Hai cô này từ chối 5
triệu đồng vì sợ công an “đập bể nồi cơm”. Ảnh: Nguyễn Đình Ấm
TRÒ CHUYỆN CÙNG CỤ LÊ HỒNG HÀ VỀ
QUÁ TRÌNH DÂN CHỦ HÓA ĐẤT NƯỚC
Nguyễn Thượng Long
18-11-2016
“…Có lẽ là nhờ có nhân duyên mà từ những ngày tết 2014 đến gần
đây, tôi đã có nhiều lần được trò chuyện cùng cụ Lê Hồng Hà, lại được cụ tin cẩn
trao gửi tôi lưu giữ nhiều bản thảo đã công bố và cả chưa công bố của cụ. Bài
phỏng vấn này là một tóm tắt không đầy đủ sau những đối thoại có ghi chép gần
đây giữa tôi và cụ.
Buồn thay hai năm trước, tại thành phố biển Đà Nẵng -“Nơi đáng
sống nhất hành tinh này” (NBT), bệnh tật và tuổi tác đã quật ngã cụ Trần Lâm
(1925), Nguyên Thẩm Phán Toà Án nhân dân tối cao và những tai ương đó, lại diễn
ra tại phòng cấp cứu Bệnh viện hữu nghị Việt Xô Hà Nội với cụ Lê Hồng Hà
(1926), nguyên Chánh Văn Phòng, nguyên uỷ viên Đảng Đoàn Bộ công an.
Biết rằng chẳng một ai nằm ngoài vòng “Luân Hồi Sinh Tử”, tôi
vẫn ngày đêm nguyện cầu cho những người thầy, người bạn vong niên của tôi là cụ
Trần Lâm và cụ Lê Hồng Hà vượt qua được những khắc nghiệt đang đến. Mong sao
những gì mà các cụ để lại không phải là những tia chớp loé cuối cùng của những
“Ngọn Hải Đăng”đã từng một thời kiêu hãnh trước đêm đen đầy bất công, bất trắc
và đau khổ này”.
(Trích trong “Những nỗi buồn Mã đáo” 2014 – NTL)
“Đánh giá đúng tình hình, phân tích thấu đáo tình hình đất nước
và tìm con đường tiến lên là một vấn đề cực kỳ phức tạp, khó khăn. Công việc
này đòi hỏi một sự lao động trí óc bền bỉ, nghiêm túc của mọi người. Nếu ai ai
cũng xác định được ý thức công dân của mình, sẵn sàng nói lên những gì mà mình
muốn nói, thì hố sâu ngăn cách giữa mọi người …kể cả chia rẽ đến thế nào, rồi
cũng có thể được lấp đầy…”. (LHH)
Lập luận này cụ Hà vẫn thường nói với tôi trong những lần tôi
đàm đạo cùng cụ. Và lần đó tôi đã mạo muội đặt trước cụ một số câu hỏi liên
quan tới đất nước, tới thời cuộc …như thế này:
NGUYỄN THƯỢNG LONG (NTL): “Không chỉ là một chứng nhân, cụ còn là
người trực tiếp can dự vào những biến cố trọng đại suốt từ cuộc cách mạng tháng
8 đến nay, nếu cần một cái nhìn xuyên suốt, một sự ngoái lại cần thiết, cụ có
thể bầy tỏ những điều gì?”
LÊ HỒNG HÀ (LHH): Tôi nghĩ rằng, khi
truyền thống yêu nước của dân tộc trong lịch sử được phát huy đúng lúc… nhân
dân ta đã làm thành công cách mạng tháng 8 và thống nhất được đất nước. Công
lao này trước hết thuộc về nhân dân, trong đó có sự đóng góp quan trọng của các
nhà yêu nước, đặc biệt là ĐCS việt Nam, đứng đầu là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Các
nhà yêu nước ngày đó họ nói tiếng nói của người dân, nghĩ những gì mà người dân
hằng nghĩ, lo những gì mà người dân đã lo và dám làm những gì mà người dân muốn
làm.
Nhưng, do vội vã lựa chọn học thuyết Mác Lê, một học thuyết
không tưởng…lại chỉ dựa vào những phiên bản méo mó của Stalin và Mao Trạch
Đông, do quá ảo tưởng về con đường xây dựng XHCN để tiến đến “Thiên Đường Cộng
Sản”, do quá sai lầm khi chọn “Chuyên Chính Vô Sản” và “Đấu Tranh Giai Cấp” làm
kim chỉ nam cho các động thái cải biến xã hội như: Cải Cách Ruộng Đất – Cải Tạo
công thương nghiệp tư bản tư doanh – Trấn áp phong trào Nhân Văn Giai Phẩm của
trí thức văn nghệ sĩ – Đàn áp một cách bất công và tàn bạo cái gọi là “Nhóm xét
lại chống Đảng” – Vu vơ trong cuộc đấu tranh ai thắng ai? – Nhầm lẫn khi lấy
kinh tế quốc doanh làm chủ đạo – Tập thể hoá cưỡng bức nông nghiệp và thủ công
nghiệp…nên ĐCS đã hoàn toàn thất bại.
Những hệ luỵ của những sai lầm không đơn giản chỉ là những thất
bại, mà còn là sự tiêu diệt làm biến mất những phẩm chất tinh hoa, truyền thống
của giống nòi, thay vào đó lại làm xuất hiện những thói quen, những trạng thái
tinh thần thấp kém và xa lạ. Đất nước đang ngày càng lún sâu vào những lụn bại
vô phương cứu chữa.
Năm 1986, do sức ép của tình hình, đã có sự đổi mới lần thứ
nhất, nhưng đó chỉ là sự đổi mới nửa vời, còn nói chung vẫn là kiên định chủ
nghĩa Mác Lê, vẫn kiên trì CNXH…nên đến nay, đất nước vẫn đi theo con đường sai
lầm, đất nước vẫn tiếp tục tụt hậu so với các nước xung quanh.
Mấy năm gần đây, do hậu quả của những sai lầm nói trên cùng với
những biến động bất lợi của tình hình thế giới…đất nước đang rơi vào “Giai đoạn
khủng hoảng toàn diện” liên quan tới mọi lĩnh vực (Kinh Tế – Chính Trị – Đạo
Đức – Văn Hoá Xã Hội – Niềm tin của người dân…). Diễn biến xấu đó là ngày càng
trầm trọng, xuất hiện nhu cầu phải có một sự đổi mới căn bản, một chuyển biến tất
yếu không thể đặng đừng.
NTL: “Có
người nói: “Cái bất hạnh lớn nhất đối với người Việt Nam là ở cái vị thế Địa –
Chính Trị của đất nước là chẳng ra gì. Từ ngày lập quốc cho đến nay, mảnh đất
nhỏ hẹp này là nơi tranh hùng, hơn thua của các cường quốc, các nước lớn (Tầu,
Pháp, Nhật, Mĩ, Nga, lại Tầu…) . Họ đến rồi họ ra đi, chỉ để lại xứ sở này
những ám ảnh u buồn về những thực nghiệm cái thì thất bại, cái thì dang dở, cái
thì chẳng ra gì, lại có cái mà đến hết thế kỷ này vẫn chưa biết là nó sẽ thế
nào. Những ngày này, nói về Việt Nam trong bàn cờ quốc tế, cụ muốn nói điều
gì?”
LHH: Tôi nghĩ rằng, sau khi
thời kỳ chiến tranh lạnh chấm dứt, các nước lớn đều chú trọng tới việc đẩy mạnh
sự phát triển và điều chỉnh chiến lược phát triển, đã tạo ra một tình thế thế
giới rất đa sắc mầu và rất phức tạp.
Nhật Bản, Hàn Quốc dù vẫn còn những mâu thuẫn, vẫn tiếp tục
khẳng định liên minh chiến lược với Mỹ, vẫn đang đoàn kêt để trở thành một lực
lượng mạnh ở Đông Bắc Á.
Nước Nga thời Putin vẫn khẳng định mình là vị thế cường quốc
trong các vấn đề của thế giới và khu vực.
Ấn Độ, Nam Phi cùng các nước lớn ở Nam Mĩ cũng đang phấn đấu để
trở thành những quốc gia phát triển mạnh.
Trung Quốc đã vươn lên đứng hàng thứ 2 thế giới về tổng sản phẩm
kinh tế, đang tiến hành bành trướng ráo riết, xâm nhập kinh tế bằng mọi cách,
thực thi quyền lực mềm ở các châu lục trong đó phải kể tới nhiều vùng đất cùng
Biển Đông của Việt Nam. Họ luôn nhất quán với đường lối bá quyền, bành trướng
đối với Việt Nam. Mục tiêu lâu dài là tiếp tục đặt Việt Nam vào thế mất ổn
định, qua các biện pháp lấn chiếm về đất đai trên bộ, đánh chiếm Hoàng Sa và 1
phần Trường Sa, áp đảo về kinh tế, xâm lược về văn hoá, bòn rút tài nguyên, âm
thầm và lén lút đưa người vào các địa phương, các địa bàn trọng yếu, biến họ trở
thành lực lượng ngầm cho mưu toan đưa Việt Nam trở lại thời kỳ Bắc thuộc mới.
Trong những năm qua, Việt Nam qua hội nhập với quốc tế đã mở
rộng được quan hệ về các mặt, rất thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và các
mặt khác nói chung. Nhưng, riêng với Trung Quốc, nhất là từ Hội Nghị Thành Đô
(1991), các nhà lãnh đạo Việt Nam đã nhất quán áp dụng một đường lối nhượng bộ,
thoả hiệp, thậm chí là nhẫn nhục đầu hàng, rất có hại cho đất nước, làm mọi
người nghĩ đến hiện tượng Lê Chiêu Thống đã từng xẩy ra trong lịch sử.
Lúc này vấn đề đặt ra cho đât nước là:
Đi đôi với vấn đề đấu tranh để dân chủ hoá đất nước, loại trừ
chế độ độc tài đảng trị, chấm dứt sự thống trị của chủ nghĩa Mác – Lê, chấm dứt
con đường XHCN… thì vẫn phải kiên trì đấu tranh để bảo vệ chủ quyền, độc lập
của Tổ Quốc.
Đây là vấn đề rất khó, rất phức tạp vì cùng một lúc phải giải
quyết hai nhiệm vụ chiến lược trọng đại, khó khăn. Vấn đề này chưa một lần được
làm rõ đối với nhân dân và các lực lượng dân chủ trong nước.
NTL: “Dư
luận trong và ngoài nước chưa quên, cụ là lý thuyết gia số một về “Quá Trình Tự
Vỡ” của Đảng Cộng Sản Việt Nam, cụ còn tiên đoán “Phải đến 2016” mới có biến cố
chính trị làm đổi hướng đi cho Việt Nam!”. Vì sao lại phải chờ lâu như thế? Cụ
nói gì về điều này?”
LHH: Dưới đây tôi thử nêu vài suy nghĩ cá
nhân, ngõ hầu giải đáp một vài câu hỏi đang là nỗi niềm trăn trở của nhiều
người:
Vì sao vẫn chưa xẩy ra sự chuyển biến tự vỡ?
Đó là vì các lực lượng dân chủ đối lập tuy đã hình thành nhưng
còn quá yếu so với tình hình. Vì vậy tới đây, một mặt phải ủng hộ việc thành
lập các tổ chức dân sự, mặt khác phải hợp đồng phối hợp các tổ chức đó theo một
chương trình hành động phối hợp, sớm tạo nên sức mạnh tổng hợp, bỏ qua những
khác biệt để cùng hướng tới mục tiêu chung.
Do đó, phải phát hiện, tôn vinh các nhân vật có uy tín, các nhân
vật xuất sắc xuất hiện trong quá trình tự phát đấu tranh trong những năm qua.
Phải tránh các quan niệm nghi ngờ, hẹp hòi, đố kỵ.
Đến bao giờ có thể xẩy ra chuyển biến?
Về vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau. Có người sốt sắng cho
rằng, có thể xẩy ra ngay trong 2014 này! Lại có người bi quan lắc đầu cho rằng,
còn lâu lắm, phải 5,7, thậm chí phải 10…năm nữa ! Theo tôi, Xã hội Việt Nam
đang hồn nhiên tích đọng những yếu tố để trong vài 3 năm tới (2014 – 2015 –
2016) sẽ có những biến cố có thể làm căn bản chính trị đổi hướng rất bât ngờ.
Sự chuyển biến đó sẽ diễn ra như thế nào? Sẽ là bạo động hay bất
bạo động? Tính chất của chuyển biến đó?
Theo tôi, chuyển biến đó không phải là một cuộc đảo chính, không
phải là một cuộc chính biến, càng không phải là một cuộc khởi nghĩa vũ trang mà
mọi việc phải giải quyết triệt để bằng súng đạn như đã từng xẩy ra trong lịch
sử. Nó chỉ có thể là một cuộc đổi mới về cơ bản hệ thống chính trị, nghĩa là
chuyển đổi hoà bình.
Mục đích của chuyển đổi đó chỉ là loại bỏ sự cai trị của Đảng
Cộng Sản Việt Nam mà vẫn giữ nguyên sự tồn tại của các cơ quan Chính Phủ và
Quốc Hội.
Sẽ vĩnh viễn chôn vùi cái thể chế song trùng quyền lực giữa cơ
quan Đảng và cơ quan chính quyền, không còn chế độ CÁC CẤP UỶ lãnh đạo chỉ huy
các UỶ BAN HÀNH CHÍNH, các HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN các cấp. Không còn chế độ Bộ Chính
Trị, Ban Bí Thư …các VUA TẬP THỂ này điều khiển Chính Phủ và Quốc Hội. Không còn
chế độ đặt Cương Lĩnh Đảng lên trên Hiên Pháp. Không còn chế độ Quốc Hội, Chính
Phủ phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Chính Phủ và quốc Hội sẽ được độc lập
hoạt động theo Hiến Pháp. Việc cải thiện nhân sự trong Chính Phủ – Quốc Hội sẽ
được tiến hành từng bước theo thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm, chứ không phải theo
kiểu lật đổ.
Đến kỳ bầu cử quốc hội, cần huỷ bỏ chế độ hiệp thương trước đây,
không cho phép gạt những người không phải là đảng viên, phải bầu một cách dân
chủ, bầu ra một Quốc Hội của nhân dân chứ không phải là một Quốc Hội của Đảng.
Theo tôi, tới đây trong Quốc Hội và Hội Đồng Nhân Dân các cấp, số Đảng viên
không nên quá 50% đại biểu.
Theo tôi, phải giữ nguyên các cơ quan Chính Phủ – Quốc Hội là để
đảm bảo các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội… được đảm bảo bình thường.
Mọi chế độ bảo hiểm xã hội, hưu trí, lương bổng cho mọi đối
tượng trong xã hội vẫn bình thường, không để xẩy ra xáo trộn, đình trệ…
NTL: “Từ
nay đến những ngày mà Việt Nam sẽ có những đổi hướng quan trọng để hoà nhập vào
thế giới văn minh, theo cụ chúng ta sẽ phải làm gì?”
LHH: Theo tôi, dựa vào việc toàn dân phải
thi hành nghiêm chỉnh Hiến Pháp mới vừa được Quốc Hội thông qua, trong đó có
nhiều chương điều khẳng định các quyền cơ bản của nhân dân, nhất là quyền lập
hội, quyền tự do tư tưởng…khuyến khích và ủng hộ việc thành lập càng nhiều càng
tốt các Hội Đoàn thuộc xã hội dân sự như: Hội Dân Oan, Hội bầu bí tương thân,
Hội báo chí độc lập, Văn Đoàn Việt Nam Độc Lập (Văn Việt). Chú ý nên chọn những
tên gọi mộc mạc, bình dân nhanh chóng và dễ được quần chúng tiếp nhận.
Dựa vào các bậc lão thành có nhiều kinh nghiệm, uy tín như cụ
Nguyễn Trọng Vĩnh, các nhân vật mới nổi như: Tống Văn Công, Phạm Đình Trọng,
Phạm Chí Dũng, Nguyễn Huệ Chi, Hà Sĩ Phu, Nguyễn Quang A, Nguyễn Tường Thuỵ,
Nguyễn Xuân Diện, Lê Hiền Đức…làm hạt nhân để liên hiệp, quy tụ, phối hợp hoạt
động của các Hội Đoàn thành một liên minh thống nhất, tạo nên sức mạnh
chung…chấm dứt tình trạng lẻ tẻ, rời rạc mang tính tự phát bởi sự lúng túng khi
không vượt qua được những dị biệt.
Từng bước đấu tranh đòi sửa sai, thanh minh, khôi phục danh dự,
quyền lợi cho các vụ án oan sai trong quá khứ như vụ Nhân Văn Giai Phẩm, vụ án
xét lại chống Đảng, các vụ oan sai trong Cải Cách Ruộng Đất, Chỉnh đốn tổ chức,
Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh. Giải quyết những tồn căn này là
không thể nóng vội, nhưng không thể không làm.
Phát động đấu tranh kể cả vận động các tổ chức quốc tế cùng tham
gia đòi giải phóng cho tất cả các tù nhân lương tâm, các tù nhân bị kết án sai
trái vì Điều 258, Điều 88 của Bộ Luật Hình Sự vẫn còn đang bị giam giữ. Sự tồn
tại của những điều này là sự vi phạm Hiến Pháp rất nghiêm trọng.
Tổ chức thăm nom, an ủi, giúp đỡ các tù nhân lương tâm đã mãn
hạn tù đang sống ở các địa phương, có thông tin tuyên truyền rộng rãi.
Khuyến khích các nhà lý luận viết bài phê phán chủ nghĩa Mác –
Lê, phê phán những ảo tưởng về bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản. Phải giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi những lý thuyết không tưởng, những
tà thuyết đó đã bị thế giới văn minh vứt bỏ.
Tổ chức phê phán một cách có hệ thống các sai lầm, tội ác mà
Đảng Cộng Sản đã gây ra cho dân tộc Việt Nam trong mấy chục năm qua (Từ Cải
cách ruộng đất, Cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, Hợp tác hoá nông
nghiệp – thủ công nghiệp, Trấn áp Nhân Văn Giai Phẩm, Đàn áp vô lối cái gọi là
“Xét lại chống Đảng”, quá ảo tưởng về cái gọi là “Con Đường Quá Độ”)… để nhân
dân thấy được bên cạnh những thất bại không thể chối cãi như sự tụt hậu thảm
hại của Việt Nam với khu vực và quốc tế, sự lệ thuộc cũng là thảm hại của Việt
Nam trước Trung Quốc…thì những thắng lợi, thành công nếu có từ cách mạng tháng
8 đến nay… thì trước hết là do những truyền thống quý báu có từ ngàn đời của
dân tộc đã được phát huy đúng lúc, đúng cách… là do sự hy sinh của biết bao thế
hệ người Việt Nam yêu nước ở trong Đảng Cộng Sản, ngoài Đảng Cộng Sản… những
ngày họ nói tiếng nói của nhân dân, lo cùng nỗi lo của nhân dân, những ngày cảm
hứng Tổ Quốc thực sự được họ đặt lên trên hết. Làm sao để nhân dân ý thức được
những thành tích hạn chế đạt được từ cách mạng tháng 8 đến nay hoàn toàn không
phải là nhờ Mác – Lê cùng bất cứ một giáo điều ngoại lai xa lạ nào khác.
NTL: “Sau
những bể vỡ thê thảm về niềm tin của người dân vào cuộc chiến chống tham nhũng
qua NQ 4 của ĐCS, điển hình là sự chững lại đến bất ngờ của đại án Dương Chí
Dũng liên quan đến ông lớn Phạm Quý Ngọ Thứ Trưởng bộ công an, cứ như thế này
thì lý thuyết về sự “TỰ VỠ” của cụ có thể trở thành hiện thực. Vậy theo cụ, cần
có một kịch bản nào cho ngày đó?”
LHH: Nói đến sự “Tự Vỡ” mà không nói gì
đến vai trò chủ động của lực lượng tranh đấu cho xã hội Việt Nam có một chuyển
đổi trọng đại là chưa hiểu hết về quá trình “Tự Vỡ”. “Tự vỡ” và những cuộc vận
đông trong xã hội có liên quan hữu cơ với nhau. Theo tôi, để tránh những xáo
trộn không cần thiết, rất cần có những định hướng căn bản, mà trước hết cần
hướng tới các mục tiêu sau:
– Xoá bỏ sự cai trị độc tài của Đảng Cộng Sản
– Xoá bỏ điều 4 trong Hiến Pháp.
– Xoá bỏ sự cai trị của các cấp uỷ từ trung ương qua các địa phương
thuộc tỉnh, thành, quận, huyện, xã, phường…
Chuyển biến căn bản trên diễn ra trong bối cảnh toàn bộ chế độ
bảo hiểm xã hội như: Lương bổng, Hưu trí, phụ cấp cho mọi đối tượng trong xã
hội vẫn tiến hành bình thường, không gián đoạn.
Đảng Cộng Sản trong 1 – 2 năm tới phải tự sống bằng kinh phí của
đảng viên, không thể tuỳ tiện sử dụng ngân sách nhà nước.
Trường đảng trung ương nên sáp nhập với Đại học hành chính quốc
gia.
– Các ban ngành của đảng nên sáp nhập vào các cơ quan tương ứng
bên chính quyền.
– Các uỷ viên cấp uỷ các cấp nên chuyển sang Hội đồng nhân dân
và ứng cử vào các cấp uỷ ban.
– Các cán bộ về hưu bên đảng sẽ được coi như là cán bộ về hưu
của viên chức nhà nước hiện nay.
Đảng Cộng Sản trở thành một Đảng tham chính, một tổ chức thuộc
xã hội dân sự thông thường.
Xã hội vẫn sẽ hoạt động bình thường, không có đàn áp, trả thù,
bắtt bớ. Trong thời điểm diễn ra chuyển đổi… Quân Đội Nhân Dân VN được đặt
trong tình trạng trung lập với chức năng duy nhất là bảo vệ lãnh thổ, vùng
trời, vùng biển. Lực lượng công an chỉ có duy nhất nhiệm vụ giữ gìn an ninh
trật tự trong xã hội.
Tất nhiên Đảng Cộng Sản không dễ mà chấp nhận những chuyển đổi
này… nhưng, nếu họ còn nghĩ tới việc đặt quyền lợi của Tổ Quốc, của Dân Tộc lên
trên hết thì họ không dễ mà ngăn trở được.
NTL: “Xin
cám ơn cụ đã có những bầy tỏ công khai và đầy tinh thần trách nhiệm. Kính chúc
cụ sức khoẻ và trường thọ. Cầu mong cho đất nước sớm có những thay đổi theo
chiều hướng tiến bộ của thế giới văn minh mà cụ hằng mong muốn. Kính chào cụ.”
Hà Nội 10 – 3 – 2014.
Nguyễn Thượng Long
– Nơi ở: Đường Văn La – Phường Phú La – Hà Đông – Hà Nội.
– ĐT: 01652323836 & 043352166