Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2016

Khi thành quả Cách mạng bị 'biến hóa'

Nhà văn Phạm Viết Đào

  • 25 tháng 8 2015
Image copyrightREUTERS
Image captionNăm nay Việt Nam đánh dấu tròn 70 năm cuộc Cách mạng Tháng 8 và tuyên ngôn độc lập 2/9/1945.
“Cuộc cách mạng tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hoà…”, đó là câu mở đầu trong phần Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946 đã cho thấy mục đích tiền khởi của cuộc cách mạng tháng 8 là để lập ra “nền dân chủ cộng hoà”.
Sau cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội khóa đầu tiên vào ngày 06/01/1946, theo nhiều tư liệu chính thống ghi lại cho thấy sau 10 tháng 'chuẩn bị tích cực, dưới sự chỉ đạo' của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 09/11/1946, Quốc hội Khóa I (kỳ họp thứ 2) chính thức thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam (với 240/242 phiếu tán thành), đó là Hiến pháp năm 1946.
Đây là văn bản pháp lý chính thức xác nhận thể chế và pháp chế của nhà nước Việt Nam được chính thức tuyên bố khai sinh ngày 2/9/1945.
Trong Lời nói đầu, Hiến pháp 1946 đã xác định nhiệm vụ của bộ máy nhà nước Việt Nam:
”Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ…”
Như vậy, nói theo ngôn ngữ tin học hiện đại: nền tảng của hệ điều hành, quản trị của bộ máy nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp (HP) 1946 là “nền tảng dân chủ”.
Nền tảng dân chủ của Hiến pháp 1946 được cụ thể hoá tại một số điều, đáng chú ý nhất là Điều 12.
Điều này quy định: ”Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm…”

Không tiếc xương máu

Trong Hiến pháp 1946 không quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý như các văn bản Hiến pháp 1992, 2013; vào thời điểm 1946, khi 90% dân số Việt Nam là nông dân, quy định như Điều 12 này vô cùng có ý nghĩa với nông dân, lôi kéo người nông dân đi theo, tham gia các cuộc chiến tranh mà họ không tiếc xương máu.
Hay như Điều thứ 32, là điều quy định về người dân tham gia phúc quyết các vấn đề liên quan tới vận mệnh quốc gia, quyền này đã không còn xuất hiện trong các văn bản Hiến pháp tuyên bố là kế thừa 1959, 1992, 2013:”Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý. Cách thức phúc quyết sẽ do luật định”…
Tới Hiến pháp 1959 trong Lời nói đầu đã tránh, không còn xác định dân chủ là nền tảng của “hệ điều hành” quản trị bộ máy nhà nước nữa; khái niệm dân chủ được lồng ghép vào những định ước, khái luận chung chung, khiến cho khái niệm “ nền tảng dân chủ” trở nên xa, mờ, nhạt dần:
“Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Việt Nam đã xây dựng một nước Việt Nam độc lập và dân chủ”; “Hiến pháp mới là một Hiến pháp thực sự dân chủ. Hiến pháp mới là sức mạnh động viên nhân dân cả nước ta phấn khởi tiến lên giành những thắng lợi mới…”, (Lời nói đầu Hiến pháp 1959).
Image copyrightAFP
Image captionTác giả cho rằng sau 70 năm, các giá trị cốt lõi nền tảng được cuộc cách mạng tháng 8 đưa ra lúc đầu để 'lôi cuốn quần chúng' đã bị biến thái.
Từ Hiến pháp 1959 bắt đầu lấp ló xuất hiện vai trò lãnh đạo nhà nước của Đảng:” Nhà nước của ta là Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo…”
Trong Hiến pháp 1959, vai trò giám sát quyền lực nhà nước của nhân dân được thể chế bằng Điều 4:
”Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
"Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp và các cơ quan Nhà nước khác đều thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ…”

Nền tảng mặc định

Từ “ dân chủ“ vốn là nền tảng được mặc định của hệ điều hành quản trị nhà nước năm 1946 đã được chuyển hoá thành “nguyên tắc tập trung dân chủ”… Phải chăng điều đó có nghĩa là từ Hiến pháp 1959, dân chủ phải gia cố, cõng gánh thêm “cái ông” tập trung thì cái dân chủ đó mới có hiệu lực, hiệu quả được nhà nước chấp thuận?
Trong Hiến pháp 1992 cũng không nhắc gì tới “nền tảng dân chủ” của hệ điều hành quản trị của bộ máy nhà nước và thay vào đó giống Hiến pháp 1959, nhấn mạnh vai trò lãnh đạo nhà nước của Đảng Lao động Việt Nam, Hiến pháp 1959; Đảng Cộng sản Việt Nam (Hiến pháp 1992).
Trong Hiến pháp 1992 đã xác định rõ hơn vai trò Đảng lãnh đạo nhà nước tại Điều 4:
Điều này quy định: ”1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội…”
Hiến pháp 1992 quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước, thể chế hoá mối quan hệ giữa Ðảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
Đến Hiến pháp 2013 thì phạm trù dân chủ được phân vai rạch ròi trong Lời nói đầu:
”Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kế thừa Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…”
Image copyrightVIETNAM ARCHIVE
Image captionThể chế lấy 'dân chủ' làm nền tảng đã được chuyển dần sang thành 'đảng chủ' ít nhất từ Hiến pháp năm 1959, theo tác giả.
Giống với Hiến pháp 1992, trong Hiến pháp 2013, vai trò lãnh đạo nhà nước của Đảng tiếp tục được thể chế trong Điều 4.
Như vậy, nếu Hiến pháp 1946 với hệ điều hành quản trị nhà nước dựa trên nền tảng dân chủ thì tới Hiến pháp 2013 “hệ điều hành dân chủ” từ “nền tảng” chuyển thành 1 trong 5 mục tiêu hướng tới của bộ máy nhà nước.

Chuyển hóa 'Đảng chủ'

Tóm lại, hệ điều hành quản trị của bộ máy nhà nước Việt Nam từ tiền khởi văn bản Hiến pháp 1946, thành quả của Cách mạng tháng 8 tới Hiến pháp 2013 đã chuyển hoá từ dân chủ sang “Đảng chủ”.
Có điều do sự mặc định mới này mà Quốc hiệu Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đang được thông dụng hiện nay có vẻ không thật trùng khớp với bản chất và ngôi thứ của hệ điều hành “ đảng chủ” này.
Nếu đúng bản chất của hệ điều hành quản trị đã được mặc định trong hiến pháp thì quốc hiệu Việt Nam cần phải chỉnh sửa: 'Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cộng hoà' thì mới sát, đúng. Còn gọi Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì đã vô tình biến Đảng, “ông chủ” duy nhất lãnh đạo nhà nước toàn diện lại hoá thành lực lượng phụ trợ nhà nước.
Vì đảng mới là chủ thể, là lực lượng chính trị chi phối toàn diện hệ điều hành này như Điều 4 đã mặc định tính chất, quyền năng của hệ điều hành “đảng chủ”:
Điều này nêu rõ: ”1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
"2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình…”
Đây là vấn đề vừa mang tính lý luận vừa mang ý nghĩa thực tiễn mà rất mong được các nhà “Hồ Chí Minh học” sớm làm sáng tỏ bằng các công trình lý luận công phu để việc kế thừa “ nền tảng tư tưởng Hồ Chí Minh” được người dân bình thường hiểu, quán triệt mà đồng thuận.
Bởi vì từ quốc hiệu của nhà nước và một số vấn đề mang tính cốt lõi của thể chế trong hiến pháp 1946 đã có những thay đổi, chuyển hoá khó hiểu; nếu không được giải thích, thuyết phục thấu đáo thì sẽ xô đẩy xã hội tới chỗ phân tâm, hoài nghi, không biết đâu mà lần.
Bài viết thể hiện văn phong và phản ánh quan điểm riêng của tác giả, nhà văn, đang sống ở Hà Nội. Bài được gửi tới BBC tham gia chuyên mục đánh dấu 70 năm Cách mạng tháng Tám của Việt Nam và kết thúc Thế chiến II.

Phát hiện hoạt chất mới kích thích tăng trưởng trong chăn nuôi

Thứ Sáu, 02/09/2016 14:16 GMT+7


(HQ Online)- Phát biểu tại cuộc họp báo thường kỳ của NN&PTNT diễn ra chiều tối ngày 1-9, ông Nguyễn Văn Việt, Chánh Thanh tra Bộ NN&PTNT cho biết: Sau chất Salbutamol, mới đây Thanh tra Bộ NN&PTNT còn phát hiện loại hoạt chất mới nhằm mục đích kích thích tăng trưởng trong chăn nuôi là Systeamine. 
Nhiều loại hóa chất độc hại được sử dụng để sản xuất thức ăn chăn nuôi gây ra hậu quả khôn lường. Ảnh minh họa. Ảnh: Internet

Đây là một tiền hooc mon có tác dụng kích thích sinh trưởng và tạo nạc đối với vật nuôi, chất này đã bị Liên minh châu Âu cấm sử dụng trong chăn nuôi. Trung quốc, Philipines, Thái Lan không cấm, còn Việt Nam liệt vào hóa chất hạn chế sử dụng (theo Luật Hóa chất).

Bộ NN&PTNT không cho nhập, kinh doanh và sử dụng hoạt chất này trong chăn nuôi. Ngày 25-3-2016, Cục Chăn nuôi đã có Công văn số 350/CN-TĂCN gửi các Sở NN&PTNT về việc tăng cường kiểm tra chất cấm và kháng sinh trong chăn nuôi, trong đó có chất Salbutamol, Vàng O và Systeamine.

Thanh tra Bộ đã ban hành Quyết định số 506/QĐ-TTr ngày 5-8-2016 về việc thanh tra đột xuất nhập khẩu, sản xuất, kinh doanh và sử dụng vật tư nông nghiệp chăn nuôi, thú y. Qua thanh tra phát hiện Công ty TNHH MTV Công nghệ đổi mới, có hoạt động nhập khẩu nguyên liệu và thức ăn chăn nuôi (TĂCN) Maxsure và Synergrow có chứa chất Systeamine với hàm lượng đậm đặc 3% và một số hành vi vi phạm khác. Thanh tra Bộ đã xử phạt vi phạm hành chính Số tiền là 197.000.000 đồng và buộc tiêu hủy các sản phẩm vi phạm theo quy định.

Ngoài ra, thời gian qua, Thanh tra Bộ NN&PTNT còn phát hiện hành vi sử dụng hóa chất công nghiệp vào sản xuất TĂCN, vật tư thủy sản.

Cụ thể, vào hồi tháng 7 vừa qua, Thanh tra Bộ đã quyết định tiến hành kiểm tra đột xuất một số cơ sở sản xuất, kinh doanh vật tư nông nghiệp trong lĩnh vực chăn nuôi, thú y. Đoàn công tác hoạt động tập trung tại khu vực phía Nam tại các tỉnh TP.HCM, Long An, Bình Dương, Đồng Nai nơi có nhiều công ty sản xuất, kinh doanh TĂCN, thủy sản.

Đoàn đã tiến hành kiểm tra đột xuất đối 2 Công ty nhập khẩu hóa chất và có bán cho các nhà máy sản xuất TĂCN; kiểm tra đột xuất đối với 16 Công ty sản xuất TĂCN, các sản phẩm dùng trong nuôi trồng thủy sản.

Kết quả đã phát hiện 10 Công ty có hành vi vi phạm liên quan tới việc sử dụng các hóa chất công nghiệp trong sản xuất thức ăn chăn nuôi. Các hóa chất công nghiệp được phát hiện chủ yếu là NaHCO3, MgSO4, MnSO4, ZnSO4, CuSO4, FeSO4, CaCO3 dùng sản xuất sơn, dệt nhuộm, công nghệ giấy (trong các hóa chất này còn rất nhiều tạp chất nguy hại khác).

Thanh tra Bộ đã tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với 12 Công ty vi phạm, tổng số tiền xử phạt là 456 triệu đồng; đình chỉ việc bán các hóa chất công nghiệp cho các Công ty sản xuất thức ăn chăn nuôi đối với hai công ty hóa chất; buộc thu hồi và tiêu hủy các sản phẩm vi phạm có chứa các hóa chất công nghiệp.

Ông Việt nhận định: Các hành vi này đang khá phổ biến, gây mất an toàn thực phẩm, ảnh hưởng lớn tới sức khỏe cộng đồng và gây hoang mang dư luận xã hội.

Hóa chất công nghiệp đã được phát hiện là các loại hóa chất sử dụng trong nhuộm mầu công nghiệp như nhuộm màu sợi vải, nhuộm giấy; các loại hóa chất làm sơn, vôi ve quét tường; các loại hóa chất sử dụng trong sản xuất phân bón vô cơ…. Các loại hóa chất này rất phổ biến, được nhập chủ yếu từ Trung Quốc và được bầy bán công khai tại các chợ đầu mối hóa chất, được các công ty hóa chất nhập và phân phối.

Việc nhập khẩu, kinh doanh và bày bán các loại hóa chất công nghiệp hoàn toàn không vi phạm do hóa chất này được phép lưu hành, dùng trong công nghiệp. Tuy nhiên, sai phạm ở đây là người mua dùng sai mục đích.

Trên thùng sản phẩm đều có khuyến cáo là chỉ sử dụng trong công nghiệp, không sử dụng cho TĂCN và thực phẩm nhưng các Công ty sản xuất TĂCN, các Công ty sản xuất vật tư Thủy sản một phần do thiếu sự hiểu biết, một phần do cố tình mua và sử dụng sai mục đích nhằm chuộc lợi kinh tế.

Hiện tại, trên thị trường thì giá của 1kg hóa chất công nghiệp chỉ bằng 1/2 giá của hóa chất cùng loại dùng sản xuất thức ăn chăn nuôi, thậm chí giá chỉ rẻ bằng 1/3.

"Sử dụng hóa chất dùng trong công nghiệp vào việc sản xuất các sản phẩm dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản sẽ gây tồn dư kim loại nặng trên động vật, sản phẩm động vật. Người tiêu dùng sử dụng những sản phẩm động vật này sẽ bị tồn dư kim loại nặng trong cơ thể, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe (gây các triệu chứng dị ứng, ngộ độc; có thể gây ung thư khi trong cơ thể tích tụ hàm lượng kim loại nặng vượt mức cho phép). Do đó, việc dùng hóa chất công nghiệp để sản xuất TĂCN, các sản phẩm sử dụng trong nuôi trồng thủy sản là một hành vi nguy hiểm với sức khỏe cộng đồng và ảnh hưởng tới xuất khẩu của ngành thủy sản", ông Việt nhấn mạnh.
Thanh Nguyễn

Bốn đại án tham nhũng "bay" 2.000 tỷ, khắc phục được 5 tỷ!

Bốn đại án tham nhũng "bay" 2.000 tỷ, khắc phục được 5 tỷ!
Ông Dương Ngọc Hải – Phó Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân TP.HCM

Thông tin trên được ông Dương Ngọc Hải – Phó Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân TP.HCM đưa ra trong hội nghị tổng kết công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí 2015 tại TP.HCM mới đây.

Năm 2016 sẽ tập trung vào lĩnh vực hải quan
Theo ông Dương Ngọc Hải, trong năm qua Viện kiểm sát Nhân dân TP.HCM (VKSND TP) đã thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử 4 vụ án tham nhũng do Ban Bí thư chỉ đạo xử trước Đại hội Đảng 12.
Cụ thể: Vụ án tham ô tài sản của bị cáo Vũ Quốc Hảo xảy ra tại Công ty cho thuê Tài chính 2, gây thiệt hại 454 tỷ; Vụ án Dương Thanh Cường xảy ra tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Chi nhánh 6 gây thiệt hại 966 tỷ; Vụ án Lê Hùng Sơn – Vũ Quốc Hảo xảy ra tại Công ty cho thuê Tài chính 2 gây thiệt hại 244 tỷ; Vụ án Phạm Văn Cử xảy ra tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Chi nhánh 7 gây thiệt hại 396 tỷ.
Qua các vụ án ông Hải thừa nhận việc thu hồi tài sản vi phạm còn hạn chế, 4 vụ án nói trên trên có thiệt hại hơn 2.000 tỷ nhưng số tiền khắc phục hậu quả chỉ 5 tỷ, cơ quan thu hồi chưa được 1 tỷ, kê biên được 1 căn nhà.
Ông Hải cho rằng dự kiến năm 2016 các cơ quan tố tụng sẽ tập trung xử lý các vụ án ở lĩnh vực hải quan và thuế (vì lĩnh vực ngân hàng đã làm trong năm 2015), trong đó có vụ án lừa đảo chiếm đoạt tiền hoàn thuế với số tiền hơn 100 tỷ đồng của Lê Dũng và đồng phạm với 46 bị can bị khởi tố (có 32 công chức hải quan).
Ngoài ra, ông Hải cho hay VKSND TP đã tiếp nhận từ VKSND Tối cao hai vụ án đặc biệt lớn là vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Huỳnh Thị Huyền Như (số tiền thiệt hại 4.000 tỷ) và vụ án tham nhũng tại Ngân hàng Xây dựng do Phạm Công Danh và đồng phạm thực hiện với số tiền thiệt hại lên đến 10.000 tỷ (hiện đã kết thúc điều tra, VKSND Tối cao chuẩn bị ra cáo trạng để ủy quyền cho VKSND TP truy tố).
Cái khó khi ủy quyền công tố?
Về những nguyên nhân dẫn đến tình trạng án tham nhũng bị chậm và khó xét xử, ông Hải cho rằng do loại án này thường có tính chất phức tạp, đông bị can, nhiều tội danh, xảy ra trong thời gian dài trên nhiều địa bàn và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng… do đó công tác điều tra thường kéo dài, tuy nhiên thời hạn tố tụng bị khống chế nên các vụ án này thường không được giải quyết triệt để.
“Chính vì vậy các cơ quan tố tụng thường sử dụng các thao tác tố tụng như trả hồ sơ điều tra bổ sung hay nhập vào các vụ án để kéo dài thời gian nhằm giải quyết dứt điểm các vụ án này” – ông Hải nói.
Tuy nhiên ông Phó Viện trưởng VKSND TP nhận định: “Theo tinh thần của Bộ Luật tố tụng hình sự năm 2015 thì thời hạn tố tụng lại quy định rút ngắn hơn và việc nhập tách vụ án quy định chặt chẽ hơn, do đó dự báo trong 2016 khi thực hiện luật tố tụng mới các cơ quan tố tụng sẽ gặp rất nhiều khó khăn”.
Theo ông Hải, hiện nay một số văn bản pháp luật hướng dẫn cũng không đầy đủ hoặc quy định không rõ ràng, thiếu thống nhất dẫn đến có quan điểm chưa thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng, đôi khi trái ngược nhau.
“Ví dụ như hiện nay chưa có quy định hướng dẫn về tài sản thiệt hại đối với các doanh nghiệp nhà nước, rồi dấu hiệu định tội của nhiều tội danh rất giống nhau, khó áp dụng như “Lạm quyền trong khi thi hành công vụ” và “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”; “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” và “Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản” – ông Hải cho hay.
Một vấn đề khác cũng gây ra những khó khăn trong công tác xét xử án tham nhũng là việc “ủy quyền”.
“Đây là án do Bộ công an điều tra và VKSND Tối cao truy tố, ủy quyền cho VKSND TP thực hành quyền công tố kiểm sát xét xử, do các vụ án này VKSND TP không thực hành quyền công tố điều tra ngay từ đầu, trong khi đây là những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, rất đông bị can và khối lượng hồ sơ rất lớn, do đó VKSND TP không thể trong 1 tháng mà nắm được toàn bộ hồ sơ, tình tiết vụ án. Từ đó dẫn đến có sự mâu thuẫn, tranh chấp quan điểm của cấp TP và Trung ương khiến nhiều vụ án phải trả để điều tra bổ sung, hủy án…” – ông Hải nêu quan điểm.
Ông Hải cho biết thêm: “Công tác ủy thác tư pháp với nước ngoài gặp nhiều khó khăn, nhiều ủy thác tư pháp không có kết quả, kéo dài thời gian dẫn đến tạm đình chỉ điều tra vụ án, hoặc là ủy thác tư pháp có kết quả nhưng không thể sử dụng được do hệ thống pháp luật của ta không tương thích với hệ thống pháp luật nước ngoài. Ví dụ một trường hợp dự kiến xét xử mà phải chịu án tử hình thì nước ngoài sẽ không trả lời ủy thác cho chúng ta vì nước họ không có mức án này”.
Ông Hải cũng cho rằng các vụ án tham nhũng thường phụ thuộc vào kết quả giám định về công tác chuyên môn, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính, xây dựng… nhưng công tác giám định hiện nay kéo dài và kết quả giám định đôi khi còn mâu thuẫn, thậm chí trái ngược nên có những vụ án không thể giải quyết được.
Theo Nguyễn Cường
Infonet

Chỉ 113 trên tổng số 6700 người dân Quảng Bình được hỏi hài lòng về cán bộ

 Đó là con số ít ỏi trong tổng số hơn 6.700 người dân ở Quảng Bình được hỏi ý kiến về cán bộ trong quá trình thực hiện các thủ tục hành chính tại các văn phòng một cửa cấp huyện.
Sáng 31/8, Hội thảo đánh giá kết quả thực hiện Dự án Dân chấm điểm cán bộ (M-Score) được tổ chức tại Quảng Bình đã đưa ra những con số về ý kiến của người dân đối với cán bộ tại các văn phòng một cửa cấp huyện.
Chi 113 nguoi dan Quang Binh hai long ve can bo hinh anh 1
Theo kết quả Hội thảo, có rất ít người dân bày tỏ ý kiến hài lòng về cán bộ tại các văn phòng một cửa. Ảnh: CTV.
Theo đó, chỉ có 113 người dân ở Quảng Bình thể hiện sự hài lòng về tất cả các mặt khi đi làm thủ tục, hồ sơ, giao dịch tại các văn phòng theo kết quả chấm điểm định tính của M-Score khảo sát. 
Bên cạnh đó, Dự án M-Score cũng thực hiện khảo sát định lượng để đánh giá chất lượng dịch vụ công tại 7 huyện thị. Có khoảng hơn 100 người dân cho ý kiến đề cập đến sự thay đổi tích cực trong chất lượng dịch vụ.
Từ tháng 2/2016, chương trình Dân chấm điểm M-Score đã tiếp cận khảo sát 6.751 người dân Quảng Bình đang có nhu cầu giải quyết, thực hiện thủ tục hành chính tại bộ phận một cửa cấp huyện, chiếm khoảng 79,9 % số người có nhu cầu thực tế.
Tổng đài 18008006 đặt tại trụ sở HĐND tỉnh Quảng Bình cũng đã tiếp nhận được 70 cuộc gọi từ người dân với nội dung chủ yếu liên quan đến thủ tục đất đai, chiếm trên 90% nhu cầu thực tế.
Theo tổng kết của Ban quản lý dự án M-Score, những con số thực tế của người dân đánh giá chất lượng phục vụ cán bộ bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Có khoảng 3.432 ý kiến của người dân bày tỏ ý kiến (hài lòng hoặc không) tập trung vào thái độ phục vụ của cán bộ khi thực hiện các thủ tục, hồ sơ. Việc cán bộ xử lý hồ sơ kéo dài trong thời gian dài, không có giải thích hợp lý khiến người dân không hài lòng thể hiện trong con số 375 ý kiến.
Văn Đượ

KỲ 2 Cuộc phỏng vấn trực tiếp Cựu hoàng Bảo Đại trước khi ông qua đời


07:22' SA - Thứ bảy, 09/05/2015
Cuộc phỏng vấn này đã được phát trên truyền hình Pháp nhiều lần, hoàng nữ Phương Thảo (con của bà Bùi Mộng Điệp và cựu hoàng Bảo Đại) đã thu được và cung cấp cho tôi, kỹ sư Bùi Hữu Lân (cựu sinh viên Đại học Bách khoa Pháp) và ông Nguyễn Đắc Xuân chuyển qua Việt ngữ. Xin trích một đoạn sau đây để bạn đọc tham khảo về những sự kiện cách nay 70 năm.
Frédéric Mitterand : Và ngài đã đi Hà Nội để gặp cụ Hồ Chí Minh. Điều kỳ lạ là cụ Hồ Chí Minh đối xử với ngài với một sự cung kính đặc biệt?
- Bảo Đại : Vâng, xin đừng quên rằng cụ Hồ xuất thân từ một gia đình quan lại. Và cụ đã đối xử với tôi như tôi còn làm vua. Cụ cấm những người xung quanh cụ gọi tôi bằng đồng chí, bằng những tên gọi của giai cấp vô sản, và luôn luôn gọi tôi là Hoàng thượng.
Frédéric Mitterand : Cụ Hồ Chí Minh mời ngài làm cố vấn tối cao của Chính phủ?
- Bảo Đại: Vâng, lúc đó không một lý do gì để mà từ chối bởi vì mọi người Việt Nam đều theo Cụ. Điều chúng tôi muốn, là nước nhà phải được độc lập. Tôi muốn làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ. Mọi người Việt Nam đều muốn ủng hộ chính phủ ấy để tranh thủ một nền độc lập thật sự.
Frédéric Mitterand : Ngài đã ở gần cụ Hồ Chí Minh, cụ ấy đã cho ngài cảm tưởng thế nào của cụ ấy? Nay đã qua một thời gian dài, cảm tưởng ấy có thay đổi nhiều không?
- Bảo Đại: Không, không thay đổi. Tôi luôn luôn xét cụ Hồ Chí Minh ngoài cái tư tưởng cộng sản của ông ấy. Ông hãy nhớ đại hội Tours, cụ Hồ ở Pháp lúc ấy. Rồi cụ đi Moscou để lập đảng Cộng sản Việt Nam.
- Frédéric Mitterand : Nhưng đối với ngài, cụ Hồ cũng là một nhà ái quốc?
- Bảo Đại : Đối với tôi, còn hơn thế nữa, đó là một người có tinh thần quốc gia. Cụ là một người yêu nước. Tiếc thay sau lưng cụ có một ủy ban, là Xô viết tối cao, gồm có vài người Ba Lan, người Nga, bắt buộc cụ phải tiến tới.
Frédéric Mitterand : Trong cuốn sách của ngài, không thấy có một lời buộc tội khắt khe nào đối với cụ Hồ. Ngài quý trọng cụ Hồ? Và cũng thế, quả là rất ngạc nhiên khi thấy cụ Hồ không bao giờ công kích ngài?
- Bảo Đại : Không, không có lý do gì để tôi công kích Cụ ấy. Ban đầu, tôi còn ủng hộ Cụ ấy nữa. Cố gắng đưa nước nhà thoát khỏi chiến tranh, vì chúng tôi đã khổ vì chiến tranh.
Frédéric Mitterand : Một sự kiện lạ lùng. Có lúc cụ Hồ đã nghỉ đến việc trao lại quyền hành cho ngài?
- Bảo Đại : Nhưng việc này chính tự tay cụ Hồ. Một hôm cụ Hồ đến gặp tôi. Trước đó, cụ đã gọi điện thoại, Cụ nói sẽ đến gặp tôi. Tôi tưởng Cụ ấy ốm. Cụ nói với tôi: “Không có, tôi muốn ngài nắm lại chính quyền”. Tôi hỏi : “Tại sao?”. Cụ nói : “Tôi bị để ý quá, tôi quá đỏ, tôi cảm thấy không được Đồng minh tín nhiệm”. Tôi tưởng Cụ đùa. Cụ nói : ‘Không có, ngài hãy trình diện một chính phủ vào cuối ngày hôm nay”. Trong ngày tôi đã có nhiều cuộc tiếp xúc, cho đến chiều thì cụ Hồ gọi lại cho tôi. Cụ nói : “sau khi đã suy nghỉ kỷ lại, xin ngài bỏ qua cho tôi chuyện vừa qua. Trước cái khó khăn của hoàn cảnh này, tôi không có quyền đào nhiệm”. Tôi nói : “Vậy thì xin Cụ hãy tiếp tục”.

Bế mạc "Tuần lễ vàng" tại Nhà hát lớn Hà Nội, Cựu hoàng Bảo Đại lúc này
là cố vấn Vĩnh Thuỵ lên cổ vũ đấu giá tấm hình Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
khi đồng bào quần chúng nhân dân tề tựu ngoài quảng trường chờ đón kết quả
Frédéric Mitterand : Quả là quá ngạc nhiên., rất xúc động khi thấy có sự đoàn kết cao như vậy. Tại sao cuộc thương thuyết với nước Pháp bị bế tắc? Phải chăng lỗi hoàn toàn về phía Pháp?
- Bảo Đại : Hãy bắt đầu với Hiệp ước ngày 6-3. Ký giữa Sainteny và cụ Hồ. tôi biết rõ hiệp ước ấy vì tôi đã soạn thảo với cụ Hồ. Hiệp ước ký xong thì tôi đi Trung Quốc. Sau đó là Hội nghị Fontainebleau. Khi cụ Hồ sang Pháp. Hội nghị không đạt kết quả gì, vì mỗi bên đều giữ vững lập trường của mình. Không ai muốn thương lượng thật sự, phía Pháp cũng như phía Việt Nam.
Frédéric Mitterand : Tôi tưởng tượng có những trang “tít” trên các báo. Ngài đã trở nên một ông vua “đỏ”?
- Bảo Đại : Hoàn toàn không như vậy. Mọi người gọi tôi là công dân Vĩnh Thụy. Chỉ có thế.
Frédéric Mitterand : Lúc ấy ngài biết gì về chủ nghĩa cộng sản? Ngài đã nắm hết chủ nghĩa cộng sản?
-Bảo Đại : Không, tôi biết rất ít.
Frédéric Mitterand : Trong khoảng thời gian hai năm ấy, ngài đã ở bên cụ Hồ, và ngài đã giúp cho cụ Hồ nhiều việc quan trọng. Nếu phải lặp lại việc này hôm nay, ngài cũng sẽ lặp lại chăng? Ngày nay ngài đánh giá việc này thế nào?
- Bảo Đại : Còn tùy. Nếu là vì hạnh phúc của thần dân tôi, tôi cũng sẽ làm.
- Frédéric Mitterand : Nhưng việc này có phục vụ dân không?
- Bảo Đại : Tôi không nghỉ như vậy.
Frédéric Mitterand : Chiến tranh thực sự bùng nổ giữa Pháp và Việt Minh, một cuộc chiến ác liệt, gian khổ. Ngài là một người lưu vong. Ngài không còn gì trong tay cả. Tuy vậy, lần hồi, ngài lại được công luận chú ý, nhất là các người Pháp đã biết ngài, và đông đảo người Việt Nam muốn độc lập, nhưng không muốn cộng sản?
- Bảo Đại : Để nói cho rõ hơn, sau khi đô đốc d’Argenlieu mãn nhiệm kỳ. Ông Bollaert sang Đông Dương với chỉ thị của Paris là gắng khôi phục hòa bình. Dưới hình thức nào? Kêu gọi tất cả những người đang chiến đấu chống Pháp, và những người quốc gia đang đứng ngoài cuộc chiến lúc ấy, có nhiều người Việt Nam đã nghỉ đến tôi. Ông Bollaert đã đứng ra kêu gọi qua bài diễn văn nổi tiếng đọc ở Hà Đông, trong bài diễn văn này ông đã nói đến hai chữ Độc lập, nhưng không nói bằng tiếng Pháp, mà bằng tiếng Việt. Lúc đó, tôi có tiếp một ông sứ giả của ông Bollaert, người này nói với tôi như sau : “Ngài phải đáp lại lời kêu gọi của ông Bollaert. Nếu ngài không trả lời, cụ Hồ Chí Minh sẽ trả lời và sẽ qua mặt ngài”. Tôi đáp :” Tôi rất muốn thế, tôi chờ cụ Hồ trả lời vì quý ông đã nhắm vào cụ Hồ mà kêu gọi”. Sau một thời gian, vì không ai đáp lại lời kêu gọi của ông Bollaert và vì đã có nhiều người quốc gia muốn tập hợp lại và khẩn khoản xin tôi tiếp xúc với đại diện nước Pháp, trong bối cảnh đó, tôi đã chấp thuận gặp ông Bollaert ở vịnh Hạ Long. Đó là lần tiếp xúc đầu tiên.
Frédéric Mitterand : Thời gian tiếp xúc có lâu không?
- Bảo Đại : Thời gian tiếp xúc là một ngày. Ông Bollaert muốn tuyên bố Thống nhất – Độc lập. Nhưng ngược lại, ông đưa ra nhiều tu chính án hoàn toàn không phù hợp với tôi.
- Frédéric Mitterand : Và ngài đã bác bỏ?
- Bảo Đại : Do đó tôi đã từ giã ông ta. Tôi nói với ông ta rằng, tôi chỉ gặp ông với tư cách cá nhân. Nước tôi và nhân dân tôi không cho tôi một ủy nhiệm gì, để ký bất cứ điều gì cả. Ông Bollaert đáp : “Đây là lần tiếp xúc đầu tiên”.
Frédéric Mitterand : Điều gì đã khiến cho ngài trở về nước?
- Bảo Đại : Đối với tôi, đây là một cơ hội mà tôi có thể nói là lịch sử. Bởi vì có một điều mà ít người Việt Nam biết đến, đó là tôi phải chuộc lại lỗi lầm của tổ tiên tôi: để mất sáu tỉnh Nam Kỳ.
Frédéric Mitterand : Đất Nam Kỳ, đó là các vùng Alsace-Lorraine của nước Việt Nam?
- Bảo Đại : Đúng vậy.
Frédéric Mitterand : Sau cùng, ngài đã chấp thuận trở về nước. Kỳ này đã tranh thủ được Độc lập và Thống Nhất?
- Bảo Đại : Không, không phải ở vịnh Hạ Long mà tôi tranh thủ được Độc lập, mà chính là sau khi ông Bollaert ra đi, kể từ năm 1949, tôi đạt được các thỏa hiệp đầu tiên với Tổng thống Pháp Auriol. Không phải giống như các thỏa hiệp ngày nay, mà là trao đổi văn thư.
Frédéric Mitterand : Một tình trạng thật lạ lùng. Ngài đã là vua, ngài đã là ông Vĩnh Thụy, đại biểu quốc hội thời Hồ Chí Minh, và ngài đã trở về với tư cách đứng đầu một nhà nước. Nhà nước đó có hình thức thế nào? Ngài là Đức Bảo Đại – Tổng thống nước cộng hòa?
- Bảo Đại : Không, không phải tổng thống vì lúc ấy chưa xác định được thể chế. Tôi tự phong tôi là Quốc trưởng của Quốc gia Việt Nam. Tôi nói với nhân dân Việt Nam rằng : Khi tôi đã làm xong nhiệm vụ của tôi, tức là cụ thể hóa nền độc lập, xây dựng lại đất nước, đến lúc đó, chính nhân dân sẽ chọn lấy chế độ mình muốn. Tôi không chủ trương một chế độ nào cả. Tôi chỉ tự phong một cách đơn giản là Quốc trưởng thôi.
Ảnh : Tháng 3/1949 Bảo Đại về nước và đến ngày 1/7/1949 thì được tấn phong làm Quốc trưởng trong Chính phủ Lâm thời của Quốc gia Việt Nam
Frédéric Mitterand : Nền độc lập đầu tiên, có người đã trách ngài rằng đó là nền độc lập của Nhật; còn lần này ngài sẽ không bị mang tiếng rằng đó là độc lập của Pháp?
- Bảo Đại : Hoàn toàn không. Người Pháp đã thương lượng thực sự với tôi. Độc lập. Thành lập quân đội Quốc gia. Tôi đã có đại diện ngoại giao ở nhiều nước khác. Rất nhiều nước đã thừa nhận chúng tôi.
Frédéric Mitterand : Ngài có nhiều bạn trong chính phủ Pháp. Ngài có những bạn trung thành với ngài không?
- Bảo Đại : Tổng thống Auriol là một người rất thông cảm với tôi và đã giúp tôi rất nhiều. Bộ trưởng ngoại giao, ông Bidault.
Frédéric Mitterand : Tổng thống Auriol, một đảng viên Đảng Xã hội, cựu Bộ trưởng trong mặt trận bình dân. Ngài có mâu thuẫn với những ai đã nắm được lịch sử?
- Bảo Đại : Ông ấy là đảng viên đảng Xã hội, việc này không có gì quan trọng với tôi cả, miễn là qua ông ấy, tôi đạt được các nguyện vọng của nhân dân tôi. Đó là điểm chính yếu.
Frédéric Mitterand : Ngài trở về Việt Nam, và trong vai trò của ngài, ngài đã được dân chúng đón tiếp nồng nhiệt. Ngài rất được lòng dân vào thời đó. Việc này diễn tiến ra sao?
- Bảo Đại : Tôi chưa bao giờ cần mưu sự đắc nhân tâm. Tôi trở về nước để làm một nhiệm vụ với đất nước và nhân dân Việt Nam.
Frédéric Mitterand : Thành lập Quân đội Quốc gia, đây là một việc rất quan trọng đối với ngài?
- Bảo Đại : Đáng tiếc là đã có một sự chậm trễ. Phải chờ cho đến lúc có tướng De Lattre mới thành lập được quân đội của tôi. Tướng De Lattre đã hiểu là phải có một quân đội Quốc gia.
Frédéric Mitterand : Giữa De Lattre với ngài, có một quan hệ đặc biệt?
- Bảo Đại : Ban đầu có một vài va chạm giữa De Lattre với tôi, nhưng sau một thời gian, khi tôi đã thuyết phục được De Lattre rằng ngoài quân đội viễn chinh Pháp, cần phải có một yểm trợ, tức là quân đội Quốc gia. Ông ta đã hiểu ngay, ông ta đã lập nên các thành phần đầu tiên của quân đội tôi. Ông đã cho con trai ông phục vụ ở một tiểu đoàn và anh này đã chết trận.
Frédéric Mitterand : Nhưng người Pháp trong quân đội viễn chinh đã không phải vì ngài mà chết trận?
- Bảo Đại : Những quân nhân đầu tiên, đến Việt Nam thời tướng Leclerc, nghỉ rằng họ đã chiến đấu cho nước Pháp. Dần dần, đầu óc của quân nhân Pháp cũng thay đổi. Họ đã hiểu rằng, không phải họ chiến đấu cho nước Pháp, mà họ chiến đấu cho một dân tộc, dân tộc Việt Nam, để dân tộc khốn khổ này không bị rơi vào tay cộng sản. Họ chiến đấu cho nhân loại.
Frédéric Mitterand : Nhưng ngài cũng xót xa vì cuộc chiến tranh này, vì người cộng sản Việt Nam cũng là đồng bào của ngài?
- Bảo Đại : Đương nhiên tôi cũng hiểu rằng đây là cuộc nội chiến khốc liệt.
- Frédéric Mitterand : Cũng vào lúc ấy, phải chăng ta đã thua trên một mặt trận khác? Giới truyền thông đã hiểu rõ những gì ngài muốn làm không? Giới báo chí đã hiểu rõ những gì ngài muốn làm không? Cái thời mà người ta kể mọi thứ về vua Bảo Đại? (Biện minh)
- Bảo Đại : Tất cả điều đó đều không quan trọng. Điều quan trọng, theo tôi là giới truyển thông đã chỉ trích quân đội Pháp đang chiến đấu ở Đông Dương. Họ không hiểu vì sao các thanh niên lại đi đánh như thế. Tôi có cắt nghĩa rằng các thanh niên ấy chiến đấu vì chúng tôi. Báo chí Pháp hoàn toàn không hiểu. Thậm chí chính phủ Pháp thời đó cũng không hiểu.
Frédéric Mitterand : Lúc ấy, ngài hay trở về Pháp. Ngài có nhiều tiếp xúc với người Pháp. Ngài có cảm thấy rằng chính sách ấy đang suy sụp? Ngài có cảm tưởng thế nào khi thấy cuộc chiến không thể kết thúc?
-Bảo Đại : Chiến tranh thời đó không có lính “nghĩa vụ” Pháp. Chỉ có lính tình nguyện. Dư luận Pháp đã rất hiểu lầm về cuộc chiến này.
Frédéric Mitterand : Có thể thắng được cuộc chiến này không?
- Bảo Đại : Với điều kiện không phải tung ra tất cả mọi phương tiện. Tình hình khả quan cho đến lúc nước Pháp ở trong thế phải cầu hòa, từ đó mới có vụ Điện Biên Phủ. Vì sao lúc đó, đối với nước Pháp, người ta muốn chấm dứt chiến tranh. Xin ông nhớ lại chiến tranh Triều Tiên. Cần phải chấm dứt hai cuộc chiến. Từ đó, cần có cuộc họp thượng đỉnh, là Hội nghị Geneve.
Frédéric Mitterand : Trong cuốn hồi ký của ngài, ngài có nói : “bỗng nhiên có cảm giác một sự trống rỗng”.
- Bảo Đại :Lúc ấy, quân đội của tôi chưa có khả năng hoàn toàn tác chiến. Cần phải vài năm nữa, quân đội của tôi mới có thể thay thế quân đội Pháp. Vì vậy, tôi đã nói với tướng Salan là Tổng tư lệnh thời ấy : Không nên có những cuộc hành quân lớn; không nên hy sinh nhân lực; hãy tạo một loại bình phong để tôi có thể củng cố quân đội Quốc gia, tạo cho nó khả năng tác chiến. Khổ thay, nước Pháp muốn chấm dứt cuộc chiến; tiếp theo Hội nghị Berlin là Hội nghị Geneve; người ta muốn mở rộng các cuộc hành quân, trái với những gì tôi đã yêu cầu Salan; từ đó đưa đến Điện Biên Phủ; Điện Biên Phủ là một kế hoạch đã kết thúc trong sự thảm bại (của Pháp).
Frédéric Mitterand : Đã có quyết định đẩy nhanh trận Điện Biên Phủ. Trận Điện Biên Phủ thảm bại, khủng khiếp, nhưng có thể khắc phục được. Trên thực tế thì đã có quyết định bỏ rơi Việt Nam cho cộng sản?
- Bảo Đại : Không phải bỏ toàn thể nước Việt Nam, nhưng Geneve nước Việt Nam bị chia đôi, một phần cho cộng sản, một phần cho quốc gia. Ngoài ra, phe cộng sản được chia nhiều hơn là họ mong đợi.
Frédéric Mitterand : Chính vì lúc đó thì ông Diệm trở lại chính trường?
Bảo Đại : Vì Việt Nam bị cắt làm đôi, tôi không còn một vai trò nào nữa. Tôi mời ông Diệm ra cầm quyền. Vì sao ông Diệm? Vì ông Diệm đại diện cho một ý thức hệ : đó là một người công giáo có thể ngăn chặn được ý thức hệ cộng sản.
Frédéric Mitterand : Ông Diệm trước đó đã luôn luôn bày tỏ lòng trung thành đối với ngài? Nay đã có một bước ngoặt, điều gì đã xảy ra?
- Bảo Đại : Ông ta bị giật giây bởi toàn bộ gia đình ông ta, và cũng bởi các quan thầy Mỹ. Khi tôi yêu cầu ông Diệm cầm quyền, tôi có nói việc này cho Bộ trưởng ngoại giao Mỹ Foster Dulles. Lúc ấy ông ta không muốn ông Diệm. Một thời gian sau, tôi mới hiểu vì sao. Bởi vì người Mỹ chưa sẵn sàng nắm nước Việt Nam, họ muốn giữ lại vai trò ông Diệm làm dự phòng, để tung ra khi thuận tiện.
Frédéric Mitterand :Mục đích của ông Diệm? Một chế độ gia đình trị?
- Bảo Đại : Ông không có mục đích chính xác. Dẫu sao ông ta cũng không có tham vọng dựng lên một triều đại. Ông ta muốn cai trị theo một loại độc tài con, nói đúng hơn, đó là một chế độ độc tài gia đình trị.
- Frédéric Mitterand : Ở Triều Tiên thời đó có Lý Thừa Vãn?
- Bảo Đại : Và có Magsaysay ở Phi Luật Tân.
Frédéric Mitterand : Ngài có thấy người Mỹ chú ý đến Việt Nam? Ngài có thấy bóng dáng người Mỹ sau các sự kiện này?
- Bảo Đại : Tôi thấy rất rõ là người Mỹ muốn có mặt ở Thái Bình Dương. Chiến tranh Algerie đã bắt đầu. Người Mỹ đã làm một loại trao đổi : để cho nước Pháp giải quyết vấn đề Algerie, và nước Pháp rút chân ra khỏi Việt Nam, nhường chỗ cho nước Mỹ.
Frédéric Mitterand : Khi Hiệp ước Geneve được ký kết, và ông Diệm lần lần cũng có quyền lực ở Việt Nam, thì ngài ở Pháp. Ngài có nghỉ chuyện trở về Việt Nam?
- Bảo Đại : Không, hoàn toàn không. Đối với tôi, thế là hết. Tôi đã nói với các đồng minh của tôi và các nước ủng hộ tôi: Vai trò của tôi đã chấm dứt, hoặc tôi là chủ từ bắc chí nam, hoặc tôi là không gì hết. Vì quý vị đã cắt đất nước của tôi làm hai, tôi sẽ cử một người đứng ra, coi phần còn lại, do đó có ông Diệm.
Frédéric Mitterand : Ngài thấy thế nào khi ông Diệm tuyên bố nền cộng hòa sau một cuộc trưng cầu dân ý? Cảm tưởng của ngài thế nào?
- Bảo Đại : Tôi biết trước chuyện này sẽ xảy ra. Tôi hoàn toàn không bị bất ngờ, bởi vì mọi thứ đã được xếp đặt trước. Tôi không muốn nhảy xuống vũ đài để bảo vệ cái thế của tôi.
Frédéric Mitterand : Năm 1955, ngài có nghỉ rằng chắc chắn chiến tranh sẽ tái tục, hay có thể giữ nguyên trạng trong một thời gian dài?
- Bảo Đại : Tôi đã hy vọng giữ nguyên trạng như nước Đức : Tây Đức và Đông Đức. Tôi đã nghỉ rằng miền Nam giàu hơn miền Bắc, sẽ thu hút người miền Bắc. Xui thay, sự việc xảy ra đã không phải như thế. Tôi cũng biết người Mỹ có mặt trong vụ này.
Frédéric Mitterand : Người con bình thản trong cung điện Huế ngày xưa, bây giờ chịu đựng các phán xét tiêu cực hay sự im lặng, hay ngài đã đau khổ?
- Bảo Đại : Không, hoàn toàn không. Tôi đã trở lại thời thơ ấu, đây là một thái độ đúng. Chính nhờ cái giáo dục ấy mà tôi đã giữ được mọi sự thanh thản trong lòng.
Frédéric Mitterand : Bây giờ, ngài đã sống tại Pháp hơn 35 năm nay, một cuộc sống giản dị, rất đứng đắn nhưng không có nhiều phương tiện. Dẫu sao cũng có nhiều người biết ngài, và rõ ràng rất thích quan hệ với ngài. Ngài đã thích nghi với đời sống ở đây như thế nào?
- Bảo Đại : Tôi đã thích nghi rất tốt với đời sống ở Pháp. Tôi đã đến đất nước này khi còn rất trẻ. Tôi cũng có thể trở về nước tôi nhưng tôi thích ở Pháp hơn bởi vì tôi biết rõ tính tình người Pháp. Tôi cảm thấy ở đây, ở Pháp, hoàn toàn như ở quê tôi.
Frédéric Mitterand : Nhưng đồng thời hình ảnh nước Việt Nam luôn luôn hiện ra trong đời sống của ngài?
- Bảo Đại : Tôi luôn luôn nhớ đến thần dân khốn khổ của tôi.
Frédéric Mitterand : “Tôi xa quê cha đất tổ thế là 25 năm” – Ngài đã viết như thế cách đây 10 năm- “25 năm trên đất Pháp, trên mảnh đất đã đón nhận tôi, với bao nhiêu kỷ niệm thời niên thiếu- Từ khi hoàng hậu Nam Phương qua đời, tình thương đã bị cướp mất quá sớm, và từ khi các con tôi bay xa, tôi thường là một người đơn chiếc. Tôi đã nếm qua và tôi đã sống qua những gì mà nhân dân tôi đang nếm qua và đang sống trong lúc này – nơi thì lòng bao dung, tình bằng hữu, nơi thì hiểu lầm, ác ý; sự đầm ấm khi gặp lại bạn cũ, sự lạnh lẽo của cảnh cô đơn. Trong thời gian đó, tôi luôn luôn sống theo nhịp tim của những người sống trong lo âu, bối rối. Tự đặt mình vào hoàn cảnh của họ, lòng tôi luôn luôn ôm ấp cùng một nguồn hy vọng”. Rồi một ngày kia, khi vua Bảo Đại không còn nữa, ông Vĩnh Thụy không còn nữa, ở Việt Nam còn có những người tưởng nhớ đến công đức của ngài không?
- Bảo Đại : Không phải tôi là người nói đến việc này. Xin để cho nhân dân tôi phán xét, xin để cho lịch sử phán xét tôi.