Thứ Sáu, 7 tháng 10, 2016

Biển Đông: Ván Cờ Khó

Việt Nam không nên đứng nghiêng về bên nào hết, vì khiêu khích hay đụng chạm Trung Quốc là tất phải có thiệt hại, nhưng phải suy nghĩ rằng về lâu dài hướng đi phú cường và an toàn tất yếu là phải nhờ vào Hoa Kỳ.


Càng lúc càng hung hiểm... Trong khi Philippines có vẻ như sẽ thân với Trung Quốc, có phải Việt Nam sẽ cô đơn khi áp lực phương Bắc càng lúc càng mạnh...

Trong khi đó, Nga và TQ lộ vẻ thân thiết hơn, các nước bên phe quang minh chính phái như Mỹ-Nhật-Úc không chắc đã rủ thêm bao nhiêu đồng minh nữa để cản bước Hoa Lục.

Bản tin RFI cho biết rằng hai chiến hạm Mỹ đã ghé cảng chiến lược Cam Ranh ở miền Trung Việt Nam ngày 02/10/2016. Trong một bản thông báo, Bộ Tư Lệnh Thái Bình Dương của Mỹ cho biết là khu trục hạm có trang bị tên lửa dẫn đường USS John S. McCain cùng với tầu tiếp liệu tàu ngầm USS Frank Cable đã thăm căn cứ Hải Quân Cam Ranh trong khuôn khổ các Hoạt Động Giao Lưu Hải Quân NEA (Naval Engagement Activity) kỷ niệm 21 năm ngày bình thường hóa bang giao Việt - Mỹ.

Theo hãng tin Anh Reuters, chuyến ghé cảng Cam Ranh đầu tiên của hai chiến hạm Mỹ kể từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1995, đã đánh dấu một bước quan trọng trong tiến trình cải thiện quan hệ quân sự giữa hai kẻ cựu thù.

Chuyến thăm diễn ra sau khi Washington quyết định dỡ bỏ toàn bộ lệnh cấm vận vũ khí đối với Hà Nội vào tháng Năm vừa qua trong khuôn khổ chiến lược xoay trục qua châu Á của tổng thống Barack Obama. Bối cảnh chuyến thăm cũng đáng chú ý vì diễn ra vào lúc vấn đề Biển Đông vẫn gây căng thẳng trong quan hệ Việt Nam-Trung Quốc. Bị Bắc Kinh lấn lướt, Hà Nội ngày càng đa dạng hóa quan hệ và xích lại gần Washington hơn.

Cam Ranh là một căn cứ Hải Quân được đánh giá là có một vị trí chiến lược quan trọng, cho phép kiểm soát vùng Biển Đông. Cho đến nay, hiếm khi Việt Nam cho chiến hạm nước ngoài ghé cảng Cam Ranh. Trước Hoa Kỳ, Cam Ranh đã từng đón tiếp tàu Hải Quân các nước Singapore, Ấn Độ, Nhật Bản và Pháp.

Về phần Hoa Kỳ, các thông tin báo chí trước đây đã nhiều lần tiết lộ rằng phía Mỹ đã ngỏ ý muốn được quyền cập cảng Cam Ranh một cách thường xuyên và dễ dàng hơn.

RFI ghi rằng theo báo The Diplomat, trong một bài viết công bố hôm nay, cũng ghi nhận tính chất lịch sử của chuyến ghé cảng Cam Ranh của hai chiến hạm Mỹ: «Lần đầu tiên từ khi kết thúc cuộc Chiến Tranh Việt Nam vào năm 1975». Vào năm 2012, bộ trưởng Quốc phòng Mỹ lúc ấy là Leon Panetta đã trở thành quan chức Mỹ cao cấp nhất tới thăm Vịnh Cam Ranh kể từ năm 1975. Theo tờ báo của quân đội Mỹ Stars and Stripes thì hai chiến hạm Mỹ đã kết thúc chuyến thăm hôm 04/10.

Trong khi đó, bản tin VOA ghi rằng Tổng thống Philippines sẽ đối mặt những trở ngại lớn theo sau lời đe dọa bớt mua võ khí Mỹ để quay sang mua võ khí Nga và Trung Quốc kể cả việc huấn luyện lại một đội quân đã quá quen làm việc với Hoa Kỳ, theo nhận định của các chuyên gia.

Trong diễn văn tại Manila hôm 4/10, ông Rodrigo Duterte nói Hoa Kỳ không muốn bán phi đạn và các loại võ khí khác cho Philippines, nhưng Nga và Trung Quốc đã ngỏ lời là có thể cung cấp võ khí dễ dàng cho Manila.

Đây là phát biểu mới nhất trong loạt những lời lẽ mang tính đối nghịch với Hoa Kỳ khơi dậy những ngờ vực về mối quan hệ đồng minh lâu năm quan trọng trong chiến lược tái cân bằng của Mỹ tại châu Á trước một Trung Quốc hung hăng.

Phẫn nộ vì Hoa Kỳ bày tỏ quan ngại về chiến dịch bài trừ ma túy tại Philippines, ông Duterte đã gọi Tổng thống Barack Obama là đứa con hoang và đe dọa ngưng tập trận chung với Washington.

Tòa Bạch Ốc hôm 4/10 loan báo Mỹ chưa nhận được liên lạc nào chính thức từ chính quyền Duterte liên quan đến thay đổi mối quan hệ.

Mỹ là nước cung cấp võ khí lớn nhất cho Philippines, theo số liệu của Viện Nghiên cứu Hòa Bình Quốc tế Stockholm.

VOA nhắc rằng Philippines là nước trong khu vực châu Á Thái Bình Dương nhận nhiều quỹ tài trợ của Mỹ nhất, dưới chương trình Viện trợ Tài chính Quân sự Nước ngoài. Chương trình này do Mỹ cung cấp để giúp các nước mua võ khí và thiết bị do Mỹ sản xuất. Trong năm tài khóa 2015, Manila nhận 50 triệu đôla từ chương trình này.

Như vậy, với sự chuyển hướng mà ông Duterte nhắc tới, quân đội Philippines sẽ phải mất nhiều năm để điều chỉnh sự tập trung vào công nghệ võ khí của Nga và Trung Quốc, theo giáo sư Richard Javad Heydarian thuộc đại học De La Salle ở Manila.

Chuyên gia nghiên cứu các vấn đề hàng hải Trung Quốc thuộc trường Navy War College của Mỹ, Lyle Goldstein, cho rằng không đơn giản là mua một radar từ nước này rồi dùng với một phi đạn từ nước khác, các loại võ khí phải vận hành phù hợp với nhau. Ông cũng lưu ý là nhiều sĩ quan Philippines được đào tạo ở Mỹ, nối liền văn hóa quân sự giữa hai nước chặt chẽ.

Philippines năm ngoái chi 3.9 tỷ đôla cho quân sự, theo thống kê của Viện Nghiên cứu Hòa Bình Quốc tế Stockholm.

Một bản tin khác của RFI nêu nghi vấn: Nga và Trung Quốc thông đồng tại Biển Đông?

Bản tin nói rằng quan hệ Nga-Trung dựa trên mong muốn chung là đẩy lùi Hoa Kỳ, chống lại sự phát triển NATO ở châu Âu và chính sách tái cân bằng sang châu Á-Thái Bình Dương của Mỹ. Các biện pháp trừng phạt do Mỹ và châu Âu áp đặt đối với Nga đã ảnh hưởng đến nền kinh tế nước này, Nga cần thị trường mới để xuất khẩu năng lượng, đặc biệt là dầu khí. Trung Quốc đã ký kết một hợp đồng lớn mua khí đốt của Nga, và là một thị trường rộng lớn cho vũ khí và công nghệ Nga.

Vấn đề là, theo Giáo sư Carl Thayer, ông Putin chắc chắn đang cố gắng tìm cách lấy lòng Trung Quốc, cho dù phải trả cái giá là ảnh hưởng đến những mối quan hệ bằng hữu xưa nay trong khu vực.

Nga và Việt Nam thỏa thuận rằng tranh chấp lãnh thổ trên Biển Đông phải được giải quyết một cách hòa bình bởi các bên liên quan. Nhưng Nga không tôn trọng quan điểm của Việt Nam là khi liên quan đến lợi ích của bên thứ ba trong khu vực, thì bên thứ ba này phải được tham gia đàm phán. Việt Nam ghi nhận lợi ích của các bên ngoài khu vực, đặc biệt khi liên quan đến tự do hàng hải và hàng không.

Theo giáo sư Carl Thayer, những gì chúng ta trông thấy có thể nói một cách chính xác hơn là sự hợp tác nhất thời vì những lợi ích giới hạn, chứ không phải là một cam kết chiến lược sâu sắc giữa Nga và Trung Quốc.

Trong khi đó, báo Xã Luận ghi rằng, theo phân tích của BMI Research, ứng cử viên Hillary Clinton là người ủng hộ chiến lược "trục châu Á" điều này đồng nghĩa với việc kiềm chế sự trỗi dậy của Trung Quốc trên Biển Đông. Trong khi, Tổng thống Duterte lại muốn thi hành chính sách ngoại giao độc lập hơn và sẽ không bắt tay với Mỹ để chống lại Trung Quốc. Còn ứng cử viên Donald Trump đã nhiều lần đặt ra câu hỏi tại sao Mỹ phải duy trì mối quan hệ đồng minh lâu đời với các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, NATO và Ả Rập Xê-út cũng như hiệp ước quốc phòng lâu đời với Philippines.

Bản tin Xã Luận cũng dẫn lời BMI Research:

"Trong vòng 6 năm tới nếu như ông Duterte vẫn tại vị, mối quan hệ giữa Mỹ và Philippines sẽ đầy bất ổn dù Manila không nghiêng hẳn về Trung Quốc. Chính quan hệ đồng minh lỏng lẻo giữa Mỹ và Philippines sẽ giúp Bắc Kinh chiếm ưu thế khi mà năng lực chống đối chọi với Trung Quốc bị suy giảm."

Như thế, Việt Nám phản ứng thế nào?

Ông Donald Trump là kẻ vụ lợi, ai cũng thấy, nhưng câu hỏi cần suy nghĩ là: Có thực bà Hillary Clinton gắn bó với chính sách Xoay Trục Sang Châu Á?

Trên nguyên tắc, Việt Nam không nên đứng nghiêng về bên nào hết, vì khiêu khích hay đụng chạm Trung Quốc là tất phải có thiệt hại, nhưng phải suy nghĩ rằng về lâu dài hướng đi phú cường và an toàn tất yếu là phải nhờ vào Hoa Kỳ.

Trần Khải

(Việt Báo)

RFI: Nếu Mỹ rút, Philippines có nguy cơ bị Trung Quốc xâm lấn

Thu Hằng

mediaTổng thống Rodrigo Duterte trong cuộc họp báo tại Davao, miền nam Philippines, ngày 21/08/2016REUTERS
Tổng thống Rodrigo Duterte nổi tiếng là người ăn nói thẳng thừng đã dọa « đuổi » quân đội Mỹ ra khỏi Philippines. Tuy nhiên, theo nhận định của nhà báo Nyshka Chandran trên website CNBC (04/10/2016), điều này sẽ khiến Philippines bất lực trước nguy cơ xâm lấn tiềm tàng của Trung Quốc.
Hoa Kỳ và Philippines từng là kẻ thù trong cuộc chiến Mỹ-Phi năm 1899-1902 và Washington chỉ trao trả độc lập hoàn toàn cho Manila vào năm 1946. Đến năm 1951, hai nước ký kết một hiệp ước song phương, cho phép các bên trợ giúp nhau trong trường hợp bị xâm lược. Nền kinh tế lớn nhất thế giới đã duy trì sự hiện diện quân sự cả trong và ngoài lãnh thổ Philippines từ nhiều thập kỷ nay.
Thế nhưng, Chủ Nhật 02/10, tổng thống Duterte dọa chấm dứt Hiệp định Tăng cường Hợp tác Quốc phòng Mỹ-Philippines (Philippines-US Enhanced Defense Cooperation Agreement, EDCA) do người tiền nhiệm Benigno Aquino ký vào năm 2014. Chỉ có hiệu lực từ tháng 01/2016, hiệp định này cho phép quân đội Hoa Kỳ, lần đầu tiên, được trở lại các căn cứ quân sự ở Philippines sau khi bị trục xuất vào năm 1991.
Theo phát biểu của bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ Ashton Carter vào tháng Năm, khoảng 300 quân nhân Mỹ thường xuyên thay phiên hiện diện ở trong và ngoài lãnh thổ Philippines. Ngoài ra, còn có khoảng 107 quân nhân thường trực tại tỉnh Mindanao, miền nam Philippines.
Trong thời gian gần đây, tổng thống Duterte ngày càng có nhiều lời phát biểu giận dữ chống Mỹ, sau khi Washinton, Liên Hiệp Châu Âu và một số nước trong cộng đồng quốc tế đã lên án chính phủ tiến hành các vụ sát hại mà không qua xét xử trong chiến dịch bài trừ tội phạm buôn bán ma túy.
Ngày 04/10, cựu thị trưởng thành phố Davao tuyên bố : « Thay vì giúp đỡ chúng tôi (trong cuộc chiến chống ma túy), đối tượng đầu tiên phải tấn công là bộ Ngoại Giao Mỹ. Vì thế, hãy xuống địa ngục đi, ông Obama, hãy xuống địa ngục đi (you can go to hell) ». Ông Duterte nói thêm Washington đã từ chối bán vũ khí cho chính quyền Manila.
Theo thông tin ngày 05/10 của hãng Reuters, Nhà Trắng nhận định những phát biểu của ông Duterte « đi ngược » với mối quan hệ đồng minh song phương được xây dựng từ lâu. Hơn nữa, Manila vẫn chưa thông báo bất kỳ thay đổi nào trong quan hệ với Mỹ.
Hậu quả đáng ngại
Phát biểu với đài CNBC ngày 04/10, ông Ernest Bower, chủ tịch kiêm giám đốc điều hành văn phòng cố vấn rủi ro chính trị BowerGroupAsia (BGA), nhận xét : Lật lại lịch sử sẽ thấy hậu quả tai hại tiềm tàng nếu Manila trục xuất lực lượng quân sự Mỹ.
Sau khi Philippies đóng cửa các căn cứ của Mỹ ở vịnh Subic và Clart vào năm 1991, Trung Quốc bắt đầu xác quyết các yêu sách chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough, một vùng đất ở Biển Đông mà cả Bắc Kinh và Manila đòi chủ quyền.
Yêu sách này của Bắc Kinh đạt được kết quả vào năm 2012 khi Trung Quốc cấm mọi tầu cá của Philippines hoạt động trong khu vực Scarborough và các hành động thực thi pháp luật tại bãi cạn. Điều này buộc Philippines đệ đơn kiện Trung Quốc lên Tòa Trọng Tài Quốc Tế La Haye.
Ông Richard Bush, một thành viên cao cấp tại Viện Brookings, cảnh báo vào tuần trước : Rất khó đoán được liệu Bắc Kinh có tận dụng bối cảnh Hoa Kỳ vắng mặt tại khu vực để tăng cường hiện diện tại vùng Biển Đông đang có tranh chấp. Hành động hiếu chiến ngày càng leo thang của Trung Quốc trong bối cảnh địa chính trị vốn đã căng thẳng chắc chắn là trường hợp xấu nhất.
Bắc Kinh có thể mở rộng lãnh thổ và sự hiện diện quân sự trong vùng, tới mức chiếm giữ các thực thể do Việt Nam, Philippines hay một số nước khác đang kiểm soát. Tuy nhiên, theo ông Richard Bush, nguy cơ xung đột sẽ giảm đi nếu các chính phủ Đông Á duy trì một liên minh mạnh mẽ với Hoa Kỳ.
Việc Mỹ rút quân cũng có thể tác động đến tình hình khủng bố tại Philippines. Mindanao là một vùng đất mầu mỡ cho tổ chức Hồi Giáo cực đoan Abu Sayyaf. Một cơ quan truyền thông địa phương nhận định, quân nhân Mỹ có mặt tại đây để hỗ trợ lực lượng địa phương với nhiều hoạt động chống khủng bố, như giám sát, tập huấn và chia sẻ thông tin.
Thế nhưng, tháng 09/2016, tổng thống Duterte lại kêu gọi quân nhân Mỹ rời khỏi vùng này vì cho rằng họ là mục tiêu của Abu Sayyaf. Sau đó, chính bộ trưởng Quốc Phòng Delfin Lorenzana lại phải lên tiếng cải chính, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lực lượng Mỹ. Ngày 15/09, ông phát biểu : « Chúng tôi vẫn cần đến họ vì họ có những khả năng giám sát mà quân đội của chúng tôi không có ».
Cuối cùng, tổng thống Duterte có thể gây tổn hại cho mức độ tín nhiệm rất cao của chính mình, nếu ông đẩy lực lượng quân sự Hoa Kỳ ra khỏi Philippines.
Ông Ernest Bower nhận định : « Người dân Philippines không bầu ông Duterte để giải quyết chính sách đối ngoại. Những luận điệu chống Mỹ là quan điểm chính trị hay ở Philippines nhưng nếu ông đuổi quân Mỹ ra khỏi đất nước và mở cửa cho Trung Quốc, thì người Philippines sẽ chống lại (ông Duterte) và nếu điều đó xảy ra, ông ấy sẽ gặp rắc rối ».
Rốt cuộc, các chiến lược gia không chắc về việc liệu nhà lãnh đạo Philippines có thực hiện những lời đe dọa của mình hay không. Ngày 30/09, các nhà phân tích thuộc Trung Tâm Nghiên cứu Chiến Lược và Quốc tế (CSIS) đưa ra nhận định : « Còn quá sớm để nói liệu Washington chấp nhận quan điểm mới về chính sách đối ngoại của Manila hay không. Không nghi ngờ là ông Duterte đang theo đuổi một chính sách ngoại giao độc lập hơn, ít nhất là khi đề cập đến vấn đề an ninh khu vực, nhưng còn phải xem liệu ông ấy có quyết định xét lại một số lĩnh vực khác trong hợp tác song phương Mỹ-Philippines hay không ».
Về phần mình, ông Boywer không tin là tổng thống Duterte sẽ hành động và cho rằng những phát biểu hùng hổ của ông chỉ là ác khẩu hơn là dã tâm : « Liên minh Mỹ-Philippines sẽ vượt qua cơn bão tố ».

Thảo luận về quan hệ Việt-Mỹ với Đại sứ Ted Osius

Đại sứ Ted Osius trong buổi thảo luận tại Đại học Berkeley ngày 1/10/2016. (ảnh Bùi Văn Phú)
Đại sứ Ted Osius trong buổi thảo luận tại Đại học Berkeley ngày 1/10/2016. (ảnh Bùi Văn Phú)
Chiều hôm 1/10 tại Đại học Berkeley, Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius đã nói chuyện và thảo luận về chủ đề “Vietnam-USA : A New Journey” (Việt Nam-Hoa Kỳ : Một hành trình mới). Berkeley Forum, một hội sinh viên của trường, đứng ra tổ chức và đã thu hút hơn 100 khách, đa số là sinh viên.
Trong phần mở đầu, Đại sứ Osius trình bày những bước phát triển chính trong quan hệ giữa hai nước trong 21 năm qua, mà ông gọi là “Một hành trình mới”, như ghi trong huy hiệu ông cài trên áo.
Đại sứ Osius từng đảm nhận những chức vụ ngoại giao tại Việt Nam từ khi hai nước nối lại quan hệ vào năm 1995. Ông hiểu tiếng Việt, thường đạp xe qua nhiều tỉnh thành theo phong cách “ngoại giao xe đạp”, nên ông đã chính mắt nhìn thấy sự phát triển kinh tế cùng mong ước của đại đa số dân Việt là bỏ qua quá khứ đau thương, muốn nước Mỹ là bạn của Việt Nam. Con số giao thương giữa hai nước tăng vọt trong hai thập niên qua chứng minh quan hệ kinh tế song phương đã phát triển nhanh, từ 500 triệu đôla lên đến 45 tỉ đôla.
Sinh viên của Berkeley Forum điều hợp buổi thảo luận với Đại sứ Ted Osius. (ảnh Bùi Văn Phú)
Sinh viên của Berkeley Forum điều hợp buổi thảo luận với Đại sứ Ted Osius. (ảnh Bùi Văn Phú)
Ông nói kinh tế Việt Nam là một trong vài nước có mức tăng trưởng nhanh nhất khu vực và chỉ trong một thời gian ngắn đã đưa Việt Nam vào số những nước có thu nhập trung bình. Vài thập niên trước số người dân sống dưới mức nghèo là 50%, nay còn chưa đến 3%.
Hiện nay, cơ sở cho việc gia tăng hợp tác thương mại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, cũng như với các nước ven Thái Bình Dương là Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được Việt Nam, Hoa Kỳ và 10 quốc gia khác ký kết và đang chờ Quốc hội phê chuẩn. Tuy nhiên Đại sứ Osius thừa nhận rằng hiệp định này không được sự ủng hộ của đa số sinh viên tại đây và đang vấp phải những phản ứng bất lợi từ nhiều vị dân cử trong Quốc hội, kể cả hai ứng cử viên tổng thống Donald Trump và Hillary Clinton.
Nhắc đến lịch sử phát triển của Việt Nam, đại sứ dẫn lời của nhà bác học Lê Quý Đôn để nói lên những đóng góp quan trọng của các giới sĩ, nông, công, thương vào việc phát triển đất nước: “Phi nông bất ổn, phi công bất phú, phi thương bất hoạch, phi trí bất hưng”. Ông cho rằng chủ trương đó ngày nay vẫn đúng, nếu Việt Nam biết tận dụng tiềm năng để phát triển.
Hoa Kỳ và Việt Nam đang ngày càng gia tăng hợp tác qua Quan hệ Đối tác Toàn diện đã được lãnh đạo hai nước đặt ra, ngoài trao đổi thương mại còn phát triển hợp tác trong các vấn đề an ninh, giáo dục, biến đổi khí hậu, bài trừ nạn buôn người và gia tăng giao tiếp giữa nhân dân hai nước.
Trong lãnh vực giáo dục, thành quả là con số sinh viên Việt Nam tại các đại học Mỹ hiện nay gần 20.000 và nhiều sinh viên Mỹ du học Việt Nam.
Đại sứ Osius nhắc đến hợp tác giáo dục mới nhất hai bên vừa đạt được trong chuyến thăm hồi tháng 5 vừa qua của Tổng thống Barack Obama, là Hoa Kỳ sẽ gửi tình nguyện viên Peace Corps (Tổ chức Hòa bình) đến Việt Nam và việc khai sinh Đại học Fulbright, là một đại học tư, phi lợi nhuận được điều hành như các trường đại học Mỹ.
Tôi hỏi Đại sứ Osius về tiến độ thực hiện hai dự án giáo dục nói trên như đang bị chậm lại, ông cho biết khi ký kết văn bản để đưa tình nguyện viên Peace Corps vào Việt Nam, ông dự định là năm 2018 sẽ có tình nguyện viên đầu tiên đến dạy Anh ngữ, nhưng phía nhà nước Việt Nam nói họ muốn càng sớm càng tốt. Theo lời ông, Peace Corps đang tiến hành như dự định và bà giám đốc cơ quan này sẽ đến Việt Nam vào tháng 10 này để triển khai chương trình.
Còn Đại học Fulbright bao giờ sẽ chính thức tuyển lớp sinh viên đầu tiên? Đại sứ Osius hy vọng là niên học 2017. Ông nói chương trình giảng dạy kinh tế ban cao học của đại học này không có vấn đề gì, khó khăn là chương trình cử nhân. Thừa nhận đã có những tranh cãi về thành viên trong hội đồng quản trị đại học, tuy nhiên ông hy vọng cả hai chương trình Peace Corps và Đại học Fulbright sẽ bước vào hoạt động trong thời gian ông làm đại sứ ở đây.
Sinh viên điều hợp chương trình và nhiều bạn khác đã đặt câu hỏi, đa số xoay quanh Hiệp định TPP, tệ nạn buôn người, biến đổi khí hậu và việc nước mặn xâm thực vào vùng đồng bằng sông Mekong.
Qua các câu trả lời của ông đại sứ, nói chung Hoa Kỳ luôn hỗ trợ Việt Nam gia nhập cộng đồng thế giới để phát triển, qua TPP, hay giúp bài trừ tệ nạn buôn người mà cơ quan USAID đã hỗ trợ những tổ chức như Blue Dragon, Pacific Links để giúp đỡ nạn nhân cũng như truy tố những kẻ tổ chức ra toà.
Đại sứ Ted Osius trò chuyện với sinh viên. (ảnh Bùi Văn Phú)
Đại sứ Ted Osius trò chuyện với sinh viên. (ảnh Bùi Văn Phú)
Về xung đột Biển Đông với Trung Quốc, Đại sứ Mỹ nhắc lại chính sách của Hoa Kỳ đã có từ hàng trăm năm trước là sẽ bảo vệ quyền tự do hàng hải, tự do không lưu trên không phận và trong hải phận quốc tế ở bất cứ đâu trên toàn cầu. Nếu Trung Quốc lấn tới, muốn biến biển Đông thành ao nhà của họ thì sẽ phải tốn kém trả giả cho hành động đó. Đại sứ Osius nói Hoa Kỳ không đứng về phía nào trong các tranh chấp ai làm chủ những hòn đảo hay bãi đá trong Biển Đông và mong muốn những tranh chấp đó được giải quyết theo luật pháp và các thông lệ quốc tế.
Đối với cộng đồng người Mỹ gốc Việt, qua bài nói chuyện, Đại sứ Ted Osius nhắc đến tiến trình hoà giải với chính quyền cộng sản Việt Nam còn khó khăn vì quá khứ đau buồn giữa người Việt ở hai bên chiến tuyến. Điều này làm cho quan hệ hai nước có những hạn chế. Ông nói phái bộ ngoại giao Mỹ muốn làm cầu nối để có những cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa người Mỹ gốc Việt và nhà nước Việt Nam, nhưng để đạt được điều này, hai bên phải tôn trọng quá khứ của nhau và có tinh thần hoà giải. Trong thời gian ở Hoa Kỳ ông sẽ đi đến những nơi có đông người Mỹ gốc Việt để thúc đẩy tiến trình này.
Trong buổi nói chuyện ở Đại học Stanford, vào trưa ngày 30/6, cũng về quan hệ Việt-Mỹ, sau khi nghe Đại sứ Osius nói về khó khăn trong việc hoà giải giữa người Việt ở Mỹ với người trong nước và với nhà nước Việt Nam, một người Việt đã phát biểu rằng vấn đề hoà giải không là phải là giữa người Việt trong và ngoài nước, mà là giữa người Việt trong ngoài nước với chính quyền Việt Nam. Người Mỹ cũng như người Mỹ gốc Việt không có vấn đề gì với người Việt ở Việt Nam.
Giáo sư Peter Zinoman thuộc khoa sử của Đại học Berkeley đã đặt câu hỏi về sự kiện một số người hoạt động xã hội dân sự bị ngăn cản không cho đến gặp Tổng thống Barack Obama vào tháng 5 vừa qua, và giáo sư muốn biết về hiện tình nhân quyền tại Việt Nam. Đại sứ Osius nói rằng trước khi những nhà hoạt động xã hội dân sự đến gặp Tổng thống Obama, ông được giới chức Việt Nam bảo đảm rằng những người được mời sẽ không có ai bị cấm cản đến gặp tổng thống, nhưng giờ chót đã có 3 trong số 9 người được mời không thể đến.
Nói chung tình hình nhân quyền tại Việt Nam không sáng sủa lắm, theo lời đại sứ, đặc biệt là trong lãnh vực tự do biểu đạt vì có những người bị giam tù vì họ chỉ nói lên suy nghĩ của mình và tự do tôn giáo không được phát triển đồng bộ tại các địa phương khác nhau.
Trong phần kết bài nói chuyện, Đại sứ Osius nhắc rằng để đạt được những tiến bộ hơn nữa trong phát triển kinh tế, Việt Nam cần cải cách doanh nghiệp nhà nước, cho phép doanh nghiệp nhỏ và vừa của tư nhân được cạnh tranh công bằng. Với TPP, Việt Nam phải bảo vệ tài sản trí tuệ của công ty nước ngoài vào đầu tư, cho phép thành lập công đoàn độc lập để bảo vệ quyền lợi công nhân.
Ông nhấn mạnh, để Việt Nam có thể phát triển tiềm năng tối đa, người dân cần có tự do thành lập những tổ chức xã hội dân sự, được tự do trao đổi thông tin và tham gia vào việc hoạch định các chính sách quốc gia.
Nói về nhân quyền, Đại sứ Osius nhận xét Hiến pháp 2013 có nhiều tiến bộ khi đề cập đến dân chủ, nhân quyền và Hoa Kỳ đang làm việc với Việt Nam trong những cải cách pháp luật để bảo đảm cho người dân những quyền căn bản như ghi trong Hiến pháp.
Ông nói Hoa Kỳ tôn trọng thể chế chính trị của Việt Nam và sẽ không có âm mưu lật đổ chính phủ, vì trong quá khứ việc làm như thế đã đưa đến thất bại cho người Mỹ.
Hoa Kỳ muốn thấy một nước Việt Nam phát triển và thịnh vượng, vì đó là điều đem lại lợi ích cho Hoa Kỳ, Đại sứ Ted Osius phát biểu.
Các bài viết được đăng tải với sự đồng ý của Ðài VOA nhưng không phản ánh quan điểm hay lập trường của Chính phủ Hoa Kỳ.
Thảo luận “Vietnam – USA : A New Journey” với Đại sứ Ted Osius tại Đại học Berkeley ngày 1/10/2016. (ảnh Bùi Văn Phú)
Thảo luận “Vietnam – USA : A New Journey” với Đại sứ Ted Osius tại Đại học Berkeley ngày 1/10/2016. (ảnh Bùi Văn Phú)
  • 16x9 Image

    Bùi Văn Phú

    Tác giả dạy đại học cộng đồng và hiện sống tại vùng Vịnh San Francisco, California.

Thứ Năm, 6 tháng 10, 2016

Rò rỉ tài liệu cổ tiết lộ nguồn gốc thực sự của loài người?

Cẩm Mai | 

Rò rỉ tài liệu cổ tiết lộ nguồn gốc thực sự của loài người?
Hình minh họa.

"50 năm nghiên cứu thư tịch cổ, tôi bị thuyết phục rằng con người đã từng sống trên hành tinh khác và đã đến Trái Đất vào năm 4000 Trước Công nguyên".

Nhiều người coi nền văn minh Sumeria và nền văn minh Ai Cập là 2 nền văn minh cổ đại nổi bật nhất hành tinh, thực ra còn có những nền văn minh khác mang đến những diện mạo khác nhau.
Như nền văn minh cổ đại Ấn Độ có những thư tịch cổ thu hút mọi thời đại, gọi là kinh Veda, được coi là văn bản cổ xưa nhất hành tinh.
Những thư tịch này nói đến "tàu bay" đã đến Trái Đất cách đây 6.000 năm. Đáng chú ý nhất là cuốn sách Vaimanika Shastra, hay còn gọi là Khoa học Hàng không. có mô tả chi tiết thiết bị cơ giới điều khiển bằng suy nghĩ.
Rò rỉ tài liệu cổ tiết lộ nguồn gốc thực sự của loài người? - Ảnh 1.
Hình vẽ như bản thiết kế tàu vũ trụ trong thư tịch cổ Ấn Độ.
Cuốn sách còn nói đến kỹ thuật tàu bay và chống lại lực hấp dẫn. Thật khó tin, những công nghệ tương lai đã từng tồn tại trên Trái Đất cách đây 6.000 năm.
Nhiều nhà nghiên cứu đã coi cuốn sách Vaimanika Shastra là cẩm nang về vũ trụ, tàu vũ trụ và du hành trong không gian.
Để hiểu cuốn sách Vaimanika Shastra, chúng ta phải nhờ đến tiến sĩ V. Raghavam là tác giả của 120 cuốn sách và 1.200 bài báo, từng đoạt giải thưởng Viện hàn lâm Sahitya về tiếng Phạn vào năm 1966.
Theo tiến sĩ V. Raghavam những thư tịch cổ Ấn Độ này cho biết: Cách đây hàng ngàn năm, con người và người ngoài hành tinh đã từng sống trên hành tinh khác và đã đến Trái Đất thăm ông bà tổ tiên.
Rò rỉ tài liệu cổ tiết lộ nguồn gốc thực sự của loài người? - Ảnh 2.
Tàu vũ trụ từng đến ái Đát cách đây 6.000 năm?
"50 năm nghiên cứu thư tịch cổ, tôi đã bị thuyết phục rằng con người đã từng sống trên hành tinh khác và đã đến Trái Đất vào năm 4000 trước CN."
"Có nhiều thông tin về máy bay, vũ khí viễn tưởng trong kinh thánh, thiên sử thi của Ấn Độ và thư tịch tiếng Phạn" - tiến sĩ V. Raghavam nói.
Nhiều học giả khác đồng ý với tiến sĩ V. Raghavam. Có nhiều bằng chứng trong văn bản cổ Mahabharata và Ramayana nói về những kỹ thuật đó.
Tiến sĩ A.V. Krishna Murty, giáo sư hàng không của Viện nghiên cứu Khoa học Ấn Độ ở Bangalore, cho biết "Có văn bản kinh Veda và văn bản cổ khác nói đến tàu vũ trụ, máy bay và nhà du hành cổ đại."
Rò rỉ tài liệu cổ tiết lộ nguồn gốc thực sự của loài người? - Ảnh 3.
Bức tranh cổ Ân Độ có hình như đĩa bay.
"Cuộc nghiên cứu văn bản tiếng Phạn đã thuyết phục tôi rằng người Ấn Độ cổ đại không chế tạo được máy bay, mà chúng từ hành tinh khác đến".
Có lẽ chúng ta từng bỏ sót một phần lịch sử hoặc hiểu sai lịch sử Ấn Độ cổ đại nói riêng và lịch sử nhân loại nói chung.
Vậy vì sao kỹ thuật tiên tiến thời đó bị thất truyền và lãng quên? Vì sao người ngoài hành tinh tuyệt giao với nhân loại?
Các học giả cần nghiên cứu sâu hơn để tìm ra câu trả lời.
Nguồn: Ancient Code
theo Trí Thức Trẻ

V nEconomy: Mua mỗi lít xăng phải trả 8.800 đồng tiền thuế phí vì cách tính mới

Áp dụng thuế nhập khẩu bình quân gia quyền, cách tính thuế tiêu thụ đặc biệt mới, cơ cấu thuế phí trong một lít xăng đã có thay đổi đáng kể...

Mua mỗi lít xăng phải trả 8.800 đồng tiền thuế phí vì cách tính mới
Giá xăng Ron 92 bán lẻ ngày 5/10 được Petrolimex niêm yết ở mức 16.400 đồng. Như vậy, thuế phí chiếm tới 53,8% giá xăng.
BẠCH DƯƠNG
Ngày 4/10, Bộ Công Thương đã nhận được văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính về việc áp dụng thuế bình quân gia quyền với các mặt hàng xăng dầu. Theo đó, thuế bình quân gia quyền áp dụng cho quý 4/2016 với mặt hàng xăng tăng thêm 0,48% lên mức 16,22% so với quý trước.

Mỗi lít xăng "gánh" 8.825 đồng thuế phí 

Theo Bộ Công Thương, giá cơ sở nhập khẩu xăng Ron 92 trên thị trường Singapore bình quân của 15 ngày tính giá là 56,177 USD/thùng. Các đơn vị đầu mối xăng dầu cho biết để vận chuyển xăng về Việt Nam mất khoảng 2,5 -3 USD một thùng. Như vậy, giá CIF tính thuế nhập khẩu là 7.875 đồng/lít.

Hiện một lít xăng đang phải áp các loại thuế phí sau: Thuế nhập khẩu (thuế bình quân gia quyền), thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế VAT, thuế bảo vệ môi trường, chi phí định mức, lợi nhuận định mức, chi quỹ bình ổn.  

Theo tính toán, với cách tính thuế mới, thuế nhập khẩu áp trên mỗi lít xăng là 1.275 đồng, thuế bảo vệ môi trường (3.000 đồng), chi phí định mức (1.050 đồng), lợi nhuận định mức (300 đồng), quỹ bình ổn giá (300 đồng), thuế tiêu thụ đặc biệt (1.380 đồng), thuế VAT (1.520 đồng). 

Như vậy, tổng các loại thuế phí một lít xăng phải gánh đạt 8.825 đồng. Trong khi đó, giá xăng Ron 92 bán lẻ ngày 5/10 được Petrolimex niêm yết ở mức 16.400 đồng. Như vậy, thuế phí chiếm tới 53,8% giá xăng. 

Nếu như so sánh với thời điểm tháng 3 năm nay, khi thuế bình quân gia quyền và cách tính thuế tiêu thụ đặc biệt chưa được áp dụng thì cơ cấu thuế phí tăng về tuyệt đối, nhưng giảm về tỷ trọng. 

Cụ thể, tại ngày 18/3/2016, số tiền thuế phí mà người mua phải trả là gần 7.900 đồng/lít, chiếm tỷ lệ 54,7% giá bán lẻ hiện tại, tức là cứ 100.000 đồng tiền xăng, người tiêu dùng phải trả 54.700 đồng tiền thuế, phí. Cùng kỳ 2014, tỷ trọng này chỉ ở mức 43%. 

Tỷ trọng thuế phí có xu hướng giảm đáng kể là do cách tính bình quân gia quyền theo mức thuế nhập khẩu bình quân của các thị trường. 

Mua mỗi lít xăng phải trả 8.800 đồng tiền thuế phí vì cách tính mới 1

Cơ cấu thuế phí trên mỗi lít xăng tính đến kỳ điều chỉnh ngày 5/10.

Việc Việt Nam gia nhập hàng loạt các hiệp định thương mại tự do, đặc biệt với ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản… đã tác động mạnh mẽ đến thuế nhập khẩu xăng dầu. 

Theo đó, thuế xăng từ Hàn Quốc giảm xuống 10% khiến các đơn vị xăng dầu dầu mối đổ xô sang thị trường này nhập khẩu. Trong khi đó, thuế xăng từ Nhật Bản sắp tới cũng về 10%, thuế của ASEAN là 20%. Cơ quan quản lý sẽ tổng hợp, tính bình quân dựa trên mức thuế, số lượng nhập để áp tính giá bán lẻ. 

Như vậy, mức thuế nhập khẩu gia quyền áp dụng cho quý cuối năm nay là 16,22%, giảm đáng kể so với thuế nhập khẩu 20% áp dụng tháng 3 năm nay, thấp hơn nhiều so với mức 35% hồi đầu năm 2015. Tuy nhiên, việc tăng thuế và thay đổi cách tính thuế đã khiến tỷ trọng thuế phí trong cơ cấu giá xăng dầu chỉ giảm nhẹ. 

Nỗi lo thuế phí xăng tiếp tục tăng 

Ngày 5/10, giá xăng Ron 92 tăng thêm 170 đồng lên 16.400 đồng, được cho hệ quả của việc áp dụng chính sách thuế tiêu thụ đặc biệt mới của Bộ Tài chính theo Nghị định 100. 

Theo đó, thuế tiêu thụ đặc biệt (10%) của xăng được tính trên mức giá ra của các doanh nghiệp đầu mối thay vì được tính trên giá đầu vào. 

Theo công thức cũ, thuế tiêu thụ đặc biệt được tính luỹ kế trên giá CIF + thuế nhập khẩu. Tuy nhiên, việc áp dụng tính trên cơ sở đầu ra của sản phẩm, thuế tiêu thụ đặc biệt sẽ đánh trên tổng các hoà các thuế phí tính đến khi giá xăng dầu đến tay người tiêu dùng khiến giá có thể tăng hơn 300 đồng mỗi lít xăng. 

Điều này làm tăng đáng kể cơ cấu thuế phí trong một lít xăng. 

Trong một văn bản gửi lên Bộ Tài chính, Bộ Công Thương về vấn đề tính thuế mặt hàng xăng, Petrolimex cho biết, trong 3 kỳ điều hành giá xăng dầu kể từ ngày 1/7 - 18/8, liên bộ Công Thương - Tài chính đã tính thiếu hàng trăm tỷ đồng cho đơn vị này. 

Với phương án giá CIF xăng A92 ở mức 49,16 USD/thùng thì mức chênh lệch này vào khoảng 185 đồng/lít. Trong đó, khoản thuế tiêu thụ đặc biệt bị tính thiếu là 165 đồng/lít và thuế giá trị gia tăng bị tính thiếu là 17 đồng/lít. Thay vì thuế tiêu thụ đặc biệt phải tính là 989 đồng/lít thì liên bộ chỉ tính có 824 đồng/lít.

Việc thuế VAT được tính trên cả quỹ bình ổn xăng dầu nên gây tình trạng thuế chồng thuế. Đến hết quý 2/2016, quỹ bình ổn xăng dầu là hơn 2.000 tỷ đồng.  

Trong bối cảnh ngân sách khó khăn, Bộ Tài chính trong nhiều văn bản gửi lên Chính phủ, Quốc hội có đề xuất áp dụng mức thuế bảo vệ môi trường lên kịch trần. Theo quy định hiện nay, khung kịch trần với thuế bảo vệ môi trường là 4.000 đồng. 

Thuế bảo vệ môi trường tăng gấp ba trong 8 tháng cuối năm đã góp phần giúp thu ngân sách 2015 vượt dự toán trong bối cảnh giá dầu lao dốc. Nhờ việc tăng gấp ba thuế môi trường với xăng dầu mà ngân sách cả năm có thêm 13.200 tỷ đồng trong điều kiện nhiều nguồn thu khác khó khăn.