Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2017

Thảm kịch Vũng Áng đợt 2; Bạch Hoàn: Formosa - Cái giá phải trả (Phần 2: Quan hay Dân, ai phải trả giá?); Tướng Cương: 'Dự án Formosa có gì mà phải bí mật?'

Thảm họa môi trường do Formosa xả chất độc trực tiếp ra biển từ Tháng 4, 2016 gây thiệt hại lớn lao cho ngư dân 4 tỉnh Miền Trung cho đến nay vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng, dù nhà cầm quyền CSVN thông báo đã nhận tiền 250 Triệu Mỹ Kim “đền bù” đợt 1 từ thủ phạm. Mọi sự được coi như xí xóa và đó chỉ là một “sự cố” nho nhỏ về môi trường theo cách nói của những viên chức chính quyền cộng sản.

JPEG - 45.8 kb
Dải nước màu đỏ đục xuất hiện ở biển Vũng Áng hôm 18-2-2017. Ảnh: VietNamNet
Trong lúc đời sống ngư dân đang tiếp tục điêu đứng thì vào sáng ngày 18 Tháng 2, 2017 vừa qua, dư luận lại một lần nữa xôn xao với nguồn tin về hiện tượng một dải nước màu đỏ đục xuất hiện tại khu vực cảng Sơn Dương, thuộc công ty TNHH Gang Thép Hưng Nghiệp Formosa, Hà Tĩnh. Đồng thời, trên mạng xã hội xuất hiện một video clip cho thấy một giòng nước màu đỏ chảy ra từ một miệng cống xuống biển, minh họa cho một thảm kịch trong những ngày sắp tới khiến ai cũng băn khoăn.

Với những gì đang xảy ra, cũng chưa cần đi sâu vào vụ vệt đỏ có hại và tạo ra ô nhiễm hay không, vì đó là kết luận cần có của những nhà khoa học và các cơ quan nghiên cứu; nhưng điều mà người ta thấy trước tiên là phản ứng của chính quyền Hà Tĩnh, Sở Tài nguyên Môi trường. Tất cả đều im lặng hay lờ đi, hay chối phăng là không có gì, giống như thái độ đối với thảm kịch Vũng Áng xảy ra cách nay gần một năm.

Dù nhà cầm quyền CSVN có kỹ luật hai ông Võ Kim Cự và Hồ Anh Tuấn ở mức cao nhất đi chăng nữa cũng sẽ không làm cho nhân tâm ổn định vì vấn đề ô nhiễm vẫn còn đó chưa được tẩy xóa và nhất là chưa xử tội những cán bộ cao cấp gồm Nguyễn Tấn Dũng và Hoàng Trung Hải đã chính thức ký cho phép Formosa vào đầu tư chứ không phải ông Võ Kim Cự hay một ai khác.

Chẳng ai cảm thấy yên tâm khi một lãnh đạo nào đó của Ban quản lý khu kinh tế tỉnh Hà Tĩnh chưa chi đã vội vàng nói “hiện tượng vệt nước đỏ xuất hiện ngày 17 Tháng 2 tại cảng Sơn Dương và Vũng Áng không có gì nguy hiểm”, và “hải sản tại khu vực đó vẫn phát triển bình thường”, theo báo Lao Động.

Hoặc ngày 21 Tháng 2, một cán bộ trong Tổ công tác giám sát Formosa thuộc Bộ Tài nguyên & Môi trường kết luận rằng vệt nước màu đỏ có dấu hiệu nguồn nước bị “ô nhiễm hữu cơ”. Đây chỉ là điều võ đoán vì thông thường ô nhiễm hữu cơ là ô nhiễm có nguồn gốc từ sinh hoạt trong dân và không có màu của vệt đỏ. Xem ra lần này Bộ Tài nguyên & Môi trường đã dứt khoát bỏ quên hai nguồn gốc “tảo đỏ” và “thủy triều đỏ” như đã từng biện giải lần trước.

Người ta còn nhớ vào đầu Tháng 7, 2016, ông Nguyễn Xuân Phúc lúc đó đã hùng hổ tuyên bố rằng nếu “sự cố” Vũng Áng xảy ra lần thứ hai thì sẽ đóng cửa nhà máy Formosa ngay. Bây giờ, đây là cơ hội người dân Việt đòi ông Nguyễn Xuân Phúc phải thực hiện lời hứa của mình:

Thứ nhất, cho thành lập ủy ban độc lập điều tra ngay vụ xảy ra dòng nước đỏ. Ủy ban này phải bao gồm những nhà khoa học, những cơ quan, viện nghiên cứu nằm ngoài sự kiểm soát của chính phủ cũng như của đảng cộng sản. Việc mời các chuyên gia về môi trường biển nước ngoài tham gia nghiên cứu, phân tích các mẫu nước đỏ cũng là điều kiện không thể thiếu để đi đến một kết luận thống nhất với chuyên gia trong nước.

Trong lần trước đây, nhà cầm quyền CSVN đã thẳng thừng từ chối điều này vì tự cho rằng mình có đủ khả năng làm. Cuối cùng những kết luận điều tra đưa ra lạc quan đồng điệu, không khác những tiếng nói lấp liếm của các viên chức cấp cao trong chính phủ. Lần này, nếu là một chính phủ có trách nhiệm, ông Phúc không thể lập lại những gì mà người dân đánh giá là sự gian dối, như bày trò cùng nhau tắm biển, ăn cua ăn cá, tuyên bố quàng xiên.

Thứ hai, phải để cho các cơ quan truyền thông trong nước được quyền tự do thông tin cho người dân biết sự vận hành của Formosa ra sao, vì đây là lần thứ hai xảy ra vụ vệt đỏ trong vùng biển Vũng Áng. Không có tự do thông tin, Formosa trở thành một thứ tô giới mà việc kinh doanh của nó bất chấp những hiểm họa không lường trút lên đầu người dân Việt. Đây là một hành động có tính cách thử thách đối với một chính quyền lâu nay thường rao truyền là có tự do báo chí hàng triệu lần, nhưng những ngòi bút ký giả phóng viên kể cả sinh mạng chính trị của họ lại đặt dưới quyền sinh sát của cơ quan tuyên giáo đảng.

Được biết Khu Kinh Tế Vũng Áng là một dự án công nghiệp với đầu tư ban đầu là trên 9 tỷ Mỹ Kim và dự trù tăng lên đến 29 tỷ. Vũng Áng được coi là dự án đầu tư lớn nhất từ trước đến nay, nằm trong giấc mơ công nghiệp hóa-hiện đại hóa nền kinh tế, sẽ mang lại nhiều hy vọng cất cánh cho chế độ Hà Nội. Cũng chính vì thế mà chủ đầu tư Formosa được hưởng thật nhiều ưu đãi từ việc thuê mướn đất đai đến chính sách thuế khóa.

Nhưng sau mấy năm đầu tư đợt 1, Vũng Áng đã trở thành ác mộng cho Hà Nội với thảm họa môi trường do nhà máy Formosa gây ra mà không biết bao giờ mới thực sự được khắc phục. Do muốn che giấu, bảo vệ Formosa dù bằng chứng quá rõ ràng, chế độ lúng túng và bất lực trong phương cách giải quyết làm bùng nổ hàng loạt cuộc chống đối của người dân.

Cuộc đi bộ khiếu kiện Formosa của giáo dân Song Ngọc vào ngày 14 Tháng 2 vừa qua là cuộc khiếu kiện lần thứ hai nhưng cũng bị công an quyết liệt ngăn chặn và đàn áp thẳng tay. Chắc chắn đòi hỏi của ngư dân sẽ không dừng lại ở đây một khi quyền lợi thiết thân và sự sinh tồn của con cháu họ còn bị Formosa đe dọa hàng ngày.

Và để khỏa lấp trách nhiệm của trung ương, Ủy ban kiểm tra trung ương đảng vừa mới đưa ra một bản thông báo hôm 22 tháng 2, quy trách nhiệm tập thể một số cán bộ trong Bộ Tài nguyên & Môi trường trong giai đoạn 2008-2016 và Ban cán sự đảng ủy Hà Tĩnh trong hai nhiệm kỳ 2004-2011 và 2011-2016 đã để xảy ra thảm kịch Formosa. Trong những cán bộ bị khiển trách này, ông Võ Kim Cự, nguyên phó Bí thư Hà Tĩnh và ông Hồ Anh Tuấn, nguyên trưởng ban quản lý khu kinh tế Vũng Áng trở thành hai con dê tế thần, sẽ bị thi hành kỹ luật trong thời gian tới.

Tuy nhiên, dù nhà cầm quyền CSVN có kỹ luật hai ông Võ Kim Cự và Hồ Anh Tuấn ở mức cao nhất đi chăng nữa cũng sẽ không làm cho nhân tâm ổn định vì vấn đề ô nhiễm vẫn còn đó chưa được tẩy xóa và nhất là chưa xử tội những cán bộ cao cấp gồm Nguyễn Tấn Dũng và Hoàng Trung Hải đã chính thức ký cho phép Formosa vào đầu tư chứ không phải ông Võ Kim Cự hay một ai khác.

Vì thế, Formosa đang là trái bom nổ chậm; đảng CSVN đang ôm mà không cách nào buông ra được trong thời gian trước mắt.

Phạm Nhật Bình

(CTM)

Tướng Cương: 'Dự án Formosa có gì mà phải bí mật?'


(Baonghean.vn) - Ngày 22/2, Ủy ban Kiểm tra Trung ương ra thông báo một số nội dung kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với các tập thể và cá nhân đã thiếu trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo; buông lỏng quản lý, điều hành; thiếu kiểm tra, giám sát để xảy ra các vi phạm trong thẩm định, phê duyệt, cấp phép và quản lý nhà nước đối với dự án Formosa Hà Tĩnh.
Báo Nghệ An có cuộc trao đổi với PGS, TS, Thiếu tướng Lê Văn Cương - Nguyên Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học Bộ Công an về một số nội dung liên quan vấn đề này.
PGS, TS, Thiếu tướng Lê Văn Cương nói chuyện thời sự tại hội nghị gặp mặt cộng tác viên đặc biệt Báo Nghệ An 2015. Tại đây, ông đã có dự báo về thảm họa dự án Formosa Hà Tĩnh. Ảnh tư liệu.
PGS, TS, Thiếu tướng Lê Văn Cương nói chuyện thời sự tại hội nghị gặp mặt cộng tác viên đặc biệt Báo Nghệ An 2015. Tại đây, ông đã có dự báo một số vấn đề môi trường của dự án Formosa Hà Tĩnh. Ảnh tư liệu.
Pv: Năm 2015, Thiếu tướng đã dự báo Dự án Formosa Hà Tĩnh nếu không cẩn thận sẽ gây thảm họa về môi trường. Tại sao trước khi xảy ra một năm ông đã dự báo được chuyện này?
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Tôi có 2 nguồn tin quan trọng từ năm 2013. Nguồn tin thứ nhất là thông tin về Tập đoàn Formosa, tập đoàn này không chỉ làm về sắt thép, mà làm nhiều việc khác. Nhiều nơi trên thế giới đã từ chối tập đoàn này, trong đó có Mỹ, Campuchia, vì lý do yếu về công nghệ lạc hậu và khả năng xử lý ô nhiễm. Nguồn tin thứ hai là do anh em bạn bè tôi ở Hà Tĩnh và các cơ quan liên quan cung cấp cho tôi. Dự án này công nghệ không hiện đại.
Thiếu tướng Lê Văn Cương trong một lần thực hiện trao đổi về các vấn đề thời sự quốc tế tại Tòa soạn Báo Nghệ An. Ảnh tư liệu.
Thiếu tướng Lê Văn Cương trong một lần thực hiện trao đổi về các vấn đề thời sự quốc tế tại Tòa soạn Báo Nghệ An. Ảnh tư liệu.
Pv: Báo chí và truyền thông đã nói nhiều về nguyên nhân xảy ra Formosa, ông có thể khái quát một cách ngắn gọn?
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Có nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp là do hệ thống xử lí môi trường của tập đoàn Formosa không đáp ứng được, chưa hoàn thiện và gây họa môi trường biển. Chính những người đứng đầu tập đoàn này đã cúi đầu xin lỗi Nhà nước, xin lỗi nhân dân Việt Nam, nhân dân Hà Tĩnh về điều này.
Nguyên nhân gián tiếp nhưng hết sức quan trọng là các khâu quản lý nhà nước của Việt Nam, trước hết là những người lãnh đạo Hà Tĩnh đã thiếu trách nhiệm, không nghiêm túc trong việc thẩm định những dự án lớn. Nếu tỉnh không đủ trình độ thì phải mời các cơ quan trung ương, nếu trong nước không làm được thì mời chuyên gia thế giới. Có thể nói ngay rằng một số lãnh đạo Hà Tĩnh hết sức vô trách nhiệm, điều này không thể trốn trách trách nhiệm được. Tôi không kết luận về đạo đức, nhưng về trách nhiệm thì họ không tròn trách nhiệm của người đảng viên, không tròn trách nhiệm là người lãnh đạo địa phương.
Ở Trung ương, Bộ Tài Nguyên và Môi trường phải chịu trách nhiệm trước Chính phủ nhưng họ đã không làm hết trách nhiệm. Qua vụ này tôi thấy cần soát xét lại quy định hoạt động công vụ của các bộ, ngành, các địa phương. Vì thiếu trách nhiệm mà hậu quả xảy ra rất nghiêm trọng và lâu dài, cái này thì báo chí đã nói nhiều rồi.
Pv: Thiếu tướng có thể cho biết tại sao bây giờ mới có thông báo về kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với các tập thể và cá nhân liên quan thảm họa dự án Formosa Hà Tĩnh?
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Thảm họa dự án Formosa Hà Tĩnh liên quan đến nhiều cán bộ ở trung ương và địa phương, liên quan trực tiếp đến hàng loạt cơ quan. Đây là thảm họa lớn, không thể nôn nóng có thể làm ngay. Vì thế, cách thức vào cuộc kiểm tra xử lý như vậy không phải là chậm. Trung ương Đảng và Bộ Chính trị đã chuẩn bị chu đáo. Tôi nghĩ một vấn đề lớn, đụng đến bộ máy một tỉnh, nhiều bộ ngành trung ương, thì việc làm không hề đơn giản. Tìm ra chứng cứ, kết luận thuyết phục không đơn giản chút nào. Quan trọng là thuyết phục được người dân về cách làm nghiêm túc, chặt chẽ của Đảng và Nhà nước.
Pv: Theo ông cần có mức độ xử lý kỷ luật như thế nào? Ông nghĩ gì về quyết tâm xử lý cán bộ sai phạm, vi phạm của Đảng ta, nhất là trong bối cảnh Đảng ta đang thực hiện Nghị quyết TW4 khóa XII?
Thiếu tướng Lê Văn Cương: Đến nay Ủy ban Kiểm tra Trung ương mới có thông báo bước đầu về những tập thể và cá nhân có trách nhiệm liên quan. Đến nay vẫn chưa có kết luận cuối cùng và đưa ra hình thức, mức độ xử lý. Từ đây còn tiếp tục củng cố hồ sơ chứng cứ. Nếu vi phạm hình sự thì xử lý hình sự, nếu vi phạm hành chính thì xử lý hành chính. Tôi hy vọng rằng Chính phủ, từ kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng, cần phải xử lý nghiêm minh vụ này để củng cố lòng tin của người dân đối với Đảng.
Tôi hoàn toàn tin tưởng Bộ Chính trị, Ban Bí thư sẽ nghiêm túc, kiên quyết chỉ đạo xử lý người vi phạm theo đúng pháp luật và quy định hành chính, không bao giờ bảo vệ kẻ tha hóa để mất niềm tin của nhân dân. Từ trước đến nay Đảng ta bao giờ cũng đứng về phía nhân dân, bảo vệ nhân dân. Và đến nay, tôi hoàn toàn tin tưởng Đảng và Nhà nước sẽ đứng về phía nhân dân. Tôi cho rằng đối với những tập thể và cá nhân ở trung ương và địa phương liên quan cần phải lý nghiêm minh để củng cố niềm tin với Đảng. Cần xem xét và loại bỏ một số tư cách, chức vụ đối với các cá nhân đã thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, trong đó có ông Võ Kim Cự.
'Nếu Đảng bao che cán bộ sai phạm thì Đảng mất lòng tin của nhân dân, vì vậy tôi tin Đảng phải xử lý kiên quyết để dân ta tin Đảng! Không bao giờ Đảng ta bao che những cán bộ phạm pháp. Tôi tin với quyết tâm này vấn nạn tha hóa, quan liêu tham nhũng sẽ bị đẩy lùi.
Việc xử lý tập thể và cá nhân mắc sai phạm trong dự án Formosa Hà Tĩnh là minh chứng cho quyết tâm chính trị cao của Đảng ta, trực tiếp là đồng chí Tổng Bí thư và Bộ Chính trị, điều này củng cố lòng tin của dân với Đảng, tạo niềm tin thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII
Thiếu tướng Lê Văn Cương
Vấn nạn tham nhũng không phải trong một đêm mà xuất hiện. Qua 8 kỳ Đại hội, Đảng ta luôn quan tâm vấn đề chống tham nhũng. Sau Đại hội khoá 12 tôi cảm nhận có một không khí rất đặc biệt, chưa bao giờ quyết tâm chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc phòng chống và đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tha hóa trong cán bộ đảng viên lại quyết liệt như thời gian này. Nghị quyết Trung ương 4 khóa 12 là văn bản có sức thuyết phục cán bộ đảng viên và người dân rất lớn, chỉ ra đầy đủ các biểu hiện của tham nhũng, tha hóa trong Đảng, đưa ra một hệ thống giải pháp hoàn chỉnh, đầy đủ nhất từ trước đến nay. Lần đầu tiên trong lịch sử Đảng ta, đồng chí Tổng Bí thư trực tiếp chỉ đạo nhiều vụ đại án như hiện nay. Riêng vụ xử lý thảm họa dự án Fomosa Hà Tĩnh gây ra cũng có ý kiến trực tiếp của đồng chí Tổng Bí thư. 
Pv: Theo Thiếu tướng, có thể rút ra những bài học gì từ thảm họa dự án Formosa Hà Tĩnh?
Thiếu tướng Lê văn Cương: Thứ nhất, cần rà soát lại toàn bộ văn bản pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Nhiều ý kiến cho rằng luật đấu thầu hiện nay chỉ quan tâm đến giá thành, chưa quan tâm đến chất lượng, công nghệ, nên hàng chục công trình với công nghệ cũ đầu tư vào Việt Nam có nguyên nhân từ hạn chế của Luật Đầu tư và thực hiện Luật Đầu tư. Cần nhớ, bao giờ Trung Quốc cũng bỏ thầu thấp, nhưng lại nâng lên cao hơn. Do đó Quốc hội, Chính phủ phải xem xét lại toàn bộ các văn bản luật về vấn đề này.
Thứ hai, cần tăng cường hệ thống giám sát quyền lực. Dự án Formosa Hà Tĩnh là dự án hàng tỷ đô la, với những sai phạm, vi phạm nghiêm trọng, nhưng từ các tập thể và cá nhân của các bộ, ngành trung ương, của Hà Tĩnh đã “để lọt”, “cho qua” được. Trên hành tinh này, 5.000 năm vừa rồi, nếu quyền lực không được giám sát chặt chẽ thì sẽ tha hóa. Vì vậy, giao quyền lực đến đâu phải kiểm tra đến đó.
Thứ ba, phải minh bạch, phải công khai. Dự án này có gì mà phải bí mật, tại sao không công khai? Phải đưa lên mạng, phải tổ chức nhiều hội thảo. Chúng ta làm không minh bạch, không để nhà khoa học, các chuyên gia trong và ngoài nước, người dân tham gia giám sát. Nếu không công khai thì chỉ mưu lợi cho một số cá nhân.
Thứ tư, Nhà nước, trực tiếp là Chính phủ, phải tạo điều kiện cho hệ thống truyền thông tiếp cận thông tin, cho phản ánh kịp thời những dấu hiệu sai phạm, vi phạm, phát hiện và cảnh báo sai lầm. Phải tạo điều kiện cho báo chí vào cuộc phát hiện sai sót, lên tiếng đúng lúc. Nếu công khai, minh bạch, tạo điều kiện cho báo chí chân chính vào cuộc thì Đảng sẽ mạnh, người dân sẽ tin.
Pv: Trân trọng cảm ơn Thiếu tướng về cuộc phỏng vấn này!
Chí Linh Sơn
(Thực hiện)



Phần 2: Quan hay Dân, ai phải trả giá?

Kết quả hình ảnh cho hoàng trung hải
Bí thư Thành uỷ Hà Nội Hoàng Trung Hải
Trong bài viết trước, tôi đã nói chi tiết về Võ Kim Cự, nguyên trưởng Ban Quản lý các khu kinh tế Hà Tĩnh, từng là phó chủ tịch, bí thư Hà Tĩnh, hiện là chủ tịch Liên minh Hợp tác xã VN, thành viên Uỷ ban Kinh tế Quốc hội và Nguyễn Thái Lai, nguyên thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường.

Câu chuyện Formosa được vẽ ra, chắc chắn không chỉ bởi bàn tay của hai cá nhân ấy. Trong bài viết này, tôi sẽ cung cấp thêm vài dữ liệu cho các anh chị tham khảo để nhìn rõ những ai đã mở toang cửa rước Formosa vào VN, những người đã quản lý "tốt", những người đã nâng cao nhận thức về môi trường của Nhân dân và ý thức hơn về cách để tự bảo vệ sức khỏe cho chính mình…

1. Ai nghèo mà được bình yên?

Sau Võ Kim Cự, khi nói đến Formosa, người tiếp theo tôi nhớ đến là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Hà Nội Hoàng Trung Hải. Ấn tượng nhất của tôi về ông là quan điểm thà nghèo nhưng bình yên. Có lẽ vì tôi chỉ là một thường dân bé mọn, một phụ nữ quanh quẩn góc bếp nên suy nghĩ khác nhiều. Tôi vẫn nghĩ, không một đất nước nào nghèo mà có thể bình yên. Cái nghèo thường luôn đi kèm với sự phụ thuộc, sự đớn hèn. Cái nghèo dẫn đến bất ổn xã hội. Trong suy nghĩ giản đơn của mình, tôi cho rằng một nhà lãnh đạo nhất thiết phải là người có khát khao và hành động để làm cho đất nước trở nên giàu có và bình yên, chứ không an phận chấp nhận cái nghèo.

Trở lại câu chuyện Formosa, tôi được biết vào cuối năm 2007, đầu năm 2008, thời điểm Formosa xin vào Vũng Áng và trong suốt thời gian Formosa xây dựng nhà máy tại Hà Tĩnh, ông Hoàng Trung Hải là Phó thủ tướng Chính phủ, phụ trách nhiều vấn đề nảy sinh ở dự án Fomosa Hà Tĩnh.

Ngày 24-12-2007, phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã có buổi làm việc với Formosa để nghe Tập đoàn này báo cáo về dự án đầu tư khu luyện gang thép 15 triệu tấn/năm và cảng nước sâu Sơn Dương. Sau buổi làm việc, thực hiện ý kiến chỉ đạo của ông Hoàng Trung Hải, Formosa đã xây dựng báo cáo đầu tư về hai dự án trên. Theo đó, thời gian xây dựng lò cao số 1 được rút ngắn từ 48 tháng xuống còn 36 tháng.

Ngày 4-3-2008, ông Hoàng Trung Hải là người ký văn bản chấp thuận chủ trương cho Formosa đầu tư nhà máy thép ở Vũng Áng. Cần rạch ròi rằng, thu hút FDI là cần thiết để phát triển kinh tế. Phát triển ngành thép cũng cần thiết. Nhưng, với lý lịch gây ô nhiễm môi trường của Formosa, lại là một dự án quy mô lớn ở một lĩnh vực có nhiều nguy cơ phá hoại môi sinh, trong khi hoàn toàn không có kinh nghiệm ở lĩnh vực luyện thép, thì rõ ràng chấp thuận cho Formosa vào Hà Tĩnh là một quyết định đầy dũng cảm mang tính đột phá và tiềm ẩn rủi ro cao.

Sau khi được Võ Kim Cự cấp giấy chứng nhận đầu tư, trong quá trình triển khai dự án, Formosa nhận được hàng loạt ưu ái. Trong số đó phải kể đến ưu ái về thuế. Giấy chứng nhận đầu tư ký cho Formosa không có mục nào cho thấy tập đoàn này được miễn thuế tài nguyên và phí môi trường đối với hoạt động khai thác cát san lấp nền. Luật Thuế Tài nguyên cũng không có quy định nào miễn thuế đối với trường hợp như Formosa. Thực tế Formosa có một nhà thầu Bỉ thực hiện hút cát từ biển để lấy cát san lấp nền thực hiện xây dựng khu luyện thép, thay vì phải mua cát.

Ngày 3-7-2014, Thanh tra Chính phủ có văn bản kết luận một số vấn đề liên quan đến quản lý đất đai và xây dựng của Hà Tĩnh, trong đó có nêu rõ Hà Tĩnh chậm thu thuế tài nguyên và thu chưa đủ phí môi trường đối với cát dùng để san lấp nền trong dự án xây dựng nhà máy luyện thép Formosa, chưa thu phí xả thải là không đủ quy định. Đến thời điểm ban hành kết luận, Formosa đã nộp phí tài nguyên.

Trùng hợp là trước đó, ngày 29-6-2014 Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải chỉ đạo Bộ Tài chính tạm ứng 250 tỉ đồng từ ngân sách Trung ương cho Hà Tĩnh để hoàn trả số tiền thuế tài nguyên và phí môi trường đã thu của Formosa.

Trước đó nữa, vào đầu tháng 1-2013, Formosa kiến nghị Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải xem xét nhiều hạng mục dự án cần nhận được sự hỗ trợ. Trong đó có trang 14 của văn bản nói về vấn đề xin cấp giấy phép thi công và giấy phép xây dựng. Văn bản của Formosa viết như sau: Theo đúng quy trình, sau khi toàn bộ các công trình thuộc dự án hoàn thành thiết kế cơ bản, chủ đầu tư phải cung cấp bản vẽ và tư liệu, sau khi được Bộ Công thương phê chuẩn sẽ xin Ban quản lý Khu kinh tế Vũng Áng cấp giấy phép thi công và giấy phép xây dựng. Nhưng vì quy mô dự án lớn, nếu chờ các công trình hoàn thành thiết kế cơ bản, sau đó xin giấy phép thi công thì sẽ kéo dài thời gian xây dựng. Do đó, hình thức xây dựng dự án là tiến hành đồng thời giữa thiết kế và thi công, nhiều hạng mục đã được tiến hành thuận lợi dưới sự giúp đỡ của Chính phủ và Hà Tĩnh.

Formosa cho biết, vào tháng 12-2012, thiết kế cơ sở của dự án đầu tư đã được gửi lên Bộ Công thương. Tập đoàn này kiến nghị Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải cho phép trong thời gian chờ hoàn thành thủ tục thì Formosa vẫn được thi công xây dựng. Sau khi hoàn thành thẩm duyệt hồ sơ sẽ xin giấy phép thi công và giấy phép xây dựng.

Như vậy nghĩa là, Formosa xin cơ chế thi công dự án trước khi thiết kế cơ sở được phê duyệt, xây dựng các công trình trước khi có giấy phép xây dựng. Đến giờ, Formosa có được hưởng cơ chế này hay không, tôi cho rằng những người có trách nhiệm hoàn toàn có thể kiểm tra xem Formosa có giấy phép xây dựng hay chưa, nếu có thì ở thời điểm nào và thực tế họ đã xây dựng các hạng mục công trình từ thời điểm nào?

Việc Formosa có thể tự ý xây dựng nhà máy luyện cốc bằng công nghệ dập cốc ướt thay vì cốc khô như báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt vào tháng 6-2008, cùng với 52 lỗi vi phạm khác, đã là một câu trả lời. Khi trao đổi với tôi, một vị lãnh đạo cấp cục ở Bộ Công thương nói, xây dựng không có giấy phép thì chỉ trời mới biết họ làm cái gì trong khu đất ấy.

2. Ngồi xổm trên luật.

Nguyên thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Nguyễn Thái Lai đã bị kết luận có sai phạm nghiêm trọng khi cấp giấy phép xả thải cho Formosa ra biển. Đường ống xả thải của Formosa được đặt ngầm ở độ sâu 17m, nằm ngoài khơi Vịnh Sơn Dương. Vị trí đặt ống xả thải này là trái luật bởi theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường, đường ống xả thải phải đặt ở vị trí sẽ quan sát, thuận tiện cho kiểm tra giám sát. Quá trình cấp phép, Bộ Tài nguyên và Môi trường chưa tham vấn người dân theo đúng quy định.

Như vậy, đường ống xả thải ra biển của Formosa là một di sản trái luật. Chính ông Trần Hồng Hà, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường đã nói vào ngày 29-4-2016 rằng, luật quy định đường ống phải đảm bảo thật sự thuận lợi cho các cơ quan kiểm tra, như vậy không thể để ngầm được. Tới đây, Formosa phải đưa đường ống ngầm này lên để thuận tiện cho việc theo dõi, giám sát.

Tuy nhiên, đến ngày 4-7-2016, cũng vẫn là Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhưng ông Trần Hồng Hà lại nói, vấn đề không phải là đường ống ngầm mà là nước thải trước khi thải ra môi trường trong ống ngầm này đã được xử lý đạt tiêu chuẩn hay chưa, việc kiểm soát để đảm bảo chắc chắn nước thải đảm bảo an toàn có minh bạch không, khi có sự cố thì phương án dự phòng là gì? Nếu nước thải đã được xử lý đạt tiêu chuẩn, thì vẫn có thể thải qua các ống ngầm đã xây dựng.

Tôi đồng ý với quan điểm vấn đề nằm ở nước thải đã được xử lý hay chưa. Nhưng năng lực kiểm tra giám sát của các cơ quan chức năng tồi tệ ra sao đã được Nhân dân cả đất nước này thấy rõ qua vụ việc cá chết ở miền Trung. Hơn nữa, một nhà đầu tư có thâm niên phá hoại môi trường như Formosa thì thật khó để tin tưởng. Chừng nào còn tồn tại một cái cống ngầm thì chừng đó chẳng ai biết họ sẽ tống thứ gì ra biển miền Trung. Hơn nữa, cần lưu ý là đường ống ấy đặt ngầm là trái quy định của Luật Bảo vệ môi trường. Thế nên, ông Trần Hồng Hà không thể dùng quyền lực Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và môi trường của mình để thừa nhận một thứ trái luật. Cho một thứ mà chính mình đã khẳng định là trái luật được tồn tại, liệu đó có thể coi là hành vi ngồi trên luật?

Thử hỏi, còn ai tin tưởng một người như thế đứng đầu ngành tài nguyên và môi trường?

3. Dối trời lừa dân.

Trong câu chuyện về Formosa, tôi tuyệt đối không thể nào quên hình ảnh các quan chức ăn hải sản để an lòng dân ở Hà Tĩnh, Quảng Bình. Trong đó, cần đặc biệt lưu ý bà Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến. Thân là người đứng đầu ngành y tế, gác cửa ở lĩnh vực an toàn thực phẩm, chăm lo sức khoẻ cho 92 triệu dân, nhưng Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến lại có những hành động không thể nào chấp nhận được.

Cụ thể, khi sự việc cá chết còn đang gây hoang mang dư luận và chưa biết nguyên nhân từ đâu, vào ngày 1-5-2016, bà Nguyễn Thị Kim Tiến khẳng định chắc như đinh đóng cột rằng: Bộ Y tế đã lấy mẫu nhiều loại hải sản tươi sống do ngư dân đánh bắt về như tôm, cá, ốc, sò, mực, một số loại rau để phân tích.

Kết quả đo được thì các chỉ số đều an toàn đối với sức khỏe con người. “Thông tin rất quan trọng là hải sản tươi sống đều an toàn. Riêng các mẫu hải sản ở Quảng Trị và Thừa Thiên-Huế ngày 2/5 sẽ có kết quả”.

Ngày 3-5, bà Tiến khoe trên facebook một tấm hình đang cùng thuộc cấp của mình ăn tiệc hải sản ở Hà Tĩnh để truyền đi thông điệp hải sản an toàn.

Thực tế thì sao, hải sản chết do nhiễm chất độc phenol, cyanua từ trong chất thải độc hại mà Formosa xả ra biển miền Trung. Đến tháng 8-2016, chính ngành y tế kiểm nghiệm vẫn phát hiện tại Hà Tĩnh có mẫu cá trạng buồn nhiễm cadimi vượt ngưỡn giới hạn tối đa, cá mỏ neo, cá đuối, ghẹ ba mắt, cá nhồng… nhiễm cyanua và mẫu cá đuối, ghẹ ba mắt, cá man nhiễm phenol. Tại Quảng Bình, thời điểm này vẫn phát hiện mẫu ghẹ nhiễm phenol.

Đó là chưa kể, trong tháng 7-2016, ngành y tế lấy mẫu xét nghiệm phát hiện tới 25,9% mẫu hải sản nhiễm kim loại nặng. Thêm nữa, tại thời điểm xảy ra cá chết, các nhà khoa học lấy mẫu phân tích cũng đã phát hiện các mẫu hải sản bị nhiễm phenol và cyanua.

Lương tâm một con người không cho phép nói rằng hải sản an toàn để người dân tiếp tục ăn hải sản đang chứa những chất cực độc. Đó là hành động dối trên lừa dưới, dối trời lừa dân, coi thường sức khoẻ của nhân dân, đầu độc dân. Vậy Bà Tiến tiếp tục ngồi ghế Bộ trưởng y tế để làm gì?

Một cá nhân khác tôi cho rằng trí tuệ thấp, nhân cách kém, cần phải bị xem xét xử lý kỷ luật, đó chính là Phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh Đặng Ngọc Sơn. Khi miền Trung xảy ra thảm hoạ cá chết, người dân Hà Tĩnh lo lắng, nhân dân cả nước hoang mang, ông Đặng Ngọc Sơn nói rằng người dân cứ yên tâm ăn cá, cứ yên tâm tắm biển. Đây là một lời nói trấn an dư luận không dựa trên bất cứ cơ sở khoa học nào. Điều này có thể để lại hậu hoạ khôn lường. Xét cả tâm và tầm, ông Sơn không đủ để ngồi ghế Phó thường dân chứ đừng nói Quan Phụ mẫu của 1 Tỉnh.

Còn những cái tên khác cũng xuống tắm biển, ăn cá để trấn an dư luận, mọi người có thể giúp tôi liệt kê bằng các comment phía dưới bài viết này. Nếu tôi liệt kê ra hết thì tẩu hoả nhập ma mất.

4. Ai cầm đèn chạy trước ô tô?

Trong phần một “Lạc nước hai xe đành bỏ phí...” của chủ đề “Formosa – Cái giá phải trả”, tôi đã viết khá chi tiết về những sai phạm của Nguyễn Thái Lai và Võ Kim Cự. Các anh chị có thể đọc theo mạch bằng cách vào link này:  https://www.facebook.com/bachhoanvtv24/posts/1881213928792520

Về một số ý kiến cho rằng, Võ Kim Cự không thể tự cho phép Formosa được đầu tư 70 năm, tôi sẽ thông tin thêm vài dòng. Thực tế ông Cự đã tự ý cam kết với Formosa trước khi cấp phép.

Về chủ trương đầu tư, Chính phủ chỉ chấp thuận cho Formosa đầu tư nhà máy thép, chứ không phải chấp thuận cho đầu tư 70 năm. Muốn được đầu tư 70 năm, Hà Tĩnh cần có văn bản xin ý kiến và Chính phủ phải chấp thuận bằng văn bản giấy trắng mực đen.

Giấy trắng mực đen cho thấy, ngày 3-7-2014, Thanh tra Chính phủ kết luận Hà Tĩnh cấp phép cho Formosa thời hạn 70 năm khi chưa được Chính phủ đồng ý là trái quy định tại Điều 52 Luật Đầu tư 2005. Thanh tra Chính phủ kiến nghị giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xem xét xử lý.

Ngày 1-8-2014, Bộ Kế hoạch và Đầu tư kiến nghị tiếp tục giữa thời hạn 70 năm cho Formosa. Sau đó, Chính phủ chấp thuận kiến nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Như vậy, ông Cự không cầm đèn chạy trước ô tô thì ai vào đây?

Phần 2 của chủ đề “Formosa – Cái giá phải trả”, tôi chỉ mong mọi người có thêm dữ liệu, chứ không có niềm tin và kỳ vọng gì nhiều. Bằng chứng là sau những hành động ở vụ cá chết vào tháng 5-2016, đến tháng 7-2016, bà Nguyễn Thị Kim Tiến tiếp tục được phê chuẩn là Bộ trưởng Bộ Y tế.

Tuy nhiên, như tôi vẫn nói, vụ Formosa sẽ đi vào lịch sử không chỉ là câu chuyện vi phạm của một nhà đầu tư, không phải chỉ là một sự cố môi trường như cách người ta gọi tên hiện này. Câu chuyện về Formosa sẽ đi vào lịch sử về sự lựa chọn, về ứng xử của giới chức với người dân. Lịch sử thì luôn công bằng, nhân dân luôn nhắc nhớ.

Bạch Hoàn



(FB Bạch Hoàn)

Tù binh VN tại Trung Quốc 1979-1989 bị lính Trung Cộng hiếp dâm nhiều lần, khi mang thai bị giết rất dã man

Đầy đủ tài liệu để đọc về sự dã man mọi rợ của Tàu Khựa đối với kẻ thù của chúng đặc biệt tội ác quá kinh tởm và hãi hùng với nữ tù binh Việt Nam 
Đọc để rõ tương lai khủng khiếp một khi đất nước nằm trong tay bọn ác quỷ này ,số phận người dân Việt không hơn số phân con vật-con heo hay con trâu

Tù binh chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc 1979-1989 – Kỳ 1 (Huỳnh Tâm)

 
Chiến tranh biên giới VN-TQ, ngày 17/2/1979-1989. Trên 421 nữ tù binh Việt Nam tại trại Lâm Sơn (林山), Bác Lý Hà (八里河), và Đông Sơn (东山) tỉnh Vân Nam, Trung Cộng. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm. [1]
 
LTG. Năm 1986, chúng tôi có dịp đi những chuyến thực tế tại biên giới Việt Nam-Trung Quốc, được biết một phần về trại tù binh Lâm Sơn (林山), Bác Lý Hà (八里河), và Đông Sơn (东山), ngày nay những địa danh này thuộc về lãnh thổ Vân Nam, Trung Quốc. Trên đường đi gặp những nữ tù binh Việt Nam, họ rơi vào tình cảnh chiến tranh quá khủng khiếp, thân phận trôi nổi, bị hảm hiếp, phanh thây, xác vùi dập đó đây khắp nẻo rừng sâu nước độc.
 

Từ đó đến nay chúng tôi tưởng chừng quá khứ đã quên đi ký ức của mình. Nay có dịp tiết lộ về thân phận của nữ chiến binh đã bị nhà nước lãng quên sau chiến tranh. Trong khi ấy đảng Cộng sản hưởng thụ trên xương máu của nữ chiến binh, bỏ lại sau lưng những linh hồn phụ nữ Việt Nam cao quý.
 
Viết về những sự kiện mắt thấy tai nghe với những tham khảo hồ sơ lưu tại Ban tuyên giáo của Quân ủy Trung ương Trung Cộng, cùng những lời chứng nhân tường thuật từ cõi tù binh vọng về. Rất tiết thương cho họ đã sống không ra kíp người và chưa bao giờ tiếp nhận được một đoái hoài của nhà nước Cộng sản Việt Nam, sau khi kết thúc chiến tranh tại biên giới Việt Nam-Trung Quốc vào thập niên (1979-1989).
Đến hôm nay những mãnh đời tù binh sẽ xuất hiện để người đời nhớ mãi không quên chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc.
 
Dấu ấn tù binh chiến tranh 1979-1989.
Chiến tranh biên giới Việt Nam-Trung Quốc, hơn mười năm (1979-1989), đã từng xuất hiện nhiều trại nữ tù binh Việt Nam tại Vân Nam. Nơi tăm tối nhất đe dọa đời sống, họ phải chịu đọa đày vô cùng tàn nhẫn, cắt đứt đường liên lạc với thế giới bên ngoài, những tin tức về họ hầu như biến mất trên cõi đời này cho đến ngày nay!
 
Ba mươi sáu năm trước (1979-2015), cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung vẫn còn mãi dư âm một thời đẫm máu nhất thế kỷ, thế nhưng ít ai biết. Trong chiến tranh, cả hai bên binh sĩ đã bị bắt. Tù binh Việt Nam không được hưởng ưu đãi quy ước chiến tranh. Trung Quốc đã vi phạm những tội ác ghê tởm trong cuộc chiến tranh biên giới.
 
Nữ tù binh Việt Nam bị lính Trung Quốc lạm dụng vô cùng tàn nhẫn.
Một khi nữ tù binh Việt Nam rơi vào phía Trung Cộng, sợ nhất những con người trần trụi bám vào thân nữ tù, người lính Trung Cộng lập tức hiếp dâm, đôi lúc lặp đi lặp lại nhiều lần, vì vậy có một số nữ tù binh mang thai, sau đó bị xẻ tay chân lìa thân thể! Một số tù nhân nữ chết, chôn vùi, lấp vội.
 
Đôi khi, chúng tôi gặp những thi thể trên bãi cỏ dưới triền núi, đôi mắt loay hoay nhìn kỹ không khác một con hải cẩu nằm bãi biển, thực ra những người nữ chiến binh đã chết bằng hình thức nào chỉ thấy trơ trụi không có chân tay, thi thể quá kinh hãi, đó là người nữ chiến binh Việt Nam bị quân đội Trung Cộng hảm hiếp sau đó cắt đứt tay chân!
 
Ấn phẩm truyện tranh của Họa sĩ Thiết Huyết (铁血); Cho thấy cảnh tù binh bị lính Trung Cộng hảm hiếp tập thể, đã phản ánh chiến tranh biên giới VN-TQ. Điển hình những nữ tù binh Việt Nam, đang bị an ninh quân đội Trung Quốc tra tấn. Họ phải chịu đựng mọi thử thách qua nhiều năm trong chiến tranh. Cán bộ quản chế nhà tù tàn bạo đối với những nữ tù binh, cuộc đời và cái chết trên chiến trường quá bi thảm, Trung Quốc đối sử độc ác, không còn tính nhân đạo, ngoài ra còn có nhiều nữ tù binh chết sau khi cưỡng hiếp tập thể. Nguồn: Lịch sử diễn đàn Trung Quốc loan tải. [2]
 
Việt Cộng-Trung Cộng trao đổi tù binh chiến tranh, nữ tù binh xuất hiện chân dung chờn vờn như một bóng ma, mất hết sắc diện người phụ nữ Việt Nam, trong trận chiến lính Trung Quốc bắt được một nữ tù binh gọi là “con dấu”, được xem như độc quyền chiến lợi phẩm, nữ tù binh chỉ còn đôi hàm răng cắn chặt vào nhau, sang bên kia thế giới không thể chấp nhận con ác quỉ dục tính Trung Cộng!
 
Nữ tù binh Việt Nam bị hảm hiếp, sau đó đốt cháy thủ tiêu. Cảnh này chúng tôi đã nhìn thấy trên chiến trường, và những chứng nhân tường thuật lại trong cuộc chiến tranh biên giới VN-TQ. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
 
Ngoài ra, chúng tôi còn chứng kiến một bệnh viện dã chiến của Việt Nam bị Trung Cộng tấn công, hàng trăm người bị thương, lính Trung Cộng bắt sống nữ y tá làm phương tiện sinh lý, cực kỳ tàn nhẫn. Vào lúc này những người lính Trung Quốc sai khiến nữ tù binh làm gái giải sầu, bằng cách đe dọa thủ tiêu hay cho tàn phế.
Một người nông dân Nùng nói với chúng tôi. “Tất cả các con chim sẻ đều sợ hãi khi nghe tiếng súng nổ”, như nữ tù binh rơi vào cảnh quá thương tâm. Điều này cho thấy tù binh có hai lần bại trận, dù trước đó họ ý thức chính trị, và người thanh niên cất cao tư tưởng chiến đấu vì đảng nhưng hôm nay họ là bao thịt không giá trị đối với đảng “Bác”.
 
Nông dân Nùng cho biết. Trước năm 1977 đã có nhiều binh sĩ Trung Quốc tiến vào biên giới Việt Nam. Thanh niên trong làng tham gia vào lực lượng dân quân, thường xuyên tổ chức đánh đuổi chúng, đôi khi có những nữ dân quân xa vào phục kích Trung Quốc từ đó họ mất tích. Dân làng cảnh giới trước đã nói rằng Trung Quốc sẽ khởi động một cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, do đó trên núi đã lập những đường mòn nhỏ, bố trí nhiều trạm kiểm soát của dân phòng. 
Chúng tôi hỏi về quan điểm của người Trung Quốc,
Ông lặp đi lặp lại, Trung Cộng tuyên truyền vô lý, Việt Nam sẽ có âm mưu xâm chiếm biên giới Trung Quốc, cho nên dân quân cố gắng kiểm soát biên giới, chiến tranh bùng nổ, dân làng mang thức ăn chia xẽ cho dân quân để đề phòng địch và gìn giữ đồng ngô, khoai. Vào tháng 2 năm 1979, dân quân chiến đấu không may đã tử thương 71 thường dân, 153 thương nhẹ, 27 nữ, và 56 nam thanh niên làm tù binh, cán bộ cấp xã mất tích 5 người. [3]
 
Năm 1989, được biết Quân đội nhân dân Việt Nam có đến 10% nữ làm tù binh, chính quyền Việt Cộng dối trá chưa bao giờ tuyên bố con số tù binh nằm trong tay Trung Cộng, Cộng sản thống trị đất nước nhưng hẹp hòi tính dân tộc, đứng trước Trung Quốc đem lòng sợ hãi.
 
Nữ tù binh có bốn đặc điểm.
– Tình cảm, gia đình coi trọng nặng hiếu, hầu hết các tù nhân nữ không có ý định đào thoát trại giam, ở tù một vài ngày đã nhớ đơn vị, nỗi nhớ nhà cũng không kém, đôi khi khóc về thân phận. Thường thích trao đổi với nam tù binh, có nhiều người mở cửa cho nam tù binh tán tỉnh.
– Nữ tù binh bắt đầu nhút nhát, thích nói dối, họ chú ý học tập chính sách khoan hồng. Khi cán bộ quản chế giáo huấn cũng nói dối để che đậy những ý tưởng riêng của họ, một số gián tiếp trốn tránh câu hỏi về đảng CSVN, nữ tù binh có nhiều lo âu, nếu gặp phải hiểu lầm tình báo của địch hay nội gián sẽ có hậu quả khôn lường.
– Họ thường bận tâm cho những nam tù binh, thậm chí họ không quan tâm bản thân.
– Tuy ở tù vẫn tìm hiểu thân thế nam tù binh không nghi ngờ đối tượng, hy vọng ngày về hứa hẹn hạnh phúc.
Tuy nhiên, những nữ tù binh này không được về lại quê hương, sau khi trao trả tù binh, Việt Cộng lập tứ phi tang họ trong rừng sâu. Cho đến ngày nay nhân dân Việt Nam không hề biết thân phận của tù binh chiến tranh sống chết thế nào! Việt Công không công bố vì bí mật quốc phòng.
 
Theo đặc điểm sinh lý của nữ tù binh trong cuộc sống tù binh, sau khi nhập trại giam họ sống rất là đặc biệt do thiếu chăm sóc vệ sinh, Trung Cộng không cung cấp điều này, họ phải xé áo quần làm băng vệ sinh, tù binh không hưởng quy định quần áo cần thiết, cũng không có phương tiện trang điểm như bàn chải, gương, kẹp tóc, giấy vệ sinh, đồ lót phụ nữ, khó khăn hơn họ không có ít được tắm rửa, giặt giũ quần áo. Nếu có quan khách đến thăm, cai nhà tù tổ chức các hoạt động giải trí nhưng do nữ tù binh thực hiện theo trò vui dân gian bình thường.
 
Trung Cộng thực hiện mục tiêu quản lý khắt khe đối với nữ tù binh quân sự, giáo huấn theo quan điểm Mao. Đặc điểm Trung Cộng tuyên truyền chính sách chiến tranh “Tự vệ”. Cố gắng loại bỏ quan điểm thù địch. Thậm chí có nữ tù binh ham sống sợ chết nói: “Nếu ai đó hỏi tôi những gì Trung Cộng tốt nhất, tôi sẽ trả lời Trung Cộng chiếm được Việt Nam là tốt nhất”. bởi họ đã bị lột võ biến chất trở thành tình báo trong trại tù. Có một số nữ tù binh không hài lòng cách phát biểu trên.
 
Những nữ tù binh Việt Nam bị Trung Cộng trói thắt gút tay chân, cho dễ tra tấn và di chuyển không sợ tẩu thoát. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
 
Tù binh nam và nữ quản lý riêng biệt, không được thường xuyên liên lạc và trao đổi chỉ hiểu nhau bằng tác động. Một số tù binh nam yêu cầu chung sống và khuyến khích nữ tù binh tuyệt thực, nhà tù mạnh tay kiểm tra hành vi bạo động, sử dụng các nữ tù binh lớn tuổi quản lý tình cảm trong các buổi giáo huấn, sau khi nhà tù quản lý chặt chẽ, kết quả chấm dứt một phần bạo hành tình dục giữa nam và nữ tù binh.
 
Nhà tù tích cực quan tâm, quản chế hành động của nữ tù binh vì dễ quản chế hơn nam tù binh. Họ chú ý quản chế những tù binh tâm thần, bởi họ thường hô to “chúng tôi ủng hộ Việt Nam” và cũng đôi khi “ủng hộ Trung Quốc”. Có vài vụ nữ tù binh sau khi sẩy thai, cán bộ kịp thời quản lý, nuôi-nhốt chung với tù binh bị bệnh nhưng không cho bác sĩ chăm sóc.
 
Trong cuộc chiến tranh biên giới, có những nữ tù nhân tay chân co rút, người trần trụi, bởi nhiều vết thương lâu ngày lở loái, cũng có những hình ảnh phụ nữ bị cháy đen vì boom đạn và bị lính Trung Cộng thủ tiêu bằng cách đốt cháy. Phóng viên Trương Tiệp Lực tiếp cận cô Triệu Mai tặng một bánh thực phẩm khô, cùng với một bi-đông nước. Lúc đầu sợ hãi, sau đó chúng tôi thấy Trương Tiệp Lực chân thành, khuyến kích cô uống gần hết bi đông nước, sau đó mới lấy lại được hơi thở.
 
Cán bộ quản chế nhà tù sử dụng nhiều hành động bất nhã đối với nữ tù binh chiến tranh. Họ không thể tránh những nông nỗi sợ hãi, đôi mắt nhìn lên bầu trời xanh, tay chân run rẩy từng hồi và khóc, khóc mãi!

Tù binh chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc 1979-1989 Kỳ 2 (Huỳnh Tâm)

Trại tù Bác Lý Hà (八里河) tăng cường đội ngũ cai tù, đẩy mạnh quan điểm chiến tranh “tự vệ”, chủ yếu giáo huấn nữ tù binh Việt Nam thấm nhuần tư tưởng thân Mao. Quản lý tù binh sống trong giam cầm chặt chẽ, về cơ bản cải tạo tù binh có mối quan hệ tốt với nhà tù, dần dần sâu đậm đem lòng cảm kích Trung Cộng.
 
Xe bọc thép Trung Cộng thuộc Trung đoàn 55, đang làm nhiệm vụ thảm sát trại nữ tù binh Việt Cộng. Những tù binh còn sống họ khai thác tình dục, đối sử bất lương, mỗi khi có bệnh nhân, bác sĩ không quan tâm, cai tù lạnh nhạt. Họa sĩ Thiết Huyết, loan tải trên Lịch sử diễn đàn Trung Quốc.
 
 
Đặc biệt nữ tù binh có một số làm rối loạn trật tự, mục đích tập trung vào mối liên hệ nam nữ, một số ít nữ tù binh công khai quan điểm chiến tranh biên giới của Trung Cộng. Nhà tù tăng cường quy định giáo dục và phê bình chiến tranh, nhưng không làm tổn thương lòng tự trọng của họ. Từ khi có các biện pháp quản lý chặt chẽ được hiệu quả, không còn hiện tượng ăn mòn tâm trí của nữ tù binh. Có một số tù binh cẩn thận phát biểu về sự tra tấn của ban quản chế trại tù, do đó, các nữ tù binh Việt Nam đã trải qua những thay đổi quan điểm lên án Việt Cộng thân Trung Cộng, lúc này trong lòng họ xuất hiện nhiều câu chuyện lẫn lộng dối trá trong chiến tranh.
 
 
Cai tù Danh Khiếu Đinh, và Vương Việt Quân cho biết những nữ tù binh nhập trại càng ngày càng đông, họ là lính của Quân đội Nhân dân Việt Nam, nay họ được giáo huấn tư tưởng Mao Chủ tịch, cho thấy những nhà lãnh đạo thối nát hiện trên khuôn mặt chế độ chủ nghĩa bá quyền Việt Nam. Ông thẳng thừng phát biểu: “Chúng tôi, và người dân Việt cũng đều muốn sống trong hòa bình, xây dựng tư hữu quốc gia, nhưng các nhà lãnh đạo Việt Nam đi với Liên Xô, việc thực hiện chính sách mở rộng, tham gia chủ nghĩa bá quyền bất kể cuộc sống và cái chết của con người, sở dĩ Trung Cộng mở cuộc chiến tranh “tự vệ”, cơ bản cho Việt Cộng một bài học”.
 
Trên chiến trường biên giới Việt Nam-Trung Quốc 1979-1989. Nữ tù binh Việt Cộng bị đánh đập, tra khảo, lấy khẩu cung và làm mồi tình dục cho lính Trung Cộng. Họa sĩ Thiết Huyết, loan tải trên Lịch sử diễn đàn Trung Quốc.
 
Chiến binh Nguyễn Thị Liễu, phục vụ trong Quân đội Việt Cộng sau khi bị thương và làm tù binh, cô thất vọng ngày đêm phá vỡ nước mắt, cô phải vật lộn để ngồi dậy từ trên đôi cáng, đưa cô vào trạm xá dã chiến nghỉ qua đêm, cô vội vàng trốn nhưng không thoát khỏi bàn tay hảm hiếp, tràng trề nước mắt, đầu hàng: “Việt Nam sẵn sàng tuyên bố bất khả chiến bại. Việt-Hoa mãi mãi tình bạn!” Cho thấy chỉ có tinh thần chiếu đấu của người Cộng sản sợ kẻ thù muôn kíp, còn cảm ơn các lực lượng vũ trang và chính phủ Trung Cộng!
 
Những tình báo Trung Cộng so sánh, nếu đem trại tù binh chiến tranh của Trung Quốc có thể tương đương với Đức Quốc Xã. Việt Cộng-Trung Cộng không đề cặp đến vì nó là tội ác chiến tranh, đáng trách Việt Cộng không lên tiếng tố cáo Trung Cộng có phải vì lý do khiếp nhược.
 
Xe bọc thép Trung Cộng T-62 cỡ nòng trơn 115-mm, tầm hoạt động trên địa hình xấu là 320 km, trên đường bằng phẳng 450km, trước khi viên đạn ra khỏi nòng, những nữ tù binh Việt Nam treo lên đại pháo sẽ nhận được độ nóng và độ giật, rồi chết, đây là một lối tử hình tù binh trong chiến tranh Việt Cộng-Trung Cộng 1979-1989. Họa sĩ Thiết Huyết, loan tải trên Lịch sử diễn đàn Trung Quốc. [2]
 
Năm 1970, Cán binh Việt Cộng Phùng Bảo Hiến đã từng bị VNCH bắt làm tù binh, không may, nay làm tù binh lần thứ hai dưới tay người anh em Trung Cộng, ông nói: “Tôi đã bị VNCH bắt làm tù binh, nhốt tại trại Phú Quốc, một đảo chuyên về ngư nghiệp của những người giàu có, các doanh trại được bao phủ bằng tấm lưới sắt, thông qua các hàng lang trại, mọi người ngủ rộng rãi, ăn uống thừa thải, ngủ trên tấm phản xi măng có chiếu, màn chống muỗi, một năm nhận được ba bộ quần áo, cấp giày, dép, phương tiện vệ sinh rất tốt. Cổ phần mỗi ngày, ăn sáng, trưa và chiều có rau, cá, thịt, trứng, nước mắm, đường và sữa.
Còn cho thân nhân gửi tiền mua thuốc lá, bánh kẹo v.v…không bị đánh đập, cho nghe đọc báo đài, tự do tập thể dục và chơi thể thao, tổ chức văn nghệ, đờn ca lúc nào cũng thuận tiện, tự do tín ngưỡng có nhà nguyện, chùa và thánh thất rất chu đáo. Trừ phi tù binh vi phạm kỹ luật trại, nếu nhẹ ngủ một đêm trong căn phòng tối, hoặc không cho ăn rau, trốn trại tù binh phải chịu phạt ngồi trên dây thép gai một buổi.
 
Trước khi tôi bị bắt, trái tim rất sợ hãi, nhưng bây giờ chúng tôi sống quá tốt, cảm thấy nhẹ nhõm. Chính sách VNCH đối xử nhân đạo với tù binh, tôi ngưỡng mộ điều này, chỉ có chính phủ VNCH xử lý rất ưu đãi duy nhất trên thế giới về tù binh chiến tranh. Có vào nhà tù mới biết đâu là chân lý, tôi xin chân thành cảm ơn VNCH!”
 
Trong khi ấy chúng tôi ở tù tại trại Đông Sơn (东山) tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, sống và học tập theo Mao, thiếu thốn tối thiểu nhu cầu thiết yếu hằng ngày, chịu đựng tra tấn “7 không”. Không khiếu nại, nguyền rủa, nói chuyện, ăn mặt, phát biểu, phương tiện sinh hoạt tập thể, liên lạc trong ngoài trại. Và “5 học tập” theo quy định của nhà tù: Học tập theo gương Mao Chủ tịch, chiến tranh “tự vệ”, ăn năng hối cải, tù binh gương mẫu, chấp hành quy định nhà tù. Người bị tù như chúng tôi đã hết không còn hy vọng để sống.
 
Nữ tù binh trên đường chuyển trại. Họa sĩ Thiết Huyết, loan tải trên Lịch sử diễn đàn Trung Quốc.
 
Những tù binh sau khi giáo huấn, phát biểu theo cảm hóa:
Dương Đức Bình cựu chiến binh Việt Minh hoạt động quân báo, trong thời chiến tranh chống Quốc Dân Đảng đã có mười lần đến Trung Quốc tiếp nhận nguồn cung cấp chiến tranh cho Việt Nam và giao thông vận tải nói: “Trong chiến tranh đời tôi quá trớ trêu đã từng làm tù binh của Trung Cộng, từ đó hóa thân sâu sắc và nhận rõ đâu là giáo dục của nhà tù chiến tranh”.
 
Ô, Mai Liêu một tù nhân chiến tranh cho biết: “Tôi là một chứng nhân của Trung Cộng chân thành truy tố chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc. Họ tuyên truyền dối trá và bóp méo sự thật tù binh trong chiến tranh 1979-1989, đôi khi vu khống sai thực tế”. “Họ rêu rao tối ngày về tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước và những nỗ lực để khôi phục lại các nhân chứng, nhưng không bao giờ thực hiện bất kỳ điều nào”. “Sau khi học tập vì sợ hãi người tù phát biếu như một, tất cả mọi thứ nghe một chiều. “Trung Cộng giáo dục những thế hệ tương lai trân trọng tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước và phục hồi tình hữu nghị Việt Nam và Trung Quốc đã một lần chiến tranh tự vệ”.
 
Tù binh Nguyễn Đinh Chí cho biết: “Trong những năm qua, Trung Cộng viện trợ cho Việt Cộng vô điều kiện, cho dù đó là vũ khí đạn dược, hoặc gạo, vải, thậm chí cả giày và vớ, bàn chải đánh răng và những vật dụng cần thiết hằng ngày, cuộc xung đột vũ trang tại biện giới vào những năm 1979-1989, các nhà chức trách Việt Cộng-Trung Cộng đã biết trước”.
 
Cai tù Ngô Hiểu Khoa (Wu Division) cho biết: “Tôi là người Việt Nam, lớn lên ăn cơm của Trung Cộng, bây giờ mặc đồng phục viện trợ Trung Cộng, cao hơn tôi phải sử dụng vũ khí Trung Cộng để chống lại nhân dân Việt Nam, mà tôi đã tham gia chiến tranh xung đột biên giới 1989, hồi tâm tôi là người bất lương, sau khi hoàn tất nhiệm vụ cai tù giết lại người Việt”.
ÿ  Huỳnh Tâm

Tù binh chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc 1979-1989 – Kỳ 3 (Huỳnh Tâm)

 

Ngày 06 tháng 3 năm 1979, quân đội Trung Cộng chia làm hai hướng di chuyển sâu vào khu vực biên giới đã chiếm của Việt Nam, súng pháo không giật nòng trơn cỡ B-10 82mm, súng máy hạng nặng quét sạch dân quân trên dọc đường rút quân về bên khi biên giới, sau khi tiêu diệt các ổ dân quân, tìm thấy bên đường có sáu đường dây điện thoại, nhận ra có ba hang động gần đó. Kiểm tra toàn bộ khu vực thấy nhân dân bị thảm sát, mùi thuốc súng còn bốc khói khét lèn lẹt, chỉ còn lại một phụ nữ Việt cao tuổi, nằm xỏa tóc ngất liệm.

Theo phân tích chiến sự, tại khu vực có một số dân quân du kích còn ẩn náp trong một hang núi phía đông bắc Thạch Sơn, có hai bóng đen cảnh giới vừa nhanh chóng trốn vào hang động, lính TC đã nhiều lần yêu cầu đầu hàng nhưng không thấy trả lời, phải chờ một số lựu đạn bộc phá, giật sập cửa động, dùng lựu đạn cay, khí độc, chất hóa học thả xuống các lỗ thông hơi… giết chết và bắt sống hàng trăm người dân, có hai nữ dân quân đầu hàng, lính TC khai thác nữ tù binh, cho biết, người dân địa phương ẩn náu trong hang động Thạch Sơn đã bị TC thảm sát tập thể đã chết nhiều ngày qua. [1]
 
Lệnh chiến tranh biên giới Việt Nam-Trung Quốc của Đặng Tiểu Bình, gọi là chiến tranh “Tự vệ”. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
 
Đoàn binh TC tiến vào Thạch Sơn, đầu tiên xác định kiểm soát địa hình gần đó, lính trinh sát tiến vào vị trí, xác nhận đối phương (VC) đang tổ chức đội hình có khả năng tấn công tiêu diệt kẻ thù (TC). Tình thế đổi thay chiến thuật, Trung Cộng triển khai sáu lớp tiến quân, dẫn đầu bởi phó chỉ huy, theo đường lối phía đông bắc Thạch Sơn, nhóm trinh sát báo cáo có 4 Trung đoàn của kẻ thù đang phòng thủ, kiểm soát phía tây của hang động, tựa lưng vào núi cao làm bình phong kiên cố để phòng thủ, khi chiến đấu bao quanh 2 hướng phía tây-nam chân núi.
Quân TC tái kiểm soát phía tây-bắc mở đường tiến vào làng Thạnh Sơn, tiếp theo quân TC kiểm soát phía đông và phía nam; nơi đây có 1 hàng rào quân dự trữ; 82 súng không giựt, trấn thủ hai lối, ba khẩu súng máy hạng nặng, chiếm đóng phía nam sườn đồi có địa hình khá thuận lợi, sẵn sàng để ngăn chặn lửa pháo, và tăng cường 6 Trung đoàn sung kích.
 
Phụ nữ, trẻ em và dân quân Việt Nam bị Trung Cộng thảm sát trong ngoài động Thạnh Sơn. Nguồn: Lịch sử diễn đàn Trung Quốc. [2]
 
14:00, quân binh TC cần nước uống, phó chỉ huy Chu Phú Hải (Zhou Fuhai) nhận lệnh lãnh một tiểu đội đi tìm nước, đột nhiên phía VC phục kích làm sạch một tiểu đoàn tại chỗ, bỏ lại 10 khẩu súng, nhiều loại đạn. Đoàn trinh sát TC chỉ đạo thực hiện phục kích tảo thanh địch, dẫn đầu đi luồn qua những con đường mòn dọc theo sườn núi phía đông bắc của Thạch Sơn. Khi tới núi tổ chức đội hình leo vách đá vì những ngọn đồi dốc, chia thành hai hướng di chuyển về phía trước, sau khi bắn tỉa tiêu diệt một tiểu đội đối phương, chỉ huy bố trí lại hỏa lực đội hình thu quân trở lại tìm kiếm dân trong làng tiếp tục giết. Một ngọn lửa của VC vừa bùng lên, quả bom nỗ đoàn quân Trung Cộng thiệt mạng trên 23 tên, bị thương 8 tên, trận chiến tuy nhỏ nhưng TC thiệt hại nặng.
 
Quân binh Trung Cộng lùi lại một con đường mòn, thay đổi chiến thuật, hướng tiến công vào mục tiêu, quyết tâm thực hiện một trận chiến có tính phục thù để bù trừ lại đồng đội thương vong, súng không giật, súng máy hạng nặng bắn xối xã xuống các lỗ hang động, bởi nghi ngờ có VC, nhưng không may mắm trước đó một giờ quân VC đã rút lui chỉ để lại những dấu vết cối pháo, không tìm thấy bóng kẻ thù.
 
Gần hoàng hôn quân TC, lục xét lại dấu vết vị trí của quân thù, đi theo đường sương mù xuống đồi núi, chạm mặt hai mũi địch-thù cài răng lược cố thủ, quân binh TC có dấu hiệu bổ xung quân, đình chỉ các cuộc tấn công chờ sáng mai, như một lời cảnh cáo mạnh mẽ, hứa hẹn chiến đấu một trận chiến cuối cùng, kẻ nào nao núng sẽ thua trận trước, phá vỡ ý chí địch quân, trong đêm VC biết mình quân ít, chuyển quân vào chân núi trụ lại điểm yết chờ hầu phục kích.
 
Người lính VC trúng đạn pháo của TC. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm. [3]
 
Lúc 4:00 vào ngày 17, tháng 3-1979, hỏa lực của sáu Trung đoàn TC trở lại chiến đấu, lúc này VC đã bỏ vị trí chỉ còn lại hai người lính tử thương đem đi không kịp, quân TC đánh mất một cơ hội buôn chân kẻ thù. Quân TC tăng cường hỏa lực đại pháo cho Trung đội 6, Trung đội 3, và Trung đội 8, mỗi Trung đội tiếp cận từ bên trái sang bên phải tiến vào mục tiêu. Đúng 10 giờ sáng, ba lớp binh chiến đấu chiếm được vị trí thuận lợi. Phó chính trị viên đem theo 2 Trung đội di chuyển nhanh chóng tiếp cận các lỗ châu mai, đầu tiên bắn hai quả tên lửa, ngay lập tức hai trung đội tận dụng lợi thế cắt đứt các con đường vào làng, và hang động chia thành ba nhóm trên cả hai mặt trước của bức tường núi thiên nhiên, dọc theo hướng phía trước tìm kiếm địch, dù bầu trời đang tăm tối.  
 
Để xác định tình hình bên trong hang động, đầu tiên hai lớp đèn pin, cụ thể sau khi mở đèn, phía trước đã có ánh lửa của đối phương, và phạm vi giới hạn của ánh sáng, nếu sử dụng động cơ chiếu sáng sẽ quan sát bất tiện, dùng đèn pin chỉ đủ ảnh hưởng đến tầm nhìn, cách tiếp cận này không thành công. Trong trường hợp này, mặc dù đã tìm thấy dân làng Việt Nam trú ẩn trong hang động, nhưng bên trong hang động không thể cung cấp các điều kiện sống lâu một khi có chiến tranh. Phía quân đội TC vì tình hình an ninh, họ tìm mọi cách xóa vết tích, đưa tập thể nhân dân Việt xuống lòng đất, hành động chông tập thể, rải rác biên cương mồ viễn xứ, sử lý hơn sáu giờ.
 
Tiểu đoàn Trưởng 159 của TC, xem xét hàng ngũ sau một ngày giao tranh dữ dội tại Thạnh Sơn, bây giờ chỉ còn lại tiếng súng rải rác, quân TC quyết định tạm dừng tiếng súng, thậm chí còn gọi 2 Trung đoàn, rút ra ​​bên ngoài hang động, ngăn chận được địch, có khả năng vượt trốn thoát, quân đội TC cũng có những trở ngại, khó kiểm soát được “mìn tóc kéo” (Nữ chiến binh VC) đang phục kích trong hang khoảng 100 mét, quân TC luân phiên di chuyển để tráng phục kích, lúc này hai phía theo quy luật đánh du kích. Phó chính trị viên, chỉ huy hai tiểu đoàn TC, chuẩn bị đủ dây thừng, cọc tre dài và các thiết bị khác để sử dụng trong việc tìm kiếm hang động; tăng cường cảnh giác bên ngoài, chống kẻ thù chạy thoát.
 
Tiểu đoàn 159 của TC, bám sát động Thạch Sơn, trong động hiểm trở có nhiều bậc thang và ngõ ngách. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm. [4]
 
Vào ngày 8, đổi chiến thuật, đại đội trưởng và phó chính trị viên lãnh đạo một trung đội Sưu Tiễu (Souchao) dẫn theo 3 Trung đội, bố trí một cánh quân bên phải, một trung đội trưởng và hai nhóm trên bên trái, một nhóm đi về phía trước tìm kiếm, cả ba liên lạc với chỉ huy Tùy Ban (Suiban). Sau khi theo dõi 3 lỗ động cách đó khoảng 30 mét, trước mặt có thêm động Sơn Đỗng sâu thẩm khoảng 60 mét, tất cả đều một màu đen. Một nhóm có cọc tre 4 mét dài, xuống trước chạm bức tường đá dọc theo động, đôi chân thăm dò từng bước về phía trước, vô tình một tảng đá nhỏ rơi xuống van lên âm thanh manh theo gió hó, thu hút các vị trí của đối phương tiếp xúc được tiếng động. Chắc chắn, những âm thanh hướng đến đối phương như một quả bom. Theo ánh sáng phát ra khi kẻ thù (VC) đủ thời gian tránh được lựu đạn cay, khí độc, chất hóa học thả xuống các lỗ thông hơi, sau khi xác định vị trí cụ thể của nó, những quả bom tiến về phía trước đối phương, những kẻ thù phải chết, binh lính TC cũng nhận thấy rằng kẻ thù khó trốn thoát.
 
Đội quân 1 và 2 của TC luân phiên trải rộng đuổi theo dân quân địa phương, đến lỗ động nhỏ giết sạch cách miệng động khoảng 100 mét, phó chỉ huy khám phá một lỗ nhỏ, nơi đó có một số người ẩn nấp, vội cho một tốp lính đi dọc theo bức tường ở hai bên đầu, bắt sống được toàn bộ dân quân còn lại làm tù binh, hộ tống họ ra khỏi lỗ động. Trong số tù binh muốn kháng cự lại, quân TC bắn ngay tại chỗ chết 3 người dân cách khoảng 10 mét, khiến binh sĩ TC tiến hành theo dõi, tìm kiếm những lỗ động còn lại, đến cuối hang động, lính TC phát hiện nghe trẻ con đang khóc.
 
Quân Trung Cộng không tha bất cứ già trẻ, git sp ca động, dùng khí đc, cht hóa hc th xung các l thông hơi giết sạch mọi người trong động. Nguồn: Lịch sử diễn đàn Trung Quốc.
 
Trong trường hợp này, quân TC chia nhau kiểm soát mỗi lỗ hang động, tiếp theo tập trung lực lượng quét sạch từng hang động một. Điểm đặc biệt có nhiều lỗ hang nhỏ khoảng năm mét được kết nối với nhau thành hai đầu lỗ, có độ dốc lớn, cho nên không rõ bao nhiêu người ẩn nấp. Trong các hang động ở phía cuối càng sâu hơn, đèn khí đá treo trong lỗ cũng là cách đánh lừa lạc hướng kẻ thù.
Quân Trung Cộng tổ chức đội hình tấn công vào hang động, việc đầu tiên dập tắt đèn khí đá, hai binh sĩ sử dụng một cột tre dài cho xuống lỗ, tiếp theo tìm kiếm phía dưới và ngụy trang không bịt lỗ ở đầu bên kia để thu hút đối phương, sau khi tìm được kẻ thù, chỉ cần một quả bom sẽ giết sạch, và sau đó nhanh chóng di chuyển bằng cách trượt tre dọc theo bức tường lỗ, tránh phản công.
 
Sinh hoạt trong hang động, TC cho nhóm tình báo gián tiếp trà trộn trong quần chúng, bám vào dân quân du kích và lính VC, họ lấy quần chúng làm lá chắn ở phía trước, lính TC còn hãm hiếp phụ nữ trong hang động khuất, phần đông người dân tộc thiểu số, một điều lạ lúc sợ hãi tất cả mọi người tụng kinh “nặc tùng lá trống!”
 
Sau khi thẩm vấn những nữ tù binh, họ cho biết bị lính TC tra tấn vô nhân đạo, lẫn ngày cả đêm, không gián đoạn bạo lực. Lính TC đã trở thành băng đảng hảm hiếp, xem nữ tù binh là chiến lợi phẩm, họ cho rằng trên chiến trường có quyền hưởng giải sầu, chúc mừng hạnh phúc, lính TC suy nghĩ đời chiến binh, chuyện đồng lõa hảm hiếp như một cơn say quá tuyệt vời. Tất nhiên họ có biện pháp không thể để có thai, hoặc sau khi hảm hiếp thủ tiêu.
 
Ở phía trước núi Lâm Sơn (林山) thuộc dãy núi Laoshan, có hai phụ nữ Việt nằm trong lửa đã chết, chúng tôi ngập ngừng đi về phía trước cách hàng chục mét. Hỏi lý do nào “Hai người phụ nữ là kẻ thù của TC!” Một chỉ huy trưởng cho biết chết vì pháo binh. Tôi nói, không đúng họ chết vì hai viên đạn súng trường theo lối bóp cò, một tia bắn xuyên qua thung lũng thái dương tức khắc chết. Tôi thấy trong tầm nhìn, người phụ nữ Việt, lông mày bắn lên sợ hãi, viên đạn từ đầu cô nở ra, giật gân xương, đầu co lại một chút, sau đó mất hỗ trợ trên cổ, tiếp theo thân và chân mất sức mạnh, cơ thể mềm lăng xuống đất, họ bị thiêu xác phi tang. Một lập luận khác, lính TC hảm hiếp, sau đó tẩy rửa phi tang chứng.
 
Tất cả điều này xảy ra trong chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc vào 1979-1989. Một lính TC còn lương tâm nói. Tôi không muốn sống trong chiến tranh, tôi không thể giết những người phụ nữ Việt Nam, chứng tỏ điều đó tôi thường giúp đỡ nữ tù binh về thuốc men. Nếu tôi cần cơ thể phụ nữ thì xin và có đồng tình cả hai, chính xác hơn tôi phải đặt mình trong phạm vi đạo đức. 60 ngàn binh sĩ TC trên chiến trường Việt Nam chỉ mới có một người chưa hẳng hoàn toàn lương thiện.
 
Rất nhiều xác chết phụ nữ Việt Nam phía sau tôi, ông Dương Minh Vĩ (Yang Ming Wei) và ông Hoàng (Huang) chính tay họ cắt xén thân thể của nữ tù binh, ghê tởm nhất họ lấy từng bộ phận làm thịt nhậu với rượu, trên môi của họ sảng khoái hút thuốc lá Hồng Tháp Sơn (Hongtashan). Cũng ngày hôm ấy tôi nhớ, doanh trại VC bị tấn công, giao tranh khoảng nửa giờ, TC kéo về chục xác chết của đồng đội, và pháo binh VC cắt đường dây điện thoại liên lạc về căn cứ Laoshan.
 
Hai lính TC, Dương Minh (Yang Ming-杨明) và Hoàng (Huang-黄) chính tay họ cắt xén thân thể của nữ tù binh Việt Nam. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm. [5]
 
Chúng tôi đi trong rừng nhiệt đới, ẩm ước khó thấy vệt sáng mờ, dễ dàng làm mồi cho phục kích hay mục tiêu của tay súng bắn tỉa. Ở trong rừng cảm thấy thời gian nào cũng có rủi ro, thê thảm nhất tử vong bằng khối lựu đạn “Bạo phá đồng” (爆破筒). Mỗi ngày sống trong tình trạng như vậy, khi ngủ đôi mắt cũng phải dè chừng phục kích. Hôm sau chiến sự ác liệt tại núi trọc, một phần của Lão Sơn để lại không bao nhiêu cây súng, nó đang âm thầm quan sát người lính thương vong, trên chiến trường không thể dự đoán trước, một viên đạn sẽ lấy đi tất cả mọi thứ của người lính.
 
Dừng chân tại đỉnh núi, xa xa có đồi nhỏ, nơi quân đội TC trú đóng hơn một trăm lính, chúng tôi vừa đến nơi chuyện trước tiên đào hố cá nhân giữ mạng, đêm đó VC lẻn vào vị trí, nhưng rất may mắn được lệnh thu hồi binh từ bộ chỉ huy Laoshan. Đối với tôi, cái chết không phải là một điều khủng khiếp, bởi vì muốn nhận diện mặt trắng chiến tranh 1979-1989phải chấp nhận gian lao và chết sống theo định mệnh. Như tất cả các phóng viên chiến trường họ chết sống vì lý tưởng truyền thông hay vì đất nước.
 
TC tạo ra chiến tranh “tự vệ” chỉ để tàn sát trẻ em, giết sạch phụ nữ, nhân dân, cướp sạch tài sản và cướp phần đất biên giới của VN! cho thấy TC xâm lăng Việt Nam chỉ vì mục đích duy trì chiến sách quân sự gian manh, một áp lực lớn đối với nhân dân VN hôm nay.
Rất tiết VC không tuyên truyền cuộc chiến đúng như sự thật, không nâng sự quan tâm hiểu biết của quần chúng về cuộc chiến tranh biên giới vào thời điểm ngày 17 tháng 2 năm 1979-1989. Từ đó lòng dân đã mất phương hướng, Tổ quốc còn tồn hay đã vong, do đó chiến tranh bành trướng đã đi vào quên lãng!
 
ÿ  Huỳnh Tâm
Tham khảo.

TÙ BINH CHIẾN TRANH VIỆT NAM-TRUNG QUỐC 1979-1989 – KỲ 4

Cựu nữ tù binh chiến tranh Việt Nam-Trung Quốc nhớ lại: Vào tháng 2 năm 1979, khi quân đội TC xâm chiếm VN với khẩu hiệu “phản công tự vệ”, tiến quân từ quận Bàn Khê, Côn Minh, Vân Nam. Trong tháng TC đã lập hai trại tù chiến tranh tổng cộng 771 tù binh, riêng huyện Quân Thành Quảng Tây lập trại tù binh quân sự 1, 2 , 3, 4, 5. Quân đội tỉnh Quảng Tây thành lập trại tù binh 6, 7, 8.
Cán bộ quản chế trại tù binh giám đốc chính trị viên, dưới bộ phận tuyên truyền, khoa học vật liệu, giao cho Quản Khoa (IMSS), trạm y tế và ba đội canh phòng, mỗi đội canh giữ 120 tù binh, tổng số 995 tù binh, trong đó có 117 tù binh nữ, 878 tù binh nam, cấp úy hơn 15 tù binh. Tháng 2 năm 1979, quân đội của tỉnh Quảng Tây, Vân Nam tiến vào biên giới Việt Nam tiêu diệt 40.000 người, bắt sống 2.766 tù binh, họ gọi là kẻ thù của chiến tranh. Đến cuối tháng 6 năm 1979, Trung Cộng khởi động trao đổi tù binh chiến tranh. [1]
Ngày 17 tháng 2 năm 1979. TC xua quân chiếm biên giới VN. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm. Ngày 17 tháng 2 năm 1979. TC xua quân chiếm biên giới VN. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
Ngày 16 tháng 3 năm 1979, tạm kết thúc cuộc chiến tranh “tự vệ” để chuyển qua chiến tranh “thu hồi biên giới”, tuy nhiên các cuộc xung đột vũ trang biên giới Trung-Việt vẫn tiếp tục, tù binh thường bị bắt trong các cuộc xung đột vũ trang.
Tháng 7 năm 1980, tỉnh Quảng Tây hình thành 1 trại tù binh chiến tranh mã 54.271, ở thời điểm này có 66 tù binh nam, 7 cán bộ, 59 binh sĩ. Ngoài ra, những người đào trốn trại 48 người, trong đó có 10 cán bộ, 35 binh sĩ, dân quân 3 người. Ngày 07 tháng 8 năm 1980, huyện Ngọc Khê, tỉnh Vân Nam thiết lập tiểu đoàn quân sự tạm trú tại VN, đến tháng tư năm 1989, ủy ban quân sự nhận được tổng cộng 94 tù binh. Ngoài ra, trốn trại 24 người, riêng văn phòng quân sự tỉnh, và phó tham mưu trưởng của bộ phận hải ngoại, tiếp nhận hơn 160 tù binh, tất cả trao trả vào đầu năm 1990.
Chiến tranh biên giới VN-TQ, ngày 17/2/1979-1989. Trên 421 nữ tù binh Việt Nam tại trại Lâm Sơn tỉnh Vân Nam, Trung Cộng. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm. Chiến tranh biên giới VN-TQ, ngày 17/2/1979-1989. Trên 421 nữ tù binh Việt Nam tại trại Lâm Sơn tỉnh Vân Nam, Trung Cộng. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
Cuộc chiến tranh biên giới VN-TQ kéo dài hơn 10 năm, phía VN sử dụng tên lửa bắn rơi Trung đoàn 921 pháo binh, Tiểu đoàn 371 pháo binh, 2 Captain phi hành đoàn Thiểu Giáo. Trình Thủ Tông (John Chen), phó tham mưu trưởng của các bộ phận không quân, và tổng cộng 1.926 tù binh TC bị bắt bởi quân đội Việt Nam. Riêng tù binh VN bị TC bắt thuộc thành phần chính quy quân đội, lực lượng dân quân, cảnh sát, nhân viên vũ trang khác. Còn có những thành phần dân tộc thiểu số (kinh tộc-Jing), sống trong khu vực biên giới Trung-Việt như dân tộc Choang (Zhuang), Miêu, Dao và Dai.
Theo báo cáo quản lý phân khu, nhân viên quân sự TC, có ba khía cạnh tù binh:
Thứ nhất, cuộc chiến tranh trong môi trường dài hạn nghèo đói và lạc hậu kinh tế, thói quen không còn khả năng kiên trì để tồn tại. Kể từ khi có chiến tranh không bao giờ dừng lại, do nó chưa phải là xương sống của chiến đấu liên tục, kinh nghiệm thực tiễn, đa số các binh sĩ trong quân đội Việt Nam trước khi là thành viên của lực lượng dân quân hoặc huấn luyện quân sự nhận được tại các trường trung học cơ sở, nó có một phẩm chất quân sự nhất định. Chiến sĩ Việt Cộng không yêu cầu cuộc sống, nhất là giới trẻ từ các vùng nông thôn, cho ăn ba bữa một ngày là đã hài lòng.
Trại nữ tù binh tại Bác Lý Hà. Lịch sử diễn đàn Trung Quốc loan tải. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm. Trại nữ tù binh tại Bác Lý Hà. Lịch sử diễn đàn Trung Quốc loan tải. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
Thứ hai, binh sĩ có tình cảm dân tộc hẹp hòi và quyền bá chủ của đảng kiểm soát tư tưởng tối đa. Người chiến binh Việt Nam tự tin Việt Cộng một cách quá mù quáng, họ suy nghĩ rằng “trong quá khứ đã đánh bại Nhật Bản, Pháp, giặc Mỹ, VNCH, bây giờ đã trở thành sức mạnh quân sự thứ ba trên thế giới, và xâm lăng Campuchia, kiểm soát Lào là “nghĩa vụ quốc tế.” Trong khi đó Việt Cộng chưa sản xuất được thực phẩm nuôi quân, kể cả cây kim sợi chỉ để khâu vá áo quần rách cũng không có, thử hỏi làm sao chế tạo ra một viên đạn cây súng, nếu không có Trung Cộng, Liên Xô chung cấp, viện trợ tối đa. [2]
Thứ ba, Việt Cộng tuyên truyền dối trá, trái lại nhân dân thích nghe lời mị dân lấy làm lạc quang nhưng không biết dó là địa ngục, khi ấy VC đẫm màu tiêu diệt những người có khác ý và cấp tiến. Theo các tù binh phản ánh nhà chức trách Việt Cộng vẫn xem Trung Cộng là “Anh em tình đảng tình đồng chí”, chỉ có “nhân dân Việt Nam chống lại kẻ thù quân xâm lược Trung Cộng.” Và có tin loan truyền về tù binh VC: “lính Trung Cộng bắt được một tù binh bằng mọi cách giết chết, hoặc chôn sống, lột da, hảm hiếp, châm kim độc sau vài ngày sẽ chết, được đảng khen thưởng một đầu người giá 500 nhân dân tệ.” “Binh lính Việt Nam sau khi bị bắt, sử lý nghiêm trọng, nhiều binh sĩ TC cho rằng Hồ Chí Minh không còn giá trị.
Báo tường trại tù binh, học tập chiến tranh  Báo tường trại tù binh, học tập chiến tranh “tự vệ” và theo lời dạy của Mao chủ tịch. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
Để tăng cường anh ninh trại tù, TC ra sức quản lý tư tưởng và giáo dục cải tạo quan điểm, chính phủ TC không bao giờ thực hiện công ước “Geneva về quy định tù binh chiến tranh”, Tổng cục Chính trị TC đã ban hành “giáo dục, quản lý quan điểm tù binh”, đặc biệt công khai hướng dẫn tù binh theo nguyên tắc: Quan hệ hữu nghị giữa nhân dân, nâng cao “hòa bình, hữu nghị Mao-Hồ”.
Nhà chức trách Việt Cộng để lộ sự tuyên truyền dối trá, hầu xua tan nỗi lo âu và giảm bớt sự hiểu biết của nhân dân về chiến tranh biên giới. Nhà nước Việt Cộng khuyến khích nuôi lòng bạo lực đối với đồng chí trong tù. Việt Cộng không phản ánh tình trạng tù binh do TC bắt giữ. Sau khi trao trả tù binh VC sàng lọc phân chia nhiều thành phần, có thể mất mạng vì nghi ngơ phản động hay tình báo của TC.
TC di chuyển tù binh VN đến trại Lâm Sơn trong lãnh thổ VN. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.  TC di chuyển tù binh VN đến trại Lâm Sơn trong lãnh thổ VN. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.