(VTC News) - Tôi liền lệnh cho toàn trung đổi vị trí chiến đấu, chỉ huy cối 60, ĐKZ kiềm chế ngăn chặn địch, trung liên B40, B41 chờ địch vào tầm bắn hiệu quả đồng loạt nổ sung tiêu diệt. Quân Trung Quốc bị đánh vỗ mặt bất ngờ, đổ như ngả rạ.
Về cuộc chiến trên điểm cao 1509 (Núi Đất, Vị Xuyên, Hà Giang), có rất nhiều tài liệu không chính thống được tung lên trên mạng, gây dư luận đồn đoán, nhiều suy diễn. Phóng viên đã tiến hành gặp gỡ những nhân chứng trực tiếp chiến đấu trên điểm cao 1509, ghi lại những ký ức suốt đời không bao giờ quên của họ qua loạt bài: Cuộc tử chiến bi hùng trên núi Đất.
Mới đây, tòa soạn nhận được hồi ký của cựu binh Đỗ Minh Sáng (Sơn Dương, Tuyên Quang). Ông Sáng là người cuối cùng rút khỏi 1509, khi quân Trung Quốc dùng chiến thuật biển người tràn lên lấn chiếm. Đạn hết, thương vong quá lớn, các chiến sỹ buộc phải rút lui bảo toàn lực lượng, chờ dịp phản kích. Đến cuối năm 1989, quân Trung Quốc chính thức rút hết quân đội ra khỏi những cao điểm đã lấn chiếm trong cuộc chiến biên giới Vị Xuyên 1984-1989.
Chúng tôi xin được đăng lại hồi ký 1509 của cựu binh Đỗ Minh Sáng, để bạn đọc hiểu hơn về cuộc chiến bi hùng này:
Sorry, no compatible source and playback technology were found for this video. Try using another browser like Chrome or download the latest Adobe Flash Player.
Tôi là Đỗ Minh Sáng, nguyên Trung đội trưởng Trung đội 3, Đại đội 6, Tiểu đoàn 2, Trung đoàn 122, Sư đoàn 313. Tháng 7/1983 tôi được điều về nhận công tác tại đại đội 6, được giao nhiệm vụ chốt giữ trên đỉnh điểm cao 1509 .
Nhớ lại những ngày đầu về đơn vị đến bây giờ tôi vẫn không sao quên được cán bộ chiến sỹ yêu thương đùm bọc nhau như anh em một nhà. Cuộc sống của người lính trên chốt cực kì thiếu thốn , quần áo mỏng manh, cơm có bữa không no, đường dốc gập ghềnh lắm suối nhiều khe, đôi lúc xe hỏng hàng không tới được, gạo sấy khoai mì, “bát canh toàn quốc”, “nước chấm đại dương” đỡ lúc đói lòng, có bữa cơm toàn muối trắng, sinh hoạt tinh thần còn bao thiếu thốn, cả năm trời mới có 1 lần phim, báo Đảng ít có để xem, đại đội 1 tờ mấy khi đã tới.
Bẵng đi 1 thời gian có vẻ là yên bình, đúng vào ngày 2/4/1984 khoảng 8h00 phút, từ bên kia biên giới pháo cối các loại của Trung Quốc đồng loạt trút đạn xuống các điểm tựa phòng ngự của ta và bắn sâu vào tận KM 4 đường Hà Giang đi Thanh Thủy. Chúng mở màn chiến dịch lấn chiếm các điểm cao dọc tuyến biên giới Hà Tuyên giáp với Trung Quốc trong đó có điểm cao 1509.
Kể từ ngày 02/04 đến 28/4 năm 1984, ngày nào Trung Quốc cũng bắn hàng ngàn đạn pháo cối các loại, không hề có quy luật nào. Chúng nhằm tiêu hao sinh lực và phá hoại các công sự trận địa kiên cố của ta, phục vụ cho ý đồ tiền công bộ binh của chúng.
Những ngày này, tinh thần chiến đấu của cán bộ chiến sỹ lên cao chất ngất, quyết tâm bám trụ 1 tấc không đi 1 ly không rời, chờ quân Trung Quốc xâm lược vào là nổ súng tiêu diệt ngay từ loạt đạn đầu.
Đêm 27/4/1984 một đêm có thể nói là yên bình không 1 tiếng pháo, trời quang mây, gió rít từng cơn.
Tự dưng tôi có một linh tính khác lạ, liền hội ý nhanh với các A trưởng (tiểu đội trưởng) nhận định tình hình có thể địch ém quân chuẩn bị cho đánh bộ binh và trực tiếp xuống báo cáo tình hình và xin ý kiến chỉ đạo của đồng chí Đại đội trưởng.
Đúng như nhận định, lúc 05h00 phút ngày 28/4/1984, chúng đã đồng loạt bắn pháo sang các cao điểm 1509,772, 1545… mở màn cho chiến dịch tiến công bộ binh. 05h30 phút, theo chiến thuật, pháo địch chuyển làn cho bộ binh xung phong.
Tôi băng ra khỏi hầm vận động kiểm tra các vị trí chiến đấu của các tiểu đội 7,8,9 vẫn an toàn, duy nhất có khẩu đại liên đã bị DKZ82 của địch phá hỏng. Tiếng nổ chát chúa vẫn ở trên đầu. Thì ra quân Trung Quốc bắn pháo giấy. Quân địch thổi từng loạt còi chiến thuật, hò nhau xung phong. Đi đầu là lực lượng dân binh, mặc áo đen tiếp sau là lực lượng chủ lực đầu đội mũ có sao quần áo màu xanh lá cây. Cứ 1 thằng bắn có 3 thằng gùi đạn và sẵn sàng chuyển thương binh tử sỹ.
Video: Chiến tranh biên giới - Hãy về đây đồng đội ơi!
Tôi liền lệnh cho toàn trung đội đổi vị trí chiến đấu, chỉ huy cối 60, ĐKZ kiềm chế ngăn chặn địch, trung liên B40, B41 chờ địch vào tầm bắn hiệu quả đồng loạt nổ sung tiêu diệt. Quân Trung Quốc bị đánh vỗ mặt bất ngờ, đổ như ngả rạ. Tôi vận động hết tiểu đội này đến tiểu đội khác động viên bộ đội phối hợp nhịp nhàng, chủ động nổ súng. Quân Trung Quốc buộc phải dừng lại gọi pháo chi viện, rồi lại tiếp tục tiến công. Chúng chơi chiến thuật lấy thịt đè người, lớp này ngã xuống lớp khác lại ào lên thay (1 quả pháo hoặc 1 quả ĐKZ nổ trúng đội hình của địch khói chưa tan đã thấy quân địch lóp ngóp xông lên). Lúc này, ở một số vị trí đã bắt đầu có thương vong.
8h30 phút quan sát hướng Trung đội 1 (Đồi Cây Khô) địch đã chiếm được 1 phần trận địa, tôi chỉ huy đội đại liên bắn chi viện cho Đồi Cây Khô. Đang vận động từ khẩu đội đại liên về A7 thì bất ngờ 1 quả cối của địch nổ ngay sát mép hào, trúng hố bắn của đồng chí Hải khiến anh hy sinh tại chỗ. Tôi bị thương vào đầu. Nhận thấy lúc này không thể xa rời đồng đội, lại tiếp tục chiến đấu giữ vững trận địa.
Sau khi địch chiếm được đồi cây khô nơi trận địa phòng ngự của Trung đội 1, chúng lập tức củng cố đội hình, phối hợp với các lực lượng khác tổ chức nhiều đợt tấn công lên đỉnh cao điểm 1509. Sức ép lúc này quá lớn, tính ra là 1 chọi với 20. Chúng tôi bị thương vong đáng kể, một số đồng chí đã cơ động lên được đỉnh 1509 bổ sung cho đơn vị, quyết tâm giữ vững trận địa.
Đến 11 giờ, ở hướng Tiểu đội 7, địch đã áp sát vào chiến hào, tôi liền lệnh cho tiểu đội 7 điểm hóa mìn định hướng. Một tiếng nổ long trời lở đất vang lên, cây cối cùng xác địch bay xa hàng chục mét. Chúng khiếp hãi lùi ra xa đồng thời tiếp tục gọi pháo, cối bắn cấp tập vào trận địa phòng ngự. Sau khi pháo chuyển làn quân Trung Quốc lại tiếp tục hò nhau xông lên.
Lúc này đạn cối 60 còn rất ít, tôi phải lệnh cho xạ thủ ĐKZ 82 Nguyễn Văn Hùng trực tiếp bắn tiêu diệt bộ binh địch. Mỗi một quả đạn ĐKZ nổ hàng chục tên địch tan xác, nhưng chúng quá đông, cộng với hoản lực chi viện của địch bắn như mưa, nên cứ lớp này ngã xuống lớp khác lại xông lên.
Đến 11h 30 phút, trận địa của Tiểu đội 8, Tiểu đội 9 vẫn giữ vững. Hướng Tiểu đội 7 địch đã bám được vào đường hào râu tôm. Tôi trực tiếp chỉ huy lực lượng Tiểu đội 7 phản kích khôi phục lại trận địa. Cay cú không làm gì được, chúng dùng súng phun lửa bắn vào hào hòng hủy diệt các chiến sĩ.
Sau khi hầm chỉ huy đại đội bị địch chiếm, tôi động viên anh em tiếp tục chiến đấu. Quân số ở trên đỉnh lúc này bị thương vong rất nhiều. Đến 14h,một lần nữa chúng lại bắn pháo như vãi trấu. Lúc này, ĐKZ82 của xạ thủ Hùng hết đạn, chỉ còn số lượng ít đạn B41. Tình thế lúc này ngàn cân treo sợi tóc.
Lại một lần nữa chúng đột nhập được vào hào của Tiểu đội 7, bắn mạnh vào sườn phải của trung đội, đạn đã hết. Sau khi báo cáo lên cấp trên và nhận được chỉ thị, tôi lệnh cho trung đội tổ chức rút. Tôi và đồng chí A trưởng A7, đồng chí Tuấn tổ đài cối 120 lợi dụng địa hình địa vật nổ súng ngăn chặn không cho địch phát triển, số còn lại dìu thương binh rút dần theo hướng tiểu đoàn.
Tôi là người cuối cùng rút khỏi đỉnh 1509 vào lúc 15h15 phút ngày 28/4/1984. Trên đường rút xuống bình độ 1200 mới được anh em đồng chí, đồng đội băng bó vết thương ở vai phải. Tôi bất tỉnh không biết gì nữa, khi tỉnh dậy thì đã thấy mình nằm ở phẫu của trung đoàn tại làng Pình.
Đó là trận chiến lớn nhất trong cuộc đời của tôi. Lúc tỉnh dậy ở trạm phẫu, tôi đã khóc, đã xin phép cấp trên được quay trở lại chiến đấu, được nhìn thấy lá cờ Tổ quốc tung bay trên đỉnh 1509. Nhưng mọi người không cho phép khi thấy tôi thương tích khá nặng. Về sau, tôi được điều chuyển sang nhận nhiệm vụ ở đơn vị khác.
Tôi đã nhiều lần trở lại với Vị Xuyên, nhưng không thể lên lại được 1509, nơi tôi cùng với đồng đội đã từng một thời vào sinh ra tử. Người dân bản địa ngăn lại, họ bảo rằng trên ấy nguy hiểm lắm, đầy rẫy bom mìn. Điều quan trọng nhất, 1509 vẫn thuộc về tổ quốc.
Với tôi, 1509 mãi mãi là quê hương thứ 2, là máu thịt của mình.
Đỗ Minh Sáng
Người Dao, người Mông Vị Xuyên vẫn quyết bám núi, giữ đất biên cương …
Phạm Viết Đào.
Đền tưởng niệm các liệt sĩ Vị Xuyên tại điểm cao 468
Chiều 18/6/2016, sau khi ghé qua khu đền tưởng niệm được xây dựng tại điểm cao 468, từ khuôn viên ngôi đền, tôi nhìn qua cao điểm 685, được mệnh danh là “ Lò vôi thế kỷ” và cao điểm 772, được mệnh danh là “ Đồi thịt băm”, thấy lác đác mấy chục ngôi nhà sàn nằm rải rác trên sườn núi và những khu ruộng bậc thang xen kẽ; tôi nẩy ra ý định phi xe theo sườn núi theo đường mòn sẵn để đến tận 772, nơi chú em tôi đã ngã xuống và để xem bà con sinh cơ lập nghiệp ra sao…
Nhà đồng bào người Dao trên sườn Cao điểm 772-Đồi thịt băm...
Từ khu vực ngã ba Thanh Thủy, bằng phương tiện xe máy, lên được lên đây tôi luôn phải cài xe số 1 và số 2 vì đường thường dốc 45 độ…
Từ độ cao 468, đường đã được rải bê tông, còn từ 468, con đường men tới cao điểm 772 thì chỉ là đường đất được san ủi, xe máy có thể đi được khi trời nắng ráo.
Ruộng bậc thang dưới chân Cao điểm 685-Lò vôi thế kỷ
Xe đi vòng qua dãy đồi 600, gần cao điểm 772, tôi liếc nhìn đồng hồ báo xăng thì thấy xăng sắp hết, tôi hoảng quá, nếu xe hết xăng tại đây thì làm cách nào mà đẩy xe xuống được. Tôi ước để vượt cung đường vòng muốn tới được khu “đồi thịt băm” phải leo dốc vòng khoảng vài ba km… Tôi đành dừng lại tiếc nuối, không đi tiếp được, đành hẹn lần sau…
Chú em tôi, Ls Phạm Hữu Tạo là Trung đội trưởng của Đại đội 2 tiểu đoàn 1 trung đoàn 876, sư 356, được giao nhiệm vụ đánh chiếm lại Cao điểm 772 trong trận 12/7/1984.
Đầu năm 1985, khi nghe tin chú hy sinh, tôi đã lên thành phố Hà Giang, đến tận tiểu đoàn 1, gặp lại các chiến sĩ từng đánh trận 12/7/1984 để tìm hiểu về chú hy sinh như thế nào. Khi tôi đến đơn vị, lúc đó đóng quân ở khu vực Phương Độ; tại tiểu đoàn 1 khoảng 300-400 người, tôi chỉ gặp được 3 chiến sĩ có tham gia trận đánh 12/7 biết chú em tôi, số còn lại là lính mới điều chuyển tới…
Tôi được biết tiểu đoàn 1của trung đoàn 876 được giao nhiệm vụ vòng sang phía giáp với Trung Quốc để chặn đường rút lui và tiếp viện của lính Trung Quốc…Tiểu đoàn 1 là tiểu đoàn chịu thiệt hại nặng nề nhất; Sau này qua nhiều nguồn tin, trung đoàn 876 thuộc 356 được đưa vào đánh trận này hy sinh mất hơn 600 chiến sĩ…
Cao điểm 772-Đồi thịt băm giờ là ruộng bậc thang
Một đồng đội cho biết: khi đơn vị áp sát chiến hào 1 của Trung Quốc cách quãng 300 m thì không tiến lên được vì “ vành đai lửa” của pháo binh Trung Quốc dăng lên dày đặc…
Tạo chỉ huy 1 trung đội của Đại đội 2, là trung đội phía sau, Tạo thấy phía trước không tiến lên được, sốt ruột bò lên, khi sắp lên đến tuyến trên thì anh em thấy một quả ĐK của Trung Quốc nổ trùm nơi Tạo bò lên; khói tan, anh em chỉ thấy còn thấy chiếc mũ cối, chiếc thắt lưng da và khẩu AK bị quăn lại và chiếc hố to; vì 1 quả ĐK có chiều dài 1,2 m khi phát nổ không khác gì bom…
Tôi có ý định lên 772 chủ yếu để tưởng niệm, thực ra đi một mình cũng khó có khả năng tìm được chỗ an nghỉ cuối cùng của chú vì khu đồi mênh mông hiện đã được san làm ruộng bậc thang…
Nhà vợ chồng Trương thị Bìu
Tôi đành ghé thăm một gia đình một vợ chồng trẻ người Dao để hỏi thăm bà con sinh sống làm ăn như thế nào…Trương Thị Bìu, một phụ nữ người Dao, sinh năm 1977, lên đây đã 2 năm, ở trong ngôi nhà còn đơn sơ, Bìu cho biết: trước đây gia đình sống ở vùng này, chiến tranh nổ ra nên đã sơ tán xuống Bắc Mê, bây giờ hòa bình rồi, quay lại làng bản cũ để sinh cơ lập nghiệp…
Trương Thị Bìu cho biết: hiện đã có khoảng 50 hộ các gia đình phần lớn là người dân tộc từng sinh sống ở đây quay lại sinh cơ lập nghiệp sau khi đã được bộ đội rà phá bom mìn. Nhà Bìu đối diện với khu trường học, nhà trẻ mới được chính quyền cho xây dựng trên khuôn viên khoảng 1000 m2 để tạo cơ sở an cư cho dân…
Đối với người miền xuôi: quê hương là cây đa, bến nước, sân đình; Còn đối với người Mèo, người Dao Vị Xuyên-Hà Giang, mảnh đất thiêng của họ là những vách đá tai mèo nơi gửi gắm năm này qua năm khác những hốc ngô; những chân ruộng bậc thang kỳ vĩ, những gốc chè đứng chon von bên sườn núi đá nuôi sống họ…
Đó là những thứ không mang lại nhiều giá trị trao đổi nhưng họ không thể sống thiếu chúng; ngàn đời nay cha ông của họ từng sống thế; họ tiếp tục sống bám núi, bám đá giữ đất.
Những gia đình đi đợt đầu, chính quyền đã cấp cho mỗi gia đình 20 triệu để làm nhà sàn: gỗ chặt tại rừng, phần lớn lợp bằng tấm lợp phibrô xi măng…
Hàng ngày, họ phải phát rẫy để làm lúa nương, trồng chè và nuôi gia súc, lợn gà…Ai có sức làm được bao nhiêu thì làm, không hạn chế. Nhìn qua tôi nhận thấy đất ở đây có vẻ tốt…
Vợ chồng Bìu cho biết, trước khi lên đây, đã được bộ đội cho rà phá bom mìn nhưng chưa hết nên thỉnh thoảng vẫn có người, gia súc bị vướng bom mìn, bị thương…
Vì cuộc sống nên bà con vẫn phải bám núi, bám bản, bám đất để canh giữ đất của cha ông…
Bìu cho biết: Thỉnh thoảng gà, gia súc vẫn lăn đùng ra chết vì ăn phải cây cỏ mọc lên từ đất nhuốm nặng thuốc bom đạn…
Nước thì bà con xuống con suối Thanh Thủy chảy ở dưới chân, dùng máy bơm bơm lên; Bà con dùng thủy điện nhỏ bằng máy móc Trung Quốc để tạo nguồn sáng đủ để thắp và xem được TV…
Tôi hỏi: bà con ở gần Trung Quốc thế này không sợ sao ? Ở đây có nhiều bộ đội hy sinh, đêm có sợ ma không ?
Vợ chồng Bìu đếu nói là không sợ, chỉ sợ bom mìn còn sót lại thôi. Hiện bà con mới làm ruộng làm nương rẫy men men theo 2 ngọn đồi 772 và 685, còn chưa men tới Cao điểm 1509…Đã có một vài bà con vào khu vực 1509 nhưng bị lính Trung Quốc đe dọa, đuổi đi, mặc dù theo hiệp định phân định biên giới mới, mé sường 1509, từ bình độ 1200 là của Việt Nam…
Ngọn núi có mây che phủ là đỉnh của Cao điểm 1509...
Bà con người Dao, người Mông lên đây còn ít, đất rừng còn mênh mông, bà con lên chưa đông vì đường sá đèo dốc và e ngại bom đạn còn sót lại. Theo vợ chồng Bìu cho biết: hiện mà con làm nương rẫy thỉnh thoảng vẫn nhặt được xương cốt của bộ đội ta và cả những khẩu AK còn nguyên…
Tôi hỏi: Thế gia đình có đặc sản gì tự sản xuất ra bán được không? Hai vợ chồng chìa chè ra cho biết: đây là chè họ tự trồng, tự sao; Tôi bảo pha uống thử xem ? Thấy khá ngon, tôi bảo vợ chồng bán cho tôi 1 kg, cả 2 vợ chồng rất mừng?
Tôi gợi ý: vận động bà con trồng nhiều chè và ghi vào nhãn bao bì “Chè 1509” hoặc “Chè Lão Sơn”, “ Chè 772” hoặc “ Chè 685”, chắc chắn sẽ nhiều người mua…Vì những cây chè mọc độ cao trên 1000 m có vị rất đặc trưng và đất tại 772 và 685 có vẻ hợp với đất chè…
Trên đường quay lại Hà Giang, tôi nẩy ra sáng kiến, vả lại xăng trong bình đã cạn: không nổ máy, cài số 0 và cho xe cứ thế lao xuống; Xe từ trên 772 lao tới tận “suối oan hồn” mà không phải nổ máy, thật thú vị…
Suối oan hồn...
Con suối oan hồn nằm ở cửa ngõ vào khu ngã ba Thanh Thủy giáp thôn Nậm Ngặt, thời chiến tranh khu vực ngã ba Thanh Thủy được gọi đây là “ Cối xay thịt”, vì ngày đêm pháo Trung Quốc bắn phá ác liệt để chặn việc tiếp tế từ Hà Giang lên các cao điểm tranh chấp…
Còn suối sở dĩ mang tên là “suối oan hồn” vì thời chiến tranh, bộ đội bị thương trên các cao điểm tranh chấp được cáng về đều phải qua con suối này; nhiều thương binh do khát uống quá nhiều nước nên đã gục chết nhiều tại bờ suối này…
Đền tưởng niệm các liệt sĩ Vị Xuyên tại điểm cao 468
Chiều 18/6/2016, sau khi ghé qua khu đền tưởng niệm được xây dựng tại điểm cao 468, từ khuôn viên ngôi đền, tôi nhìn qua cao điểm 685, được mệnh danh là “ Lò vôi thế kỷ” và cao điểm 772, được mệnh danh là “ Đồi thịt băm”, thấy lác đác mấy chục ngôi nhà sàn nằm rải rác trên sườn núi và những khu ruộng bậc thang xen kẽ; tôi nẩy ra ý định phi xe theo sườn núi theo đường mòn sẵn để đến tận 772, nơi chú em tôi đã ngã xuống và để xem bà con sinh cơ lập nghiệp ra sao…
Nhà đồng bào người Dao trên sườn Cao điểm 772-Đồi thịt băm...
Từ khu vực ngã ba Thanh Thủy, bằng phương tiện xe máy, lên được lên đây tôi luôn phải cài xe số 1 và số 2 vì đường thường dốc 45 độ…
Từ độ cao 468, đường đã được rải bê tông, còn từ 468, con đường men tới cao điểm 772 thì chỉ là đường đất được san ủi, xe máy có thể đi được khi trời nắng ráo.
Ruộng bậc thang dưới chân Cao điểm 685-Lò vôi thế kỷ
Xe đi vòng qua dãy đồi 600, gần cao điểm 772, tôi liếc nhìn đồng hồ báo xăng thì thấy xăng sắp hết, tôi hoảng quá, nếu xe hết xăng tại đây thì làm cách nào mà đẩy xe xuống được. Tôi ước để vượt cung đường vòng muốn tới được khu “đồi thịt băm” phải leo dốc vòng khoảng vài ba km… Tôi đành dừng lại tiếc nuối, không đi tiếp được, đành hẹn lần sau…
Chú em tôi, Ls Phạm Hữu Tạo là Trung đội trưởng của Đại đội 2 tiểu đoàn 1 trung đoàn 876, sư 356, được giao nhiệm vụ đánh chiếm lại Cao điểm 772 trong trận 12/7/1984.
Đầu năm 1985, khi nghe tin chú hy sinh, tôi đã lên thành phố Hà Giang, đến tận tiểu đoàn 1, gặp lại các chiến sĩ từng đánh trận 12/7/1984 để tìm hiểu về chú hy sinh như thế nào. Khi tôi đến đơn vị, lúc đó đóng quân ở khu vực Phương Độ; tại tiểu đoàn 1 khoảng 300-400 người, tôi chỉ gặp được 3 chiến sĩ có tham gia trận đánh 12/7 biết chú em tôi, số còn lại là lính mới điều chuyển tới…
Tôi được biết tiểu đoàn 1của trung đoàn 876 được giao nhiệm vụ vòng sang phía giáp với Trung Quốc để chặn đường rút lui và tiếp viện của lính Trung Quốc…Tiểu đoàn 1 là tiểu đoàn chịu thiệt hại nặng nề nhất; Sau này qua nhiều nguồn tin, trung đoàn 876 thuộc 356 được đưa vào đánh trận này hy sinh mất hơn 600 chiến sĩ…
Cao điểm 772-Đồi thịt băm giờ là ruộng bậc thang
Một đồng đội cho biết: khi đơn vị áp sát chiến hào 1 của Trung Quốc cách quãng 300 m thì không tiến lên được vì “ vành đai lửa” của pháo binh Trung Quốc dăng lên dày đặc…
Một đồng đội cho biết: khi đơn vị áp sát chiến hào 1 của Trung Quốc cách quãng 300 m thì không tiến lên được vì “ vành đai lửa” của pháo binh Trung Quốc dăng lên dày đặc…
Tạo chỉ huy 1 trung đội của Đại đội 2, là trung đội phía sau, Tạo thấy phía trước không tiến lên được, sốt ruột bò lên, khi sắp lên đến tuyến trên thì anh em thấy một quả ĐK của Trung Quốc nổ trùm nơi Tạo bò lên; khói tan, anh em chỉ thấy còn thấy chiếc mũ cối, chiếc thắt lưng da và khẩu AK bị quăn lại và chiếc hố to; vì 1 quả ĐK có chiều dài 1,2 m khi phát nổ không khác gì bom…
Tôi có ý định lên 772 chủ yếu để tưởng niệm, thực ra đi một mình cũng khó có khả năng tìm được chỗ an nghỉ cuối cùng của chú vì khu đồi mênh mông hiện đã được san làm ruộng bậc thang…
Nhà vợ chồng Trương thị Bìu
Tôi đành ghé thăm một gia đình một vợ chồng trẻ người Dao để hỏi thăm bà con sinh sống làm ăn như thế nào…Trương Thị Bìu, một phụ nữ người Dao, sinh năm 1977, lên đây đã 2 năm, ở trong ngôi nhà còn đơn sơ, Bìu cho biết: trước đây gia đình sống ở vùng này, chiến tranh nổ ra nên đã sơ tán xuống Bắc Mê, bây giờ hòa bình rồi, quay lại làng bản cũ để sinh cơ lập nghiệp…
Trương Thị Bìu cho biết: hiện đã có khoảng 50 hộ các gia đình phần lớn là người dân tộc từng sinh sống ở đây quay lại sinh cơ lập nghiệp sau khi đã được bộ đội rà phá bom mìn. Nhà Bìu đối diện với khu trường học, nhà trẻ mới được chính quyền cho xây dựng trên khuôn viên khoảng 1000 m2 để tạo cơ sở an cư cho dân…
Đối với người miền xuôi: quê hương là cây đa, bến nước, sân đình; Còn đối với người Mèo, người Dao Vị Xuyên-Hà Giang, mảnh đất thiêng của họ là những vách đá tai mèo nơi gửi gắm năm này qua năm khác những hốc ngô; những chân ruộng bậc thang kỳ vĩ, những gốc chè đứng chon von bên sườn núi đá nuôi sống họ…
Đó là những thứ không mang lại nhiều giá trị trao đổi nhưng họ không thể sống thiếu chúng; ngàn đời nay cha ông của họ từng sống thế; họ tiếp tục sống bám núi, bám đá giữ đất.
Những gia đình đi đợt đầu, chính quyền đã cấp cho mỗi gia đình 20 triệu để làm nhà sàn: gỗ chặt tại rừng, phần lớn lợp bằng tấm lợp phibrô xi măng…
Hàng ngày, họ phải phát rẫy để làm lúa nương, trồng chè và nuôi gia súc, lợn gà…Ai có sức làm được bao nhiêu thì làm, không hạn chế. Nhìn qua tôi nhận thấy đất ở đây có vẻ tốt…
Vợ chồng Bìu cho biết, trước khi lên đây, đã được bộ đội cho rà phá bom mìn nhưng chưa hết nên thỉnh thoảng vẫn có người, gia súc bị vướng bom mìn, bị thương…
Vì cuộc sống nên bà con vẫn phải bám núi, bám bản, bám đất để canh giữ đất của cha ông…
Bìu cho biết: Thỉnh thoảng gà, gia súc vẫn lăn đùng ra chết vì ăn phải cây cỏ mọc lên từ đất nhuốm nặng thuốc bom đạn…
Nước thì bà con xuống con suối Thanh Thủy chảy ở dưới chân, dùng máy bơm bơm lên; Bà con dùng thủy điện nhỏ bằng máy móc Trung Quốc để tạo nguồn sáng đủ để thắp và xem được TV…
Tôi hỏi: bà con ở gần Trung Quốc thế này không sợ sao ? Ở đây có nhiều bộ đội hy sinh, đêm có sợ ma không ?
Vợ chồng Bìu đếu nói là không sợ, chỉ sợ bom mìn còn sót lại thôi. Hiện bà con mới làm ruộng làm nương rẫy men men theo 2 ngọn đồi 772 và 685, còn chưa men tới Cao điểm 1509…Đã có một vài bà con vào khu vực 1509 nhưng bị lính Trung Quốc đe dọa, đuổi đi, mặc dù theo hiệp định phân định biên giới mới, mé sường 1509, từ bình độ 1200 là của Việt Nam…
Ngọn núi có mây che phủ là đỉnh của Cao điểm 1509...
Bà con người Dao, người Mông lên đây còn ít, đất rừng còn mênh mông, bà con lên chưa đông vì đường sá đèo dốc và e ngại bom đạn còn sót lại. Theo vợ chồng Bìu cho biết: hiện mà con làm nương rẫy thỉnh thoảng vẫn nhặt được xương cốt của bộ đội ta và cả những khẩu AK còn nguyên…
Tôi hỏi: Thế gia đình có đặc sản gì tự sản xuất ra bán được không? Hai vợ chồng chìa chè ra cho biết: đây là chè họ tự trồng, tự sao; Tôi bảo pha uống thử xem ? Thấy khá ngon, tôi bảo vợ chồng bán cho tôi 1 kg, cả 2 vợ chồng rất mừng?
Tôi gợi ý: vận động bà con trồng nhiều chè và ghi vào nhãn bao bì “Chè 1509” hoặc “Chè Lão Sơn”, “ Chè 772” hoặc “ Chè 685”, chắc chắn sẽ nhiều người mua…Vì những cây chè mọc độ cao trên 1000 m có vị rất đặc trưng và đất tại 772 và 685 có vẻ hợp với đất chè…
Trên đường quay lại Hà Giang, tôi nẩy ra sáng kiến, vả lại xăng trong bình đã cạn: không nổ máy, cài số 0 và cho xe cứ thế lao xuống; Xe từ trên 772 lao tới tận “suối oan hồn” mà không phải nổ máy, thật thú vị…
Suối oan hồn...
Con suối oan hồn nằm ở cửa ngõ vào khu ngã ba Thanh Thủy giáp thôn Nậm Ngặt, thời chiến tranh khu vực ngã ba Thanh Thủy được gọi đây là “ Cối xay thịt”, vì ngày đêm pháo Trung Quốc bắn phá ác liệt để chặn việc tiếp tế từ Hà Giang lên các cao điểm tranh chấp…
Còn suối sở dĩ mang tên là “suối oan hồn” vì thời chiến tranh, bộ đội bị thương trên các cao điểm tranh chấp được cáng về đều phải qua con suối này; nhiều thương binh do khát uống quá nhiều nước nên đã gục chết nhiều tại bờ suối này…