Lê Khắc Ái
(Nguồn: John Lukacs, “Monster Together,” The New York Review of Books, 4/2015)
•
Trong kho văn liệu khổng lồ về Stalin và Hitler trong suốt thời Thế chiến II,
có rất ít điều được nói về mối quan hệ đồng minh của họ trong 22 tháng. Đó
không chỉ là một chương lạ thường trong lịch sử cuộc chiến, mà ý nghĩa của nó
xứng đáng nhận được nhiều sự chú ý hơn lâu nay.
Có
hai yếu tố liên quan đến sự thờ ơ này. Một là sau khi Hitler quyết định xâm
chiếm Nga mà thực hiện không thành, Stalin nổi lên như một trong những kẻ chiến
thắng uy quyền của Thế chiến II. Yếu tố còn lại là việc các Thế lực phương Tây
không mấy lưu tâm đến Đông Âu. Tuy vậy cuộc chiến nổ ra vào năm 1939 lại là do
Đông Âu, kết quả của quyết định của người Anh (và Pháp) trong việc chống lại
việc Đức chinh phục Ba Lan. Cơn địa chấn chính trị của Hiệp ước Xô-Đức vào ngày
23 tháng 8 năm 1939, chín ngày trước khi nổ ra cuộc chiến vào ngày 1 tháng 9,
đã không ngăn được Anh và Pháp tuyên bố chiến tranh chống lại Đức vì đã xâm
lược Ba Lan. Đây là một trong số ít – rất ít – những quyết định có ích cho họ
vào thời điểm đó. Việc họ miễn cưỡng không muốn tiến hành nghiêm túc cuộc chiến
chống Đức trong nhiều tháng tiếp theo lại là một câu chuyện khác.
Ba
phần tư thế kỷ đã trôi qua kể từ năm 1939. Khá nhiều điều được viết về Hiệp ước
Xô-Đức kể từ lúc ấy, phần lớn là của các cây bút và sử gia Đông Âu. The Devil’s
Alliance (Liên minh của quỷ) là bản tường trình tốt của sử gia người Anh Roger
Moorhouse về việc hiệp ước có ý nghĩa gì đối với Hitler và Stalin – và tệ hơn
là đối với nạn nhân của hiệp ước đó. Có lẽ phần giá trị nhất của cuốn sách là
phần nói về những hậu quả tức thời của hiệp ước năm 1939. Trước đó, Chủ nghĩa
Quốc xã và Chủ nghĩa cộng sản đã là kẻ thù công khai của nhau một cách hiển
nhiên và dữ dội. Từ những ngày thăng tiến chính trị đầu tiên của mình, Hitler
đã mô tả Do Thái giáo và Chủ nghĩa cộng sản là hai kẻ thủ chính yếu của mình.
Vào thời điểm đó, Stalin không hẳn là một kẻ theo ý thức hệ. Cũng như Hitler,
Stalin là một người theo chủ nghĩa dân tộc; ông gần như không lưu tâm đến chủ
nghĩa cộng sản quốc tế.
Tháng
5 năm 1939, Hitler nhận ra rằng trong cuộc chiến của người Đức với phương Tây,
Nga có thể đứng trung lập. Nhưng việc thực hiện điều đó không đơn giản; Nga
phải có gì đó đổi lại. Trong suốt mùa hè năm đó, nhóm đại biểu Anh-Pháp đã tìm
kiếm một dạng thoả thuận quân sự với Nga và chuyện không đi được tới đâu. Có
một số viên chức và nhà ngoại giao cao cấp của Đức, đứng đầu trong số đó là Bộ
trưởng Ngoại giao Joachim von Ribbentrop của Hitler, có khuynh hướng thiên hẳn
về thỏa thuận Đức-Nga. Trong lúc đó, tại Moskva, Stalin đã bắt đầu có động
thái: đầu tháng 5, ông sa thải Bộ trưởng Ngoại giao người Do Thái của mình,
Maxim Litvinov, và thay thế bằng Vyacheslav Molotov (người giữ chức Bộ trưởng
Ngoại giao trong suốt cuộc chiến và một thời gian dài sau đó). Hitler hiểu điều
đó có nghĩa là gì. Vào tháng 8, Ribbentrop bay đến Moskva để ký Hiệp ước Bất
tương xâm giữa Liên Xô và Đức; bức ảnh Ribbentrop với cây bút trong tay cho
thấy ở hậu cảnh Stalin mãn nguyện thấy rõ. Hitler hi vọng sự kiện gần như tuyệt
diệu này có thể ngăn người Anh và người Pháp can dự vào cuộc chiến giành Ba Lan
với ông. Điều đó đã không xảy ra, mặc dù Stalin không thất vọng vì điều đó.
# Nghị định thư Bí mật
phân chia Đông Âu giữa Đức và Liên Xô
Điều
quan trọng hơn Hiệp ước Bất tương xâm là phần phụ lục của hiệp ước, một Nghị
định thư Bí mật, vốn yêu cầu không gì khác hơn là phân chia Đông Âu, đặc biệt
là Ba Lan, với một phần nước này sẽ bị Liên Xô thâu tóm. Ngoài ra, Đức công
nhận “khu vực lợi ích” (“sphere of interest”) của Nga tại Estonia, Latvia, Phần
Lan, một phần Litva và tỉnh Bessarabia ở Romania. Moskva phủ nhận chính sự tồn
tại của Nghị định thư Bí mật này trong suốt thời gian dài, ngay cả khi Thế
chiến II kết thúc đã lâu. Nhưng sự kiện đó vẫn tồn tại trong văn khố của Đức;
và vào năm 1939 nó đã trở thành một hiện thực u ám và dễ sợ. Tận đến năm 1986,
Molotov già nua (lúc đó đã hơn 90) vẫn phủ nhận chính sự tồn tại của sự kiện
này trước một phóng viên Nga. Trên thực tế, nhiều hoàn cảnh của sự kiện này vẫn
tiếp tục tồn tại xuyên qua cuộc thế chiến và cả những xung đột tiếp sau đó cho
đến năm 1989.
Quân
đội và nhân dân Ba Lan đã chiến đấu can trường chống lại người Đức trong suốt
một tháng vào năm 1939 (gần lâu bằng Pháp với đội quân đáng kể của họ vào năm
1940). Nhưng 17 ngày sau khi Đức xâm lược, quân đội của Stalin đã xâm lăng Ba
Lan từ phía đông. Vài ngày sau tại Brest, một điểm gặp gỡ lúc ấy nằm ngay trên
phần do Liên Xô kiểm soát tại Ba Lan, có một cuộc duyệt binh chung nho nhỏ của
binh lính và quân xa của Đức và Liên Xô. Chỉ hơn hai tháng sau, tức chưa đầy ba
tháng sau khi Thế chiến II nổ ra, trận đánh duy nhất trên đất liền tại châu Âu
là giữa Nga và Phần Lan, vốn là dân tộc không chấp nhận sự kiểm soát của Nga
đối với đất nước họ. Người Anh thất kinh. Họ (và người Pháp) thậm chí suy xét,
trong thoáng chốc, về việc can thiệp, nhưng việc này đã không xảy đến. Quân đội
Hitler sớm xâm chiếm Đan Mạch, Na Uy, Hà Lan, Bỉ – và sau đó là Pháp. Churchill
và Anh quốc đã đứng một mình, trong suốt hơn một năm sau đó.
Cuối
tháng 9 năm 1939, Ribbentrop bay tới Moskva lần nữa để thu xếp một số thoả
thuận về đường biên giới, từ đó sẽ tiến hành Nghị định thư Bí mật kia. Xuyên
suốt cuộc chiến, trong số những viên chức cấp cao của Đức, Ribbentrop là người
mong muốn tìm kiếm và duy trì những thoả thuận Đức – Nga nhất. (Người đồng cấp
của ông ở Liên Xô, Molotov, cũng thường có những mong muốn tương tự.) Ở khía
cạnh này, chúng ta còn có thể chú ý đến những mong muốn hướng đến mối quan hệ
song phương giữa Hitler và Stalin. Hitler cho rằng cần phải tiến hành những
điều khoản trong mối quan hệ đồng minh với Stalin; về phần mình, Stalin thậm
chí còn nhiệt tình hơn Hitler trong chuyện này. Một ví dụ là lời chúc tụng có
lẽ không cần thiết của ông dành cho Hitler sau khi ký bản hiệp ước vào ngày 24
tháng 8 năm 1939: “Tôi biết dân tộc Đức yêu mến Führer (Quốc trưởng) của họ
nhiều đến dường nào, do đó tôi nâng ly để chúc sức khoẻ cho ông ấy.” Đáng kể
hơn đối với hồ sơ lịch sử và hệ trọng hơn đối với nhân dân Đông Âu là ý định
của Liên Xô và hành vi xâm lăng của họ ngay sau khi ký Hiệp ước Xô-Đức.
Vào
cái ngày diễn ra chuyến viếng thăm thứ hai của Ribbentrop đến Moskva, Nga bắt
đầu gây áp lực lên các quốc gia Baltic. Nga đưa ra yêu sách đòi thay đổi những
chính quyền tại Baltic, đầu tiên là tại Estonia, sau đó là những nước láng
giềng Latvia và Litva. Quan trọng hơn, giờ đây Nga đã điều quân đến những nước
đó, đặc biệt là đến các hải cảng của họ, làm suy giảm trầm trọng nền độc lập
của những nước này. Chính quyền của những nước này chịu áp lực và đã phải tuân
theo lệnh của Liên Xô, ngoại trừ Phần Lan. Hai tháng sau, Chiến tranh Mùa đông
tại Phần Lan bắt đầu. Đội quân nhỏ bé của Phần Lan đã chiến đấu quật cường và
dũng cảm, một thực tế mà ngay cả Stalin cũng phải thừa nhận; kết quả là xuất
hiện một hiệp định trong đó Phần Lan từ bỏ một phần lãnh thổ cho Liên Xô nhưng
vẫn duy trì nền độc lập cho phần lớn đất nước.
Tình
hình tại Ba Lan còn xui rủi và kinh khủng hơn nhiều. Ở đó sự chiếm đóng của
Liên Xô chí ít cũng tàn bạo và thảm khốc – nếu không muốn nói nhiều hơn – so
với những phần đất Ba Lan bị Đức khuất phục. Nga trục xuất ít nhất một triệu
người – bao gồm nhiều gia đình, mà không cho họ mang theo tài sản – tới
Siberia, Kazakhstan và miền Bắc xa xôi của nước Nga, và gần như không ai có thể
thăm lại quê nhà của mình lần nữa. Vào tháng 4 và tháng 5 năm 1940, khoảng
22.000 sĩ quan Ba Lan bị bắn chết gần Katyn. Hơn một triệu tù nhân và công nhân
Ba Lan bị trục xuất tới Đức để chịu lao động cưỡng bức trong suốt thời chiến.
Đáng
nói là nhiều việc làm thế này đã bắt đầu ngay sau khi Liên Xô chiếm được miền
Đông Ba Lan vào tháng Chín năm 1939. Một số người Ba Lan, bao gồm người Do
Thái, đã chào mừng binh lính Liên Xô, những tưởng rằng binh lính Liên Xô đến để
giải phóng họ khỏi Đức Quốc xã. (Sau đó họ thất vọng với người Nga đến mức một
số người Do Thái ở miền Đông Ba Lan đã nghĩ rằng tốt hơn là họ nên trốn sang
khu vực của Đức Quốc xã, cho dù họ đã biết người Đức đối xử với dân Do Thái ra
sao.) Từ năm 1939 đến 1941, có lẽ đa số dân Do Thái trên thế giới sống tại Đông
Âu, hầu hết họ sống tại miền Đông Ba Lan, miền Tây Nga, Ukraina, và Belarus.
Cuộc thanh trừng chung quyết của người Đức chưa được Hitler quyết định cho đến
tháng 9 năm 1941 và trước tháng 1 năm 1942 vẫn chưa được thực hiện, nhưng theo
nhiều cách khác nhau, số phận của họ đã được tiên đoán từ Hiệp ước Xô-Đức.
#
Stalin tìm cách ngăn Hitler xâm lược Liên Xô
Vào
ngày 14 tháng 6 năm 1940, ngay cái ngày quân Đức diễu hành vào Paris, Moskva
cuối cùng đã quyết định thi hành Nghị định thư Bí mật. Trong vòng một hai ngày,
Nga tuyên bố tổng sáp nhập Estonia, Latvia và Litva vào Liên Xô. Thành viên
chính phủ của những nước này hoặc bị cầm tù hoặc bị đày ải. Nhiều cựu viên chức
ở đó bị xử tử, và ít nhất 25.000 người Baltic đã bị trục xuất tới Liên Xô.
Hitler chở những người thuộc sắc tộc thiểu số Đức ở vùng Baltic đến Đức bằng
tàu thuỷ của Đức.
Vào
tháng 11 năm 1940, Molotov sang Berlin. Đây không phải là chuyến đi thành công
của ông. Cung cách ngoại giao của ông cứng đờ như tính cách ông vậy. Nhìn thấy
Đức chinh phục gần hết châu Âu, ông đề xuất việc gộp Bulgaria vào khu vực của
Nga. Theo đó Liên Xô sẽ có sự hiện diện gần Bosphorus, với cái giá phải trả là
Thổ Nhĩ Kỳ. Người Đức không đáp lại lời đề xuất này. Vào một ngày tháng 12 năm
1940, Hitler bắt đầu hoạch định một cuộc chiến chung cuộc với Nga.
Stalin
phần nào chỉ trích hành vi của Molotov tại Berlin; ông cho là Bộ trưởng Ngoại
giao của mình có lẽ đã quá cứng nhắc. Đây là lối cư xử điển hình của Stalin
trong suốt sáu tháng tiếp theo. Ông không thể và sẽ không tin Hitler sẽ khởi sự
một cuộc chiến chống lại mình trong khi Đức vẫn còn Anh quốc để xử lý.
Stalin
đã thực hiện một số động thái để cải thiện tình hình của Nga. Ông thương thảo
một hiệp ước giao hảo với Nam Tư, vốn chẳng được gì, vì Hitler đã xâm lược Nam
Tư vào cái ngày ký hiệp ước này. Ông mời Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Matsuoka
Yōsuke đến Moskva khi ông này trên đường quay trở về Nhật sau chuyến viếng thăm
Berlin. Đáng ngạc nhiên là sau đó ông ký một Hiệp ước Bất tương xâm với Nhật.
(Ngay sau khi Đức Quốc xã xâm lược Liên Xô vào tháng 6 năm 1941, Matsuoka khi
trở về Tokyo đã đề nghị Nhật nên xâm lược Nga từ phía Đông. Giá trị của những
bản Hiệp ước Bất tương xâm năm 1941 quả là nhỏ bé. Nhưng Matsuoka không được
như ý, vì kẻ thù chính của Nhật lúc bấy giờ là Hoa Kỳ.)
Stalin
ra lệnh phải có những cử chỉ thân thiện đối với Đức, bao gồm cả việc đẩy nhanh
khâu vận chuyển các sản phẩm Liên Xô đến đó. Ông không một chút mảy may phản
ứng lại lời cảnh báo của Churchill về viễn cảnh Đức sẽ tấn công Liên Xô. Trong
suốt mười ngày trước cuộc xâm lăng của Đức Quốc xã – mặc cho mọi loại thông tin
về mối đe doạ của Đức – Stalin đã cố gắng thực hiện những điều tốt nhất, hay có
lẽ là những điều tệ nhất, để xác nhận lòng tin của mình vào Hitler và nước Đức.
Tôi không biết một trường hợp đơn lẻ nào có hành vi thấp hèn đến thế (vì bản
chất của nó là thế) mà xuất phát từ một chính khách của một đại cường quốc.
Cuộc
tấn công của Đức thoạt đầu đã làm Stalin sốc đến câm lặng. (Những lời của
Molotov sau khi Đức tuyên bố chiến tranh cũng đáng nói: “Chúng ta đáng bị điều
này sao?”) Những mệnh lệnh đầu tiên của Stalin cho quân đội Liên Xô là đừng
phản ứng gì cả. Phải mất nhiều giờ đồng hồ sau cuộc xâm lăng – cho đến trưa –
thì ông mới ra lệnh cho quân đội phản kháng.
Việc
Stalin đã run sợ ra sao trong suốt những ngày công kích đầu tiên của Đức Quốc
xã vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Cuối cùng ông đã xốc lại được tinh thần của
mình. Vào ngày 3 tháng 7 năm 1941 – mười một ngày sau cuộc xâm lăng của Đức –
ông gọi nhân dân Liên Xô là một tập thể ái quốc. Tới thời điểm đó, một số binh
lính Đức Quốc xã đã xâm nhập miền Tây Liên Xô được hơn một trăm dặm (hơn 160
km) và đang tiến đến Moskva. Roger Moorhouse kết lại phần dẫn nhập khiêm tốn
của mình: lịch sử của Hiệp ước Xô-Đức “xứng đáng được giải cứu ra khỏi những
dòng cước chú (tức ít được chú ý – NBT) và khôi phục lại vị trí đúng đắn của
nó… Tôi chỉ có thể hi vọng rằng cuốn sách này sẽ góp được một phần nho nhỏ cho
tiến trình đó.” Quả thật nó đã làm được điều đó.
# Ý đồ của Hitler và
Stalin
Dĩ
nhiên vẫn còn đó những nghi vấn dành cho các sử gia. Một vấn đề là nhiều văn
khố Liên Xô vẫn còn đóng cửa, và văn bản của họ thường là không đáng tin cậy
trong mọi trường hợp. Một nghi vấn sâu xa hơn vẫn chưa giải quyết được nằm ở
chỗ mục đích chính của Hitler vào năm 1941 là gì. Trước nhân dân và đồng minh
của mình, ông đã có những giải thích rõ ràng và đơn giản. Ông chưa bao giờ
thoải mái trong việc liên kết với Liên Xô. Ông kinh tởm chủ nghĩa cộng sản.
Nhưng còn có một yếu tố khác, có lẽ mang tính quyết định, trong tâm trí của
ông. Ở đâu đó ông đã buông lời nhận xét về điều này trước một số tướng lĩnh của
mình. Những lời đó liên quan đến Anh quốc – và đằng sau đó là Hoa Kỳ. Một khi
đã chinh phục Nga, buộc Stalin quy hàng hay phải rút đi những gì còn lại của
quyền lực Liên Xô đằng sau vùng Ural để chạy sang Siberia, thì khi đó Churchill
(và Roosevelt) có thể làm được gì? Họ phải đối diện với một kẻ khổng lồ
Nazi-Á-Âu, với đội quân Đức lớn mạnh không còn phải chiến đấu trên hai mặt trận
nữa.
Vấn
đề của Stalin nghiêm trọng hơn nhưng lại đơn giản hơn. Vào đầu tháng 9 năm
1941, ông viết cho Churchill rằng Liên Xô đang “chịu mối đe doạ chết người.”
Chuyện đó không xảy ra; và đến năm 1942, ông nhận ra là mình sẽ nhận được nhiều
thứ từ mối quan hệ đồng minh với Anh và Hoa Kỳ hơn là với Đức. Nhưng chí ít cho
tới tháng 6 năm 1941, Stalin và Molotov vẫn còn chuộng Đức của Hitler hơn là
phương Tây.
Ở
phương diện này có một chỗ dành cho một bản tiểu sử, hay một bản phác thảo tiểu
sử, của một viên chức nham hiểm của Liên Xô mang tên Vladimir Dekanozov, người
thân cận với Molotov trong suốt thời gian dài, một trong những kẻ thân Đức quan
trọng trong hàng ngũ viên chức cao cấp của Liên Xô (và vào năm 1941 còn là Đại
sứ tại Berlin). Có chứng cứ cho rằng khoảng cuối mùa xuân năm 1943, Molotov đã
điều Dekanozov đến Stockholm với mục tiêu thiết lập mối liên hệ với Đức Quốc
xã. Ribbentrop đã sẵn sàng gặp Dekanozov nhưng bị Hitler cấm không cho gặp. Vào
cuối năm 1953, Khruschev đã ra lệnh xử tử Dekanozov.
Hai tuyên bố lịch sử đã xuất hiện bằng văn bản sau khi cuộc
chiến kết thúc được một thời gian. Vào tháng 12 năm 1941, Churchill điều Bộ
trưởng Ngoại giao Anthony Eden đến Moskva. Các lực lượng tiến công của Đức chưa
tới được Moskva nhưng vẫn có thể nghe thấy tiếng súng ở bên ngoài bức tường của
điện Kremlin. Stalin nói với Eden: “Vấn đề của Hitler là ông ta không biết nên
dừng lại chỗ nào.” Eden: “Thế có ai biết không?” Stalin: “Tôi biết.” Hai từ này
không hoàn toàn xa rời sự thật. Vào tháng 11 năm 1944, Churchill đến gặp De Gaulle
tại Paris. De Gaulle nghiêm trách người Mỹ vì đã để Nga chiếm toàn bộ Đông Âu.
Churchill bảo, vâng, Nga giờ đây là con sói đói khát. “Nhưng sau bữa ăn là đến
giai đoạn tiêu hoá.”.Nga sẽ không thể tiêu hoá được phần lớn Đông Âu.
Và quả đúng vậy!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét