This entry was posted on Tháng Bảy 27, 2017, in Lịch sử Việt Nam and tagged 1979, chiến tranh biên giới 1979. Bookmark the permalink. Bạn nghĩ gì về bài viết này?
Duna Péter
Nguyễn Hoàng Linh dịch và giới thiệu
Dunai Péter, tác giả cuốn sách về Việt Nam “Một trăm ngàn cây số tại Việt Nam” (Százezer kilométer Vietnamban, NXB Kossuth 1986), từng là phóng viên thường trú ở Việt Nam của nhật báo “Tự do Nhân dân” (Népszabadság) và của Hãng Thông tấn Hungary MTI.Ông là một nhà báo tài ba, đã từng khẳng định mình ở cả Moscow và Tây Đức, theo nhận định của cựu Đại sứ Hungary tại Việt Nam Szász Dénes, người có vợ Việt và nói, đọc thạo tiếng Việt, cũng như đã có nhiều năm làm việc cùng Dunai Péter tại Hà Nội.Bài viết sau đây của Dunai Péter nằm trong loạt hồi tưởng về những năm, tháng ở Việt Nam, kèm những nhận định, phân tích trên cương vị một nhà báo, đồng thời cũng là chuyên gia tư vấn và nghiên cứu về các vấn đề quân sự và an ninh.Trong bài viết, Dunai Péter đả động tới cuộc chiến xâm lược Việt Nam năm 1979 do chính quyền Trung Quốc khởi động, thông qua một số sự việc mà ông có dịp tận mắt chứng kiến, trên tư cách một trong số không nhiều ký giả nước ngoài tại Việt Nam thời đó.
Ba mươi lăm năm trước, đúng vào những ngày này, đã nổ ra đụng độ vũ trang giữa Việt Nam và Trung Quốc (Chiến tranh biên giới Việt-Trung*), mà chúng ta có thể bình tâm gọi là “chiến tranh”. Vào ngày 17-2-1979 Trung Quốc đã huy động một lực lượng quân sự khổng lồ (theo các nguồn tin Phương Tây gồm 9 quân đoàn, 3 đại quân khu (phương diện quân) và vài chục sư đoàn, cùng lực lượng không quân) để tấn công nước láng giềng Việt Nam.
Nhiều sử gia gọi sự kiện này là cuộc chiến Đông Dương lần thứ ba (sau cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và cuộc chiến đấu chống Mỹ và các đồng minh).
Tuy nhiên, những kẻ tấn công đã gặp phải một đối thủ đáng gờm. Quân đội Việt Nam trưởng thành và thu được nhiều kinh nghiệm trong những cuộc chiến giành độc lập dân tộc trước quân đội Mỹ và chính quyền miền Nam, và những kinh nghiệm ấy đã được nhân lên trong cuộc chiến chống lại những đợt tấn công của kẻ thù phương Bắc.
Xin được ghi lại trong vài dòng những hồi tưởng của tôi liên quan tới cuộc chiến này. Tôi đến Việt Nam đầu năm 1981 trên cương vị phóng viên chung của nhật báo “Tự do Nhân dân” (Népszabadság) và Hãng Thông tấn Hungary MTI, khi những cuộc chiến ác liệt đã khép lại. Cũng như những người “tiền nhiệm”, tôi dự định sẽ ở Việt Nam trong vòng 1 năm, nhưng rồi khoảng thời gian này đã kéo dài gần 4 năm.
Tôi đã yêu đất nước và con người Việt Nam. Cho dù thời kỳ đó người dân Việt Nam phải trải qua một giai đoạn hết sức khó khăn. Sau những cuộc chiến dài nhiều thập kỷ chống thực dân Pháp và đế quốc Nhật, cuộc chiến hơn mười năm chống lại quân đội Mỹ và đồng minh Nam – Việt Nam của họ khiến người dân Việt Nam hết sức kiệt quệ cả về lực lẫn kinh tế. Trong tình trạng suy kiệt ấy, Việt Nam đã bị tấn công từ phương Bắc.
Tôi có nhiều dịp tới vùng biên giới phía Bắc giữa Việt Nam và Trung Quốc. Bộ Ngoại giao Việt Nam thường xuyên tổ chức những chuyến đi tới vùng biên giới cho nhóm phóng viên ngoại quốc chỉ có vỏn vẹn vài người lúc đó đang ở Hà Nội. Lần nào tôi cũng tham gia những chuyến đi đó, một phần vì rất thú vị khi được thấy một miền quê ở khu vực mà một nhà báo không thể tới được theo cách khác, mặt khác, tôi được thúc đẩy bởi động lực vĩnh cửu của một phóng viên: tôi cần phải ở đó, bằng không nếu xảy ra điều gì quan trọng mà tôi lại chậm chân thì…
Tôi là đại diện duy nhất của báo chí Hungary. Tôi đi xe riêng tới Lạng Sơn, nhưng từ đó thì Bộ Ngoại giao Việt Nam hoặc quân đội bố trí cho nhóm phóng viên phương tiện di chuyển, xe buýt hoặc Jeep và nhóm hộ tống có vũ trang. Chúng tôi đi lên phía Bắc, về phía biên giới, qua những xóm làng bị đạn bom tàn phá hoang tàn, những vùng cư dân không còn bóng người.
Đồng Đăng là thị trấn lớn cuối cùng mà chúng tôi đi qua, đau lòng vô cùng khi thấy một thành phố chết chìm trong đổ nát. Những đạo quân Trung Quốc khi rút lui đã cho nổ hết nhà cửa, tiêu hủy tất cả những gì có thể ích lợi với cư dân: các toa tàu hỏa, đường ray, thiết bị trong nhà máy, đường xá, kênh đào…
Khi không còn đường cho xe đi đi, chúng tôi xuống xe và tiếp tục đi bộ cho đến biên giới – đôi lúc, đấy chỉ là những đường mòn hẹp tới mức chúng tôi phải đi theo hàng một. Xung quanh chúng tôi là khu vực đã được rà mìn. Cho đến giờ tôi vẫn còn nhớ rằng đâu đâu cũng có dòng chữ “Có mìn” viết trên đá và những tấm biển nhỏ, cảnh báo những nơi chưa được rà mìn.
Cần phải tuân thủ nghiêm túc lời cảnh báo này – chúng tôi đã ý thức được qua một trường hợp buồn bã. Một bận, khi chúng tôi đi qua một đường mòn hẹp để tới đoạn biên giới Việt – Trung diễn ra trao trả tù binh, một tiếng nổ và khói mù mịt bay lên trong khu rừng rậm khiến bầy chim đang lượn trên những ngọn cỏ cao tới đầu người phải hoảng hốt.
Cả đoàn người sững lại, chỉ về sau chúng tôi mới biết điều gì đã xảy ra. Sau chúng tôi là nhóm tù binh Trung Quốc gồm 50-60 người đang đi tới điểm trao trả. Có thể là một tù binh, dù đã bị cấm, nhưng ngại tiểu tiện trước mặt những kẻ khác, đã đi thêm vào bước vào rừng, đến khu vực cấm. Anh ta dẫm lên một trái mìn, mìn nổ khiến anh ta cụt bàn chân. Không chết nhưng người tù binh này cũng bị thương nặng.
Bản thân việc trao đổi tù binh diễn ra theo một nghi thức nghiêm ngặt do hai bên tham chiến ấn định. Tại đây đường biên giới được biểu tượng bởi một vạch vôi màu trắng, có bề rộng bằng mu bàn tay, được quét hình chữ thập lên con đường rải bê-tông rộng chừng 5m, là nơi được tránh mọi mũi tên hòn đạn và mìn nổ. Các bạn Việt Nam lưu ý chúng tôi bằng mọi giá đừng có bước lên đường biên, vì sẽ có cớ để bên kia coi như một sự khiêu khích.
Tiến đến gần biên giới, chúng tôi liếc nhìn thấy những người Hoa. Ở hai bên của con đường, các quân nhân có vũ trang đứng làm hai hàng, trước họ là một người có vẻ như quan chức ngoại giao vận áo kiểu Tôn Trung Sơn, bên cạnh người này là một nhóm ký giải, phóng viên ảnh đang nhộn nhạo chuẩn bị máy quay.
Thời đó còn chưa có – ít nhất là tại Việt Nam và Trung Quốc – loại máy quay cầm tay đa chức năng TV – máy quay – đầu phát video – mà người quay phim ở cả hai bên đều dùng máy quay chạy bằng pin, hoặc loại “lên dây” bằng lò xo. Cả hai bên đều rất hăng hái chụp ảnh lẫn nhau, cố nhiên lý do không đơn thuần chỉ là sự tò mò của các nhà báo.
Trong hồ sơ lưu trữ của cơ quan quân báo Trung Quốc có thể cũng có vài chục tấm ảnh chụp tôi thời đấy. (Dầu sao, hơn chục năm sau, khi tôi đã chuyển sang Bắc Kinh trên cương vị phóng viên thường trú của “Tự do Nhân dân”, chưa bao giờ có viên chức Trung Quốc nào bảo tôi “thưa ngài, chúng tôi đã thấy ngài ở bên kia biên giới phía Nam, bên Việt Nam”. Nói thêm là đến lúc đó các mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc đã được bình thường hóa…).
Trở lại năm 1981. Tại biên giới phía bên Việt Nam, một sĩ quan Quân đội Nhân dân đứng lên và đọc một bài đã được viết sẵn, rồi các tù binh Trung Quốc, từng người một, đi sang phía bên kia biên giới. Tất cả đều mặc bộ quần áo giản dị và sạch sẽ màu xanh xám, mỗi người cầm một túi nhỏ, bên trong là những món quà.
Trong vụ trao đổi tù binh này có một tấn tuồng gì đấy mang tính kỳ quặc và buồn bã. Nhiều tù binh Trung Quốc, khi vừa bước qua biên giới, đã quẳng ngay túi quà với động tác ngoạn mục. Cứ mỗi người như thế lại có hai y tá mặc áo choàng trắng tiến đến gần, ôm lấy, dìu đi như thể bị ốm nặng – mặc dù họ hoàn toàn khỏe mạnh, được ăn uống đầy đủ, và đây là điều mà không phải mọi người Việt đều có được trong những thời gian đói kém ấy.
Rồi sau đó đến lượt tù binh Việt Nam được trao trả từ phía Trung Quốc. Những người lính Việt cũng mặc đồng phục sạch sẽ, tay cầm túi quà, nhưng không cư xử hề như một bộ phận tù binh Trung Quốc. Ở phía Việt Nam, một sĩ quan trong Ủy ban đón tiếp ôm chầm lấy từng người, nói “các đồng chí đã trở về quê hương”, rồi những người này lặng lẽ lùi ra sau để nhường chỗ cho người khác.
Mỗi cuộc trao đổi tù binh như thế kéo dài không quá một tiếng rưỡi. Sau đó chúng tôi quay trở lại cũng trên con đường mòn chật hẹp ấy để trở lại xe, đi qua thị trấn Đồng Đăng bị tàn phá tan hoang đượm buồn, qua các làng bản và rồi một lát đã về tới Lạng Sơn.
Sau xung đột nghiêm trọng ở vùng biên giới tháng 4-1984, các bạn Việt Nam đưa giới phóng viên chúng tôi đến một đoạn khác của biên giới, tại đây chúng tôi có thể quan sát hoạt động của một trung đội biên phòng Việt Nam. Chương trình này kéo dài nhiều ngày, chúng tôi ngủ tại một doanh trại quân đội ở một xã nhỏ cạnh Lạng Sơn. Bộ đội Việt Nam cho chúng tôi mượn chăn vì ở vùng đó, về đêm nhiệt độ xuống gần 0 độ, mà độ ẩm lại cao nên rất khó chịu.
Một số chiến sĩ thuộc trung đội luyện các bài chiến thuật – tiếp cận mục tiêu ẩn. Được trang bị súng trường AK-47, tận dụng địa thế không bằng phẳng, họ bò sát đất để đến gần mục tiêu.
Trên sườn đồi nhìn về phía Trung Quốc (phía Bắc), tọa lạc hệ thống hào công sự ngoằn ngoèo, cứ một đoạn lại có cứ điểm đặt súng máy: đó là loại đại liên DShK 12,7 ly của Liên Xô, được gọi bằng cái tên “Dushka”. Đối diện với nó, trên những cánh đồng thuộc lãnh thổ Trung Quốc, nông dân vẫn làm việc, trồng lúa, họ cũng di chuyển nhịp nhàng hệt như những người Việt cùng số phận với họ.
Cuộc chiến biên giới rộ lên năm 1979, nhưng sau giai đoạn đầu đó xung đột quân sự giữa đôi bên vẫn âm ỉ trong nhiều năm dài. Các bạn tháp tùng tôi nói rằng thỉnh thoảng, Trung Quốc lại bắn từ phía họ sang lãnh thổ Việt Nam, họ dùng cả đại liên và đại bác – cố nhiên Việt Nam cũng không chịu để yên.
Thời trước tôi từng là lính pháo thủ, nên tôi có thể nhận ra dấu vết của tạc đạn loại 122 ly trên đồng ruộng bên Việt Nam, cách xa biên giới nhiều cây số. Pháo binh Trung Quốc dùng loại đạn nổ ngay khi tiếp đất, do đó nó tạo nên những “miệng núi lửa” đen xì đường kính 60-80cm, nhưng mảnh đạn của nó thì có thể oanh tạc người và động vật trong vòng 50-70m.
Những dư chấn của cuộc chiến Việt – Trung cũng có ảnh hưởng tới chúng tôi, giới phóng viên ở Hà Nội. Cho dù nhóm ký giả quốc tế này có nhỏ bé thế nào đi nữa, nhưng tại đó cũng có sự hiện diện của hãng tin Pháp AFP (và tờ “Nhân đạo”, l’Humanité), độc nhất trong số các hãng truyền thông lớn của Phương Tây.
Khi đó, tại Hà Nội, tòa đại sứ Trung Quốc vẫn hoạt động như một thế giới vô cùng khép kín. Đối với Bắc Kinh, quan trọng là họ đảm bảo được “thiện cảm” của giới phóng viên. Một bận, họ mời các phóng viên ngoại quốc tới Đại sứ quán Trung Quốc. Không phải tất cả đều nhận lời, nếu tôi nhớ không nhầm thì vài người, trong số đó có nhóm phóng viên Liên Xô – nhóm đông đảo nhất – đã từ chối.
Tôi thì đi, vì tôi là nhà báo, nhiệm vụ của tôi là phải thu nhập được thông tin một cách rộng rãi nhất trong phạm vi có thể. Khỏi phải nói là ở tại tòa đại sứ, tôi được chiều chuộng hết cỡ: được xem phim, mời ăn những món tuyệt vời và còn được tắm trong một bể bơi nước sạch tinh tươm – một thanh niên người Hoa vạm vỡ còn thách tôi thi bơi.
Cuộc chiến Việt – Trung 1979 (còn được gọi là cuộc chiến Đông Dương thứ ba) có mối quan hệ gì với chính trường thế giới? Trung Quốc, như họ muốn, muốn “cho Việt Nam một bài học” vì nước này vào năm 1978 đã khởi quân chống thể chế diệt chủng Pol Pot ở Cam Bốt, vốn được Bắc Kinh bảo trợ.
Họ chỉ chờ thời, và thời cơ tới khá nhanh: đầu năm 1979, lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã sang thăm Hoa Kỳ để có được sự ủng hộ ngầm của Washington. Nếu không có được điều đó, khả năng là sau đó sáu tuần Bắc Kinh đã không dám hủy bỏ Hiệp ước Hữu nghị với Liên Xô, và hai ngày sau thì mở một cuộc tấn công quân sự trên bộ đối với Việt Nam với một sức mạnh chưa từng thấy ngay cả trong những năm diễn ra cuộc chiến Việt – Mỹ.
Bắc Kinh, khí đó cũng mới chỉ ra khỏi thời kỳ “cách mạng văn hóa” đẫm máu và để lại sự tàn phá ghê gớm, nghi rằng đằng sau sự trợ giúp của Việt Nam đối với nhân dân Cam Bốt là dụng ý của Moscow, nhằm cô lập hóa Trung Quốc. Tất nhiên vào dạo ấy điện Kremlin cũng có đủ vấn đề phải lo nghĩ, vì Liên Xô đang bên bờ vực thẳm của sự sụp đổ về kinh tế.
Bắc Kinh, khí đó cũng mới chỉ ra khỏi thời kỳ “cách mạng văn hóa” đẫm máu và để lại sự tàn phá ghê gớm, nghi rằng đằng sau sự trợ giúp của Việt Nam đối với nhân dân Cam Bốt là dụng ý của Moscow, nhằm cô lập hóa Trung Quốc. Tất nhiên vào dạo ấy điện Kremlin cũng có đủ vấn đề phải lo nghĩ, vì Liên Xô đang bên bờ vực thẳm của sự sụp đổ về kinh tế.
Cuộc chiến với Hoa Kỳ về công nghệ, được đẩy lên cực điểm trong cuộc chạy đua quân sự mang tên “Chiến tranh giữa các vì sao” của Ronald Reagan, rốt cục đã khiến Liên bang Xô-viết sụp đổ. Trung Quốc có thể an tâm, rằng trong một thời gian dài Moscow sẽ không đe dọa họ về quân sự, và gần như đồng thời với sự tan rã của đế chế này, mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc được bình thường hóa.
Vào thời điểm các sự kiện kể trên xảy ra – cách đây cũng đã hơn 35 năm -, Hoa Kỳ còn chưa có đại diện ngoại giao tại Hà Nội. Nếu ai đó nói với tôi, một phóng viên nước ngoài ở Hà Nội năm 1981, “cậu sẽ thấy, vài thập niên nữa USA sẽ là đối tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam”, khả năng là tôi sẽ phì cười. Điều đó giờ đã là một thực tế…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét