Thứ Tư, 18 tháng 1, 2017

Tại Davos, Chủ tịch Tập Cận Bình chỉ trích mạnh ông Donald Trump

Thiên Hà | 

Tại Davos, Chủ tịch Tập Cận Bình chỉ trích mạnh ông Donald Trump
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình phát biểu trong Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại Davos.

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã chỉ trích mạnh quan điểm của ông Donald Trump về toàn cầu hóa và nói rằng "không ai có thể chiến thắng trong một cuộc chiến thương mại" trong bài phát biểu trước Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại Davos.

Ông Tập Cận Bình nhấn mạnh rằng toàn cầu hóa đã giúp nền kinh tế thế giới phát triển nhanh chóng trong thời gian qua và không thể đổ lỗi cho nó về những vấn đề mà thế giới đang vấp phải.
"Đúng là nền kinh tế toàn cầu hóa tạo ra những vấn đề mới, nhưng điều này không có nghĩa là mọi điều xấu đều do toàn cầu hóa kinh tế. Thay vào đó chúng ta cần thích ứng và tiếp tục xu hướng toàn cầu hóa kinh tế để giảm tác động tiêu cực và tăng những hiệu ứng tích cực của nó với tất cả các nước", Chủ tịch Tập Cận Bình tuyên bố.
Ông Tập dùng bài phát biểu đầu tiên của một người đứng đầu chính phủ Trung Quốc tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới nhằm thúc đẩy toàn cầu hóa và cảnh báo phong trào dân túy đang lên ngôi tại châu Âu có thể dẫn đến chiến tranh và nghèo đói.
"Không ai có thể nổi lên như là người chiến thắng trong cuộc chiến tranh thương mại toàn cầu", ông Tập tuyên bố, bóng gió chỉ trích quan điểm của Tổng thống đắc cử của Mỹ Donald Trump.
"Theo đuổi chủ nghĩa bảo hộ giống như việc giam một người trong phòng tối. Gió và mưa có thể không làm ảnh hưởng tới người này nhưng ánh sáng và không khí cũng sẽ không tới được với người đó", ông Tập nói thêm.
Tuyên bố của ông Tập tại Diễn đàn Kinh tế Thế giới tại Davos được xem là một lời chỉ trích mạnh chống lại Tổng thống mới đắc cử Donald Trump khi tỉ phú New York thường đưa ra các tuyên bố về bảo hộ thương mại, chống lại xu hướng toàn cầu hóa kinh tế.
theo Một thế giới

Người Nga nói thật về Chiến tranh Việt Nam

02-05-2015
08:30 AM
Thanh Bình

Cũng như không ai giấu diếm sự tham gia của các quân nhân chúng ta (Liên Xô) trong các hoạt động tác chiến tại Việt Nam.

Nhưng không phải của các phi công mà là của các chiến sỹ tên lửa. Khác với pháo cao xạ và MiG, người Việt Nam nắm bắt việc sử dụng tên lửa khó khăn hơn. Chính vì vậy mà ở giai đoạn đầu của cuộc chiến tranh (phá hoại bằng không quân của Mỹ -ND), chính các chiến sỹ tên lửa Liên Xô đã sử dụng S-75.
Những quả tên lửa S-75 đầu tiên được phóng trên lãnh thổ Việt Nam là vào ngày 25/7/1965 – các tổ hợp tên lửa của Trung đoàn tên lửa phòng không số 236 Quân khu phòng không Matxcova (đang có mặt tại Việt Nam) đã bắn hạ 03 chiếc F-4 “Con ma”.
Người Nga nói thật về Chiến tranh Việt Nam
Phi công Mỹ lắp vũ khí cho máy bay lên thẳng UH-1 chuẩn bị đánh nhau với các du kích Việt Cộng tại tỉnh Vĩnh Long, Nam Việt Nam, 18/3/1963 . (Ảnh: Horst Faas/AP)
Không quân Mỹ có vinh dự là Lực lượng không quân đầu tiên trên thế giới đối đầu với các đợt tấn công bằng tên lửa phòng không ồ ạt. Cho đến tận ngày cuối cùng của chiến tranh (Việt Nam) - phải nói rằng trên thực tế đã diễn ra một cuộc chiến thực sự giữa các bộ não của các Trung tâm nghiên cứu khoa học và các phòng thiết kế Xô Viết và Mỹ.
Chính họ (các nhà khoa học và thiết kế) là người góp phần quyết định ai mạnh hơn – không quân hay bộ đội tên lửa phòng không. Hiệu quả tác chiến rất cao thời kỳ đầu (tức là số lượng tên lửa phải sử dụng để tiêu diệt một máy bay) của S-75 đã giảm xuống nhiều lần do Mỹ sử dụng phương tiện tác chiến điện tử, tên lửa chống radar và các chiến thuật mới.
Mặc dù vậy, người Mỹ vẫn không thể nào giải quyết được vấn đề các tổ hợp tên lửa phòng không (của Bắc Việt Nam-ND). Đến nay, phía Mỹ đã chính thức thừa nhận tổn thất của Mỹ từ S-75 (sau đây lần lượt xếp theo các kiểu máy bay) như sau:
15 máy bay ném bom chiến lược B-52, 02 hoặc 03 máy bay ném bom chiến thuật F-111, 32 máy bay tiêm kích F-4, 08 F-105, 01 F-104, 11 F-8, 04 máy bay trinh sát RB-66, 05 RF-101, 01 O-2, 26 máy bay cường kích A-4, 09 A-6, 18 A-7, 03 A-3, 03 A-1, 01 AC-130, 01 máy bay vận tải C-123, 01 máy bay lên thẳng CH-53.
Thiệt hại trên thực tế chắc chắn phải cao gấp nhiều lần (số lượng tối đa máy bay Mỹ bị các tổ hợp tên lửa phòng không (Bắc Việt Nam-ND) bắn rơi -1.770 chiếc), nhưng bây giờ thì đã rất khó xác định (và cũng không nhất thiết phải làm thế).
Tổng cộng từ năm 1965 đến năm 1972 Liên Xô đã cung cấp cho Việt Nam 95 tiểu đoàn (cơ số đạn và tổ hợp phóng –ND) S-75 và 7.658 quả tên lửa phòng không.
Đến cuối chiến tranh đã có 6.806 quả đạn đã sử dụng và bị mất (trên lãnh thổ Trung Quốc), lực lượng còn sẵn sàng chiến đấu đến thời điểm kết thúc chiến tranh – 43 tiểu đoàn.
Ngoài ra, vào giai đoạn cuối chiến tranh chống Không quân Mỹ, tổ hợp tên lửa phòng không vác vai “ Strela-2” cũng được bắt đầu sử dụng. Từ đầu năm 1972 đến tháng 01/1973, các chiến sĩ cộng sản Việt Nam đã dùng “Strela-2” bắn hạ 29 máy bay Mỹ (01 F-4, 07 O-1, 03 O-2, 04 OV-10, 09 A-1, 04 A-37) và 14 máy bay lên thẳng ( 01 CH-47, 04 AH-1, 09 UH-1).
Ngoài các chiến sỹ tên lửa phòng không Liên Xô, đặc nhiệm GRU (Tổng cục Tình báo quân sự Bộ Tổng tham mưu Các lực lượng vũ trang Liên Xô-ND) cũng tham gia chiến đấu tại Việt Nam, tuy không được công bố công khai nhưng cũng không ai giấu diếm thái quá.
Ví dụ, tháng 5/1968 một nhóm đặc nhiệm GRU gồm 9 người đã tấn công một căn cứ bí mật của Mỹ trên lãnh thổ Campuchia có biệt danh “Flying John” được sử dụng để tung các nhóm gián điệp- biệt kích vào Bắc Việt Nam và cứu các phi công của các máy bay Mỹ bị bắn hạ.
Trong căn cứ này có gần 20 máy bay lên thẳng, trong đó có 04 chiếc máy bay lên thẳng tấn công mới nhất thời kỳ đó là “ SuperCobra”. Tuy bị hy sinh 03 người, nhưng đặc nhiệm GRU đã đưa được 01 chiếc “Super Cobra” về Bắc Việt Nam, phá hủy hoặc phá hỏng những chiếc còn lại, giết và làm bị thương 15 quân nhân Mỹ. Còn bao nhiêu chiến dịch như vậy, rất khó xác định.
Con số tổn thất trong tác chiến của Các lực lượng vũ trang Liên Xô trên lãnh thổ Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 7/1965 đến cuối năm 1974 được công nhận chính thức là 13 người.
Nhưng tất nhiên, chính người Việt Nam mới là người giành chiến thắng trong chiến tranh. Giai đoạn bước ngoặt của cuộc chiến có lẽ là năm 1968. Lần đầu tiên trong lịch sử người ta mới “ngộ” ra rằng, những hình ảnh trên truyền hình về chiến tranh có khi còn quan trọng hơn cả chính chiến tranh.
Người Nga nói thật về Chiến tranh Việt Nam
Máy bay C-123 rải chất diệt cỏ tại các địa điểm đóng quân của bộ đội Việt Nam ("cộng sản") tại một khu vực giữa Sài gòn và Đà lạt tại Miền Nam Việt Nam, 02/8/1963. (Ảnh: Horst Faas/AP Photo)
Ngày 30/01/1968, 84.000 du kích Nam Việt Nam và các chiến sỹ Bắc Việt đã bắt đầu cuộc Tổng tấn công “Tết Mậu thân”, công kích mãnh liệt 36 trong 43 tỉnh lỵ Nam Việt Nam. Các chiến sĩ cộng sản đã chiếm cố đô Huế, những trận chiến ác liệt diễn ra ngay trên các đường phố Sài gòn.
Toàn nước Mỹ được tận mắt chứng kiến những hình ảnh này trên màn hình TV ngay trong nhà của mình. Và đến lúc này thì không ai và không cái gì có thể thuyết phục được người dân Mỹ nữa – mọi công dân Mỹ đã hiểu rằng người Mỹ đã thua và cần phải nhanh chóng chấm dứt cuộc chiến.
Đến đầu năm 1968 thì lực lượng của Quân đội Mỹ, Quân đội Việt Nam Cộng hòa, Quân đội Úc, Quân đội Nam Hàn đang có tại Nam Việt Nam là 17 sư đoàn bộ binh, 02 sư đoàn lính thủy đánh bộ, 02 sư đoàn kỵ binh (đường không) – tổng cộng 1,4 triệu tay súng (trong đó có hơn nửa triệu quân Mỹ- chính xác hơn là 550.000 ), 500 xe tăng, 4.500 khẩu pháo, 4.100 máy bay và máy bay lên thẳng.
Chiến dịch Mậu Thân này đã làm suy yếu rất mạnh tiềm lực tác chiến của những người cộng sản. Nhưng bản thân một cuộc tấn công quy mô lớn như vậy (vào các đô thị lớn –ND) cũng làm cho tâm lý –tinh thần của người Mỹ suy sụp không kém.
Không những thế, một nhóm (đại đội-ND) binh sỹ Mỹ của sư đoàn bộ binh số 23 dưới sự chỉ huy của trung úy Calley đã thảm sát dân thường tại làng Mỹ Lai (Sơn Mỹ- nổi tiếng toàn thế giới với cái tên này). Quân nhân Mỹ đã sát hạt toàn những người dân thường vô tội.
Các quân nhân của quân đội chính quy (Mỹ-ND) không có kinh nghiệm tác chiến chống du kích, hơn nữa là chống lại một đối phương cực kỳ thông minh và cũng cực kỳ cứng rắn như những người du kích cộng sản Việt Nam, - họ (những người du kích -ND) chiến đấu trong những điều kiện tự nhiên, khí hậu địa hình quen thuộc (của họ) nhưng lại hoàn toàn xa lạ đối với quân Mỹ.
Vụ thảm sát Sơn Mỹ đã tạo ra những sự thay đổi lớn trong Các lực lượng vũ trang Mỹ . Lầu Năm góc buộc phải ra một sắc lệnh yêu cầu các quân nhân Mỹ phải tuyệt đối tuân thủ các chuẩn mực của luật chiến tranh. Nhưng điều đó đã quá muộn. Uy tín của Quân đội Mỹ đã sụp đổ trong con mắt của toàn thế giới và ngay chính cả trong nhân dân Mỹ.
Nhưng vấn đề chính của người Mỹ lúc này không chỉ còn là sự xâm nhập của lính Bắc Việt vào Miền Nam mà còn là sự tha hóa ngay từ bên trong. Cũng chỉ trong năm 1969, 37 sỹ quan và hạ sỹ quan Mỹ đã bị chính các binh sỹ dưới quyền bắn (giết) chết.
Trước đây trong Quân đội Mỹ chưa từng có trường hợp nào như vậy. Còn ngay trong lòng nước Mỹ thì hiện tượng lính quân dịch (nghĩa vụ- ND) đào ngũ và các hoạt động phản chiến của nhân dân Mỹ đã trở thành một phong trào không thế nào ngăn chặn được.
Cuộc chiến tranh thông tin đã thất bại hoàn toàn (đối với Chính quyền Mỹ) và chính vì thế mà những thắng lợi quân sự (trong năm 1969) đã không còn một chút ý nghĩa nào.
Chính quyền Mỹ nhận thức được rằng trong một đất nước “dân chủ” thì không thể sử dụng một đội quân “nghĩa vụ” để tiến hành một cuộc chiến tranh mà dư luận xã hội (của đất nước đó-ND) không thể chấp nhận (cuộc chiến tranh đó-ND).
Đây là lý do vì sao mà ngay sau khi kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam, Chính quyền Mỹ đã bãi bỏ chế độ quân dịch và xây dựng Quân đội chuyên nghiệp.
Súng máy Gutling lắp trên F-4 để tấn công MiG,17/5/1967. (Ảnh:
Súng máy Gutling lắp trên F-4 để tấn công MiG,17/5/1967. (Ảnh: AP)
Những thử nghiệm trong hơn 50 năm qua cho thấy (ví dụ gần đây nhất là Iraq và Pakistan) là một quân đội đánh thuê (chuyên nghiệp-ND) không thể tiến hành chiến tranh, nếu như không được dư luận xã hội của nước mình chấp nhận (cuộc chiến tranh đó- ND).
Có nghĩa là nếu như một đất nước nào đó có dân chủ thì đất nước đó chỉ có thể tiến hành một kiểu chiến tranh duy nhất – đó là một cuộc chiến tranh phòng thủ chính nghĩa (hoặc là không có một cuộc chiến tranh nào).
Nếu như chính phủ muốn tiến hành một cuộc chiến tranh kiểu khác thì họ buộc phải lựa chọn giữa chiến tranh hoặc dân chủ hoặc là phải học được cách đánh nhau mà không có tổn thất (đây là tư duy của tác giả - ông là người rất phản đối thành lập một đội quân chuyên nghiệp-ND).
Trong các năm 1970 -1971, người Mỹ đã tiến hành các đợt đột kích sang lãnh thổ Lào và Campuchia nhằm cắt đứt tuyến chi viện từ Bắc vào Nam. Cuộc tấn công vào Campuchia mang lại một số kết quả hạn chế, nhưng vụ can thiệp vào Lào đã thất bại thảm hại. Sau các sự kiện đó, Hà nội quyết định là phải giải quyết dứt điểm vấn đề.
Ngày 31/3/1972, một đội quân Bắc Việt Nam quân số không ít hơn 40.000 người và 400 xe tăng – thiết giáp đã tấn công Nam Việt Nam.
Đây thực sự là một cuộc chiến tranh cổ điển điển hình giữa các quân đội chính quy. Sau nhiều trận giao tranh ác liệt, Lực lượng cộng sản đã chiếm được một vùng lãnh thổ rộng lớn ở phía Bắc Nam Việt Nam nhưng cũng chịu tổn thất nặng. Đến nỗi mà thời điểm mà Hà nội lên kế hoạch “Tổng tiến công” được xác định là vào tận năm 1976 (tức 4 năm sau đó).
Nhưng trên thực tế, những người cộng sản Việt Nam đã đạt những điều mình muốn (qua đợt tấn công này-ND), Mỹ buộc phải quyết định rút hoàn toàn lính Mỹ ra khỏi Việt Nam. Tuy nhiên trước khi (ra khỏi nhà) rút người Mỹ cũng đã đóng sập cửa rất mạnh bằng cách tiến hành một đợt không kích ồ ạt chống lại Bắc Việt Nam (chiến dịch “Linebacker-2”) và tự tuyên bố là đã chiến thắng để giữ thể diện.
Trong chiến dịch này Mỹ đã ném xuống Bắc Việt Nam gần 50.000 tấn bom, phá hủy 1.600 công trình. Nhưng cũng trong chiến dịch này Không quân Việt Nam, tuy mất 03 chiếc MiG-2 1 những đã hạ 02 B-52, 04 F-4, 01 RA-5C.
Các tổ hợp tên lửa phòng không S-75 đã bắn hạ, theo các số liệu khác nhau là từ 15 đến 32 B-52, 02 F-111, 02 F-4 trong khi chịu tổn thất là 01 tiểu đoàn (tên lửa phòng không S-75). Có lẽ vì thế mà cái gọi “ chiến thắng” mà Mỹ tự nhận trong chiến dịch này hoàn toàn không thuyết phục một chút nào.
Đầu năm 1973, Hiệp định Paris được ký kết, Mỹ phải rút quân khỏi Việt Nam. Trong cuộc chiến tranh này, Mỹ đã phải trả giá bằng 58.169 binh sỹ và sỹ quan thiệt mạng hoặc mất tích, hơn 200 xe tăng, 3.700 máy bay, 4.800 máy bay lên thẳng, hàng trăm tỷ đô la “cuốn theo chiều gió” và một cú sốc tâm lý cực mạnh.
Người Mỹ rút đi nhưng để lại cho Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa một khối lượng vũ khí khổng lồ.
Quân đội Nam Việt Nam về mặt hình thức đã là một trong những quân đội mạnh nhất trên thế giới (nếu tính về số lượng máy bay chiến đấu thì Quân đội này đứng thứ ba trên thế giới, chỉ sau Quân đội Mỹ và Quân đội Liên Xô) và hơn Quân đội Bắc Việt Nam nhiều lần nếu tính về quân số và vũ khí- trang bị kỹ thuật. Nhưng điều đó đã không còn ý nghĩa gì nữa.
Số phận Chính quyền Nam Việt Nam đã được định đoạt, và có lẽ những người (cầm quyền) ở Sài gòn có khi còn hiểu rõ hơn là ở Hà Nội. (Những người cầm quyền) ở Sài Gòn hiểu rằng người Mỹ sẽ không bao giờ quay trở lại và chỉ còn chờ ngày kết thúc. Yếu tố tâm lý tỏ ra quan trọng hơn nhiều so với số lượng và chất lượng vũ khí.
Nhờ có các căn cứ ở Lào và Campuchia mà quân Bắc Việt có thể tấn công lãnh thổ Nam Việt Nam đồng thời trên toàn bộ tuyến biên giới (với hai nước này).
Tháng 3/1975, khi Khi quân Bắc Việt tấn công Tây Nguyên, Sài Gòn cho rằng đây là một cuộc tổng tấn công nhằm chia cắt Nam Việt Nam thành hai phần. Vì thế họ đã tập trung lực lượng quanh thủ đô (Sài Gòn), gần như tự nguyện nhường toàn bộ phía Bắc (Nam Việt Nam-ND) cho lực lượng cộng sản.
Nhưng bất hạnh (đối với Chính quyền Sài Gòn –ND ) là ở chỗ chính khu vực phía Bắc (Nam Việt Nam-ND) lại là nơi tập trung những lực lượng tinh nhuệ nhất của Quân đôi Sài Gòn. Cuộc “di tản” các lực lượng này đã nhanh chóng biến thành một cuộc tháo chạy hỗn loạn.
Nắm được thời cơ, Hà Nội không còn một chút do dự gì nữa, tất cả các mặt trận đồng loạt tấn công và lúc này thì không ai và không cái gì có thể ngăn cản nổi. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa tan rã. Đúng 11 giờ trưa ngày 30/4/1975, lá cờ có ngôi sao vàng được kéo lên trên đỉnh nóc Dinh tổng thống ở Sài Gòn.
Xét tổng thể, nếu tính từ góc độ những hệ quả địa chiến lược và tầm ảnh hưởng đối với nghệ thuật quân sự (thế giới-ND) thì cuộc chiến tranh Việt Nam chỉ đứng sau hai cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỷ XX (Chiến tranh thế giới lần thứ nhất và Chiến tranh thế giới lần thứ hai-ND).
Sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc thì hình thái chiến tranh cổ điển này càng lùi sâu vào quá khứ. Thay thế hình thái chiến tranh này (chiến tranh cổ điển-ND) là cuộc chiến tranh công nghệ cao và phương án đáp trả phi đối xứng đối với nó (công nghệ cao-ND) là các cuộc chiến tranh nổi dậy (du kích-khủng bố).
Ngoài ra, chiến tranh thông tin ngày càng có ý nghĩa quan trọng, đôi khi còn thay thế hoàn toàn các hình thái chiến tranh khác.
 Theo Lê Hùng (lược dịch)
Đất Việt

ÔNG NGUYỄN PHÚ TRỌNG, ÔNG TRẦN ĐẠI QUANG, ÔNG NGUYỄN XUÂN PHÚC, BÀ KIM NGÂN NÊN SANG ĐÀI LOAN THỤ GIÁO BÀ THÁI ANH VĂN; Tướng TQ: Với tàu sân bay Liêu Ninh, có thể "lấy" Đài Loan trong 100 giờ

Bà Thái Anh Văn cảnh báo Trung Quốc

(NLĐO) – Bà Thái Anh Văn, người đứng đầu vùng lãnh thổ Đài Loan, đã có bài phát biểu đanh thép sau chiến thắng cuộc bầu cử tối 16-1.

Bà Thái Anh Văn thuộc đảng Dân chủ tiến bộ (DPP) đã đánh bại đối thủ Chu Lập Luân của Quốc Dân đảng để trở thành nhà lãnh đạo nữ đầu tiên của Đài Loan. Bà giành được 56% phiếu bầu, gần gấp đôi so với 31% phiếu bầu mà đối thủ Chu Lập Luân nhận được.  
Trong bài phát biểu sau chiến thắng, bà Thái Anh Văn ca ngợi kết quả bầu cử như một bằng chứng cho sự dân chủ bén rễ ở vùng lãnh thổ Đài Loan. Bà hứa hẹn sẽ nỗ lực để vùng lãnh thổ này được tôn trọng trên toàn thế giới. Không chỉ vậy, bà Thái Anh Văn cũng cảnh báo Bắc Kinh: “Hệ thống dân chủ, bản sắc dân tộc và không gian quốc tế của chúng tôi phải được tôn trọng, bất kỳ hình thức đàn áp nào cũng sẽ gây tổn hại mối quan hệ giữa hai bờ eo biển”.

Bà Thái Anh Văn cảnh báo Trung Quốc trong bài phát biểu mừng chiến thắng. Ảnh: Reuters
Bà Thái Anh Văn cảnh báo Trung Quốc trong bài phát biểu mừng chiến thắng. Ảnh: Reuters

Tuy nhiên, bà Anh Văn cũng cam kết duy trì hiện trạng “hòa bình, ổn định” với Bắc Kinh và cho biết cả hai có trách nhiệm tìm kiếm giải pháp hai bên có thể chấp nhận được, để ngỏ cánh cửa đàm phán trong tương lai. “Chúng tôi nỗ lực hướng tới việc giữ nguyên trạng hòa bình, ổn định trong mối quan hệ giữa hai bờ eo biển để mang lại lợi ích lớn nhất và hạnh phúc cho người dân Đài Loan” – Bà Anh Văn chia sẻ.
Trước đó, khi những người phản đối cảnh báo quan hệ Trung - Đài có thể tan vỡ nếu không công nhận chính sách "một Trung Quốc", người đứng đầu vùng lãnh thổ Đài Loan nhắc lại thỏa thuận ngầm giữa Trung Quốc và vùng lãnh thổ Đài Loan năm 1992 về chính sách “một Trung Quốc”: “Tôi tin rằng quan hệ hai bờ eo biển vẫn ổn định… Sự đồng thuận năm 1992 là một lựa chọn nhưng đó không phải là duy nhất”.
Các chuyên gia cho rằng dù chiến thắng nhưng bà Thái Anh Văn sẽ đối mặt nhiều thách thức lớn xoay quanh các vấn đề kinh tế, giảm khoảng cách người giàu, nghèo, cải cách giáo dục…
Bà Thái Anh Văn trở thành chủ tịch DPP trong năm 2008, sau khi phanh phui hàng loạt vụ bê bối tham nhũng. Bà chưa từng kết hôn, chuyện tình cảm ít được tiết lộ, điều mọi người biết đến nhiều nhất về đời tư ở bà là hai con mèo.

Bà Thái Anh Văn và mèo cưng. Ảnh: Facebook
Bà Thái Anh Văn và mèo cưng. Ảnh: Facebook

Bà có bằng luật của ĐH Quốc gia Đài Loan, ĐH Cornell và Trường Kinh tế - Khoa học chính trị London. Bà được cho là không có sức lôi cuốn hay tài ăn nói nhưng thuyết phục mọi người bằng sự chân thành, trí thông minh và lòng kiên trì. Bà rất ngưỡng mộ cựu Thủ tướng Anh Margaret Thatcher và Thủ tướng Đức Angela Merkel.
M.Khuê (Theo SCMP)



Tướng TQ: Với tàu sân bay Liêu Ninh, có thể "lấy" Đài Loan trong 100 giờ

Hải Võ | 
Tướng TQ: Với tàu sân bay Liêu Ninh, có thể "lấy" Đài Loan trong 100 giờ
Nhóm tàu sân bay Liêu Ninh (Ảnh: China.com)

Trung tướng Vương Hồng Quang, cựu Phó tư lệnh quân khu Nam Kinh, Trung Quốc cảnh báo trong bài xã luận đăng trên Thời báo Hoàn Cầu ngày 16/1.

Kể từ hôm 24/12 năm ngoái, nhóm tàu sân bay Liêu Ninh của Trung Quốc đã đi qua eo biển Miyako, xuôi theo Tây Thái Bình Dương xuống phía Nam, đi qua eo biển Bashi tiến vào biển Đông tập luyện quân sự và đã thông qua eo biển Đài Loan để trở về đại lục hồi tuần trước sau khi hoàn thành chương trình huấn luyện.
Trong khi các quan chức quân đội và chính phủ Trung Quốc tuyên bố tàu Liêu Ninh đi qua eo biển Đài Loan là "hoàn toàn bình thường" và sẽ tiếp diễn trong tương lai, sự hiện diện của nhóm tàu sân bay này tạo ra mối lo ngại lớn cho chính quyền Đài Loan.
Tờ Hoàn Cầu dẫn lời các tướng lĩnh quân đội Đài Loan khẳng định họ "có sách lược đối phó Trung Quốc", thậm chí sẵn sàng phóng hàng trăm quả tên lửa nếu có dấu hiệu đe dọa từ tàu Liêu Ninh.
Trong bài xã luận trên Hoàn Cầu ngày 16, tướng quân đội Trung Quốc Vương Hồng Quang đáp trả rằng thời điểm tàu sân bay Liêu Ninh đi qua eo biển Đài Loan chính là lúc hòn đảo này "an toàn nhất".
Tướng TQ: Với tàu sân bay Liêu Ninh, có thể lấy Đài Loan trong 100 giờ - Ảnh 1.
Tướng Trung Quốc Vương Hồng Quang (Ảnh: ifeng)
 Ông Vương tiết lộ "bí mật" rằng một trong những mục tiêu của hoạt động huấn luyện tàu sân bay, cũng như việc Trung Quốc điều máy bay ném bom chiến lược H-6K bay ra Tây Thái Bình Dương, là nhằm kiểm nghiệm khả năng "chiếm trận địa" hướng Nam-Bắc cách đảo Đài Loan 300-500 km về phía Đông, gây sức ép với Nhật Bản và các nhóm tàu sân bay của Mỹ tiến tới từ "chuỗi đảo thứ hai".
Theo ông này, trong khoảng 1-2 năm tới, thế giới sẽ chứng kiến hải quân, không quân và lực lượng tên lửa của Trung Quốc tập trận chung ở vùng biển gần Đài Loan và cả Tây Thái Bình Dương.
"Lý do tàu sân bay Liêu Ninh tiến về phía Nam với vận tốc tới 30 hải lý/giờ sau khi ra khỏi eo biển Miyako chính là để xác định thời gian bố trí lực lượng.
Với tốc độ này, nhóm tàu sân bay sẽ vào vị trí sẵn sàng vòng 24 giờ. Trong tổng thời gian 100 giờ mà tôi ước lượng cuộc 'thu phục Đài Loan bằng vũ lực' diễn ra, thì đây cũng là khoảng thời gian 'chuẩn bị hỏa lực'.
Khi tấn công bằng hỏa lực kết thúc, tức tàu sân bay được bố trí xong, thì quân đổ bộ của chúng ta cũng đã lên đảo [Đài Loan]," Vương Hồng Quang khẳng định trong bài xã luận.

Đại biểu Quốc hội- Bí thư Thành đoàn Cần Thơ Trần thị Vĩnh Nghi bị khiển trách...; 13 nhà báo bị thu thẻ trong năm 2016

Nhờ người học thay, bí thư thành đoàn Cần Thơ bị khiển trách

18/01/2017 11:53 GMT+7
TTO - Trong quá trình học lớp quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên trong năm 2016, bí thư Thành đoàn TP Cần Thơ Trần Thị Vĩnh Nghi đã nhờ người khác học thay. 
Nhờ người học thay, bí thư thành đoàn Cần Thơ bị khiển trách
Bà Trần Thị Vĩnh Nghi trong một lần tiếp xúc cử tri vì bà cũng là đại biểu Quốc hội thuộc đơn vị TP Cần Thơ - Ảnh: Chí Quốc
Trưa 18-1, Ủy ban Kiểm tra Thành ủy Cần Thơ xác nhận Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Cần Thơ vừa có quyết định kỉ luật “khiển trách” đối với bà Trần Thị Vĩnh Nghi, bí thư Thành đoàn TP Cần Thơ.
Cô giáo: Con của ông bà đến lớp hay ngủ gật? Bố: - Lớn lên sẽ cho ứng cử Đại biểu Quốc hội !
( Tranh biếm họa của Romania )
Bà Nghi cũng là ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ TP Cần Thơ, ủy viên Ban thường vụ Trung ương Đoàn, đại biểu Quốc hội khóa XIV.
Bà Nghi bị kỉ luật vì “vi phạm quy chế học tập” tại Trường Chính trị TP Cần Thơ. Cụ thể, trong quá trình học lớp quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên trong năm 2016, bà Nghi đã nhờ người khác học thay.
Giải trình với cơ quan thẩm quyền, bà Nghi cho biết lý do vắng mặt ở lớp học là do bà tham gia một chương trình do Ban chấp hành trung ương Đoàn tổ chức đến một đơn vị hải quân.
Trao đổi với phóng viên Tuổi Trẻ, ông Phùng Minh Hải, hiệu trưởng Trường Chính trị TP Cần Thơ cũng xác nhận việc bà Nghi nhờ người học thay.
Sau khi phát hiện việc này, trường đã lập biên bản xử lý vi phạm theo quy chế của trường nhưng sau đó bà Nghi tự động bỏ học nên trường đã báo cáo các cơ quan liên quan gồm: Thành ủy, Thành đoàn Cần Thơ, Đảng ủy khối Cơ quan Dân Chính Đảng TP Cần Thơ.
Trưa 18-1, phóng viên đã gọi điện để nghe ý kiến bà Nghi về việc bị kỉ luật nhưng bà Nghi không nghe máy, nhắn tin vào số máy bà Nghi cũng không được hồi âm.
TIẾN TRÌNH - CHÍ QUỐC

13 nhà báo bị thu thẻ trong năm 2016

LĐO M.H

Vấn đề đạo đức nhà báo đã được nhấn mạnh tại Hội nghị báo chí toàn quốc tổng kết công tác năm 2016 diễn ra tại Hà Nội chiều nay 18.1. Báo cáo của Bộ Thông tin Truyền thông cho biết, năm qua, hàng chục cơ quan báo chí và nhà báo đã bị xử lý vì các vi phạm đạo đức nghề nghiệp, trong đó nhiều nhất là thông tin sai sự thật. 

    Tham luận tại hội nghị, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Hoàng Vĩnh Bảo nêu tình trạng một số cơ quan báo chí  sa đà phản ánh những vấn đề thuộc lĩnh vực không đúng tôn chỉ, mục đích, thông tin phiến diện, không cân bằng, quá nhiều thông tin tiêu cực, giật gân câu khách, thông tin thiếu nhạy cảm về chính trị, không phù hợp lợi ích của đất nước, của nhân dân... Có tình trạng không ít cơ quan báo chí khai thác thông tin từ truyền thông xã hội nhưng không kiểm chứng, dẫn đến thông tin sai lệch, gây hậu quả xấu với cá nhân, tổ chức, xã hội...
    Thứ trưởng Hoàng Vĩnh Bảo cho biết, trong năm qua, Bộ Thông tin Truyền thông đã tiến hành thanh kiểm tra theo kế hoạch với 11 cơ quan báo chí và 11 tổ chức liên quan đến hoạt động truyền hình trả tiền, cung cấp sử dụng thông tin trên mạng Internet, thực hiện hiệm vụ kiểm tra xử lý vi phạm theo thẩm quyền 139 trường hợp với số tiền hơn 3,6 tỉ đồng. Sai phạm chủ yếu của các cơ quan báo chí là thông tin sai sự thật (75 trường hợp), trong đó riêng với 2 vụ liên quan đến thông tin về nước mắm nhiễm thạch tín và cậu bé ở Gia Lai tự tử vì không có áo mới đi học, cơ quan chức năng đã xử lý gần 70 cơ quan báo chí. 
    Trong năm qua, Bộ Thông tin Truyền thông đã có quyết định đình bản tạm thời 3 tháng với 4 trường hợp cơ quan báo chí có sai phạm; ban hành quyết định thu hồi giấy phép hoạt động của một cơ quan báo chí theo đề nghị của cơ quan chủ quản tạp chí; quyết định thu hồi thẻ nhà báo với 13 nhà báo do có sai phạm và bị xử lý kỷ luật. Trong năm qua, Hội nhà báo Việt Nam xóa tên 313 hội viên vì những lý do khác nhau; khai trừ 2 hội viên vi phạm đạo đức  nghề nghiệp, pháp luật.
    Ông Hồ Quang Lợi, Phó Chủ tịch thường trực Hội Nhà báo Việt Nam cho rằng, con số nhà báo bị xử phạt cho thấy đạo đức nhà báo đã đến mức báo động. Trong những thiếu sót, trầm trọng nhất là thông tin sai sự thật, làm lung lay giá trị tinh thần, đạo đức, mất niềm tin trong xã hội.
    Ông Lợi nêu tình trạng một số nhà báo ảo tưởng nghề nghiệp, lợi dụng nghề để vụ lợi, đánh hội đồng, trong khi năng lực nhìn nhận kém cỏi, phán xét hồ đồ, dẫn tới sai phạm từ nhỏ đến nghiêm trọng. Một số trường hợp vi phạm chưa  được cấp thẻ nhà báo, chưa phải là hội viên Hội Nhà báo, nên khi vi phạm, cơ quan báo chí chỉ chấm dứt hợp đồng, trong khi đó cái chính là khâu đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ chưa được chú trọng.
    Báo chí đang đứng trước thử thách gay gắt, trong cơn bão số hóa, thông tin xô bồ thì độc giả càng có nhu cầu thông tin đúng đắn  – ông Lợi nói. “Kiến thức trong đầu, đạo đức trong tim thì nhà báo mới trở nên hữu ích, lan tỏa, xây dựng nền báo chí nhân văn hướng thiện, vì con người”.  Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo Việt Nam  đề nghị trong thời gian tới, các cơ quan báo chí cần tăng cường chú trọng bồi dưỡng xây dựng đạo đức nghề nghiệp, năng lực cho phóng viên, trong đó chú trọng đến  10 điều quy định về đạo đức nghề nghiệp  nhà báo Việt Nam mới được đưa ra gần đây.