấy giờ mới chia đường tiến quân, nhân thế thắng, kéo vào đô thành nước ta, khi vào, thấy ba người sứ sai sang trước còn bị giam ở trong ngục.
Các nghiên cứ cũng cho rằng sứ giả quân Mông Cổ hống hách ngang tàng nên bị vua Trần bắt giam lại, thể hiện nhà Trần không sợ Mông Cổ mà sẵn sàng chuẩn bị cuộc chiến giữ nước. Nhưng thực ra đó không phải là hành động nhất thời mà toàn bộ đều nằm trong kế hoạch tính toán cẩn thận trước đó của Hưng Đạo Vương để đạt được thiên thời.
Khi quân Mông Cổ tiến sang, quân nhà Trần tập trung đông ở Bình Lệ Nguyên (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc) chặn giặc, quân nhà Trần có vua Trần Thái Tông cùng tướng quân Lê Tần chỉ huy. Việc tập trung quân tại Bình Lệ Nguyên là theo kế hoạch của Hưng Đạo Vương, theo kế hoạch này quân Đại Việt sẽ đánh một trận nhằm tiêu hao bớt sinh lực và nhuệ khí quân Mông Cổ rồi rút lui nhằm dụ quân Mông Cổ tiến sâu.
Tuy nhiên vua Trần Thái Tông cùng toàn quân rất hăng hái đánh đến cùng, dù ưu thế đang nghiêng dần về phía quân Mông Cổ. Tướng quân Lê Tần có công lớn hộ giá nhà vua, đồng thời nhắc nhở nhà vua cần lên thuyền rút đi:“Nếu bây giờ bệ hạ làm như thế, thì chỉ như người dốc hết túi tiền để đánh nốt tiếng bạc mà thôi. Tôi tưởng hãy nên lánh đi, không nên khinh thường mà nghe người ta được.” (theo Cương Mục)
Thực chất, việc tránh thế giặc mạnh, tạm thời rút đi đợi sau này phản công chính là tiếp tục kế sách của Hưng Đạo Vương để đạt được địa lợi. Tướng Lê Tần chỉ là nhắc nhở vua về kế sách của Hưng Đạo Vương. Chính nhờ công lao này mà sau chiến thắng, Lê Tần được đổi tên thành Lê Phụ Trần – tức họ Lê mà có công với nhà Trần.
Sự trung thành của đội quân Ngũ Yên
Quân Mông Cổ đuổi theo vua Trần và chạm trán với quân Ngũ Yên ở Phù Lỗ. Nơi đây Trần Tử Đức cùng vợ là Bùi Thiệu Hoa và em gái là Trần Ý Ninh chỉ huy quân Ngũ Yên chặn quân Mông Cổ tiến vào thành Thăng Long, để cho quân chủ lực và dân chúng trong kinh thành có thời gian di tản.
Sốt ruột vì lo vua Trần chạy thoát, Ngột Lương Hợp Thai dốc toàn quân tấn công, nhưng đội quân Ngũ Yên vẫn vững vàng đẩy lui quân Mông Cổ. Đội quân từng tung hoàng ngang dọc từ Á sang Âu, gây kinh hoàng khắp nơi, nhưng bị bất lực hoàn toàn trước quân Ngũ Yên.
Sau hơn 10 ngày chặn được giặc, Trần Tử Đức cho vợ cùng em gái đem theo đa phần quân sĩ rút, còn mình thì ở lại chặn giặc. Nhận thấy quân Mông Cổ đã tràn ngập khắp cả chiến lũy, ông đã tuẫn quốc khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Phu nhân Bùi Thiệu Hoa sau khi rút lui thì được tin chồng đã tuẫn quốc thì đã làm lế tế chồng, rồi tự tử chết theo phu quân (Xem bài: Sinh vi tướng, tử vi thần: Lời tiên đoán về những vị anh hùng chống quân Mông Cổ lần thứ nhất).
Thánh nhân bất bại
Trong cuộc chiến chống quân Mông Cổ lần thứ nhất, quân Đại Việt đều thực hiện theo đúng kế hoạch của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Có thể nói rằng người có công lao lớn nhất giúp Đại Việt đánh tan đội quân mạnh nhất thế giới bấy giờ chính là Trần Quốc Tuấn.
Năm 1264, thái sư Trần Thủ Độ qua đời. Năm 1283 quân Mông Cổ đe dọa lần thứ 2 tiến đánh Đại Việt. Lúc này sự trung thành của Hưng Đạo Vương cùng đội quân Ngũ Yên với giang sơn xã tắc và triều đình đã khiến mọi người đều tin tưởng. Thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông phong Hưng Đạo Vương làm Quốc công tiết chế thống lĩnh quân đội cả nước.
Trong cuộc chiến chống quân Mông Cổ lần thứ 2 năm 1285 và lần thứ 3 (năm 1287-1288), mỗi lần Mông Cổ đều đưa 50 vạn quân sang. Như vậy trong 3 năm, Đại Việt phải đối mặt với 100 vạn đội quân tinh huệ và hiếu chiến nhất thế giới lúc bấy giờ.
Hưng Đạo Vương nhiều lần nghe nhắc nhở về lời trăn trối của cha khi xưa, nhưng ông bỏ ngoài tai hết. Trong hoàn cảnh đất nước rơi vào cảnh ngàn cân treo sợi tóc, ông luôn đặt giang sơn và dân tộc lên trên hết, lần lượt đánh tan đội quân Mông Cổ hùng mạnh.
Đúng như lời Huệ Túc Phu Nhân nói khi chấm lá số của ông:
“Đây là số của một bậc tể thần, làm lên sự nghiệp vang lừng khắp hoàn vũ, muôn dân trông chờ, nghìn vạn năm sau còn tôn kính. Nói khác đi, mệnh của vương là mệnh của bậc thánh nhân.”
Và bậc thánh nhân bất bại ấy chính là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.
(Hết)
Trần Hưng
Xem thêm:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét