Thứ Ba, 7 tháng 3, 2017

THỤY ĐIỂN ĐẤT NƯỚC CỦA BAO CHUYỆN..." ĐAU ĐẦU"

Đôi lời phi lộ của blog Phạm Viết Đào: 

Báo chí Việt gần đây đã đưa nhiều thông tin về những sự "đau đầu" của đất nước Thụy Điển, chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế...

Phạm Viết Đào có một bạn văn người Thụy Điển: Ion Milos, ông sống tại Thụy Điển, quốc tịch Thụy Điển nhưng bố ông là người Romania, mẹ ông là người Serbi...

Thẻ công dân Thụy Điển của ông mang số:300330-1333...

Phạm Viết Đào gặp Milos trong một Festival văn học tại Romania năm 2000 và được ông tặng một tuyển thơ của ông viết bằng tiếng Romania. Phạm Viết Đào đã tuyển dịch và in tại NXB Văn học...

Nhân việc dư luận đang quan tâm tới Thụy Điển, xin giới thiệu bạn văn Ion Milos và những bài thơ Milos viết về đất nước Thụy Điển với những cảm thức gần như khác nhiều với những thông tin kinh tế...


Phạm Viết Đào và nhà thơ Thụy Điển Ion Milos tại Romania năm 2000

Thụy Điển “đau đầu” vì thu được quá nhiều thuế

Trái với nạn trốn thuế tại nhiều quốc gia trên thế giới, Chính phủ Thụy Điển đang phải “đau đầu” khi tìm cách ứng phó với tình trạng người dân nộp thừa quá nhiều thuế. Đâu là nguyên nhân của hiện tượng kỳ lạ này?

thuy dien, thu thuế, quá nhiều,
Đồng Krona của Thụy Điển . (Ảnh: Internet)
Khác với các nước Nam Âu, các quốc gia Bắc Âu sẵn sàng trả thuế để được hưởng những dịch vụ công toàn diện và hiệu quả cùng một xã hội với một hệ thống phân phối thu nhập một cách công bằng.
Theo những công bố chính thức vào ngày 22/2, Chính phủ Thụy Điển đã thu về tiền thuế cao hơn rất nhiều so với dự báo năm 2016. Thặng dư ngân sách của đất nước Bắc Âu này đạt 85 tỷ SKR (tương đương với 9,5 tỷ USD) trong năm 2016. Gần một nửa trong số đó là do các công ty và cá nhân nộp thừa thuế.
Đáng ra, điều này nên khiến cho Chính phủ Thụy Điển vui mừng, nhưng ngược lại, giới chức nước này, những người phải trả lãi và quản lỹ, lại đau đầu về tình trạng “kỳ lạ” này. Chuyện gì đang xảy ra vậy?
Những nhà xã hội học, kinh tế học và những học giả khác đã tranh cãi trong một thời gian dài về nguyên nhân khiến những người dân Thụy Điển sẵn lòng trả thuế vì lợi ích chung.
Một vài giả thuyết đã được đưa ra. Có người cho rằng có lẽ, những mùa đông khắc nghiệt và kéo dài ở phương Bắc có lẽ đã kéo nhiều thế hệ những người Thụy Điển “lại gần nhau” hơn để cùng tồn tại và khiến họ nhận thức tốt hơn về tầm quan trọng của việc giúp đỡ cộng đồng.
Tuy nhiên, trên thực tế, người Thụy Điển không hào phóng đến mức ấy. Hiện tượng đóng thừa thuế thực chất là hệ quả của lãi suất âm.
thuy dien, thu thuế, quá nhiều,
Lãi suất chuẩn của ngân hàng Trung ương Thụy Điển (2000 – 2016) (Ảnh: Riksbank)
Trong 2 năm trở lại , từ tháng 3/2015, ngân hàng Trung ương Thụy Điển cũng như các ngân hàng khác ở Thụy Điển đã giữ mức lãi suất dưới 0% trong một nỗ lực nhằm ngăn ngừa tình trạng lạm phát và đồng Krona tăng giá quá nhiều so với đồng Euro.
Cùng lúc đó, chính phủ đã hứa sẽ trả lãi suất 0,56% cho bất kỳ khoản tiền nộp thuế thừa nào cho những người nộp thuế. Mặc dù, lãi suất này đã giảm xuống 0%, các cá nhân và công ty thà lưu trữ tiết kiệm của họ dưới hình thức nộp thuế thừa hơn là gửi vào ngân hàng và mất tiền.
Thông thường, các quan chức và chính trị gia sẽ thể hiện sự vui mừng khôn xiết khi thặng dư ngân sách nhà nước ngày càng tăng. Nhưng trong trường hợp của Thụy Điển, chi phí vay mượn từ người nộp thuế (nhận tiền nộp thừa của họ) cao hơn khoảng 800 triệu SKR so với huy động vốn từ những nguồn khác.
Không biết là hiện tượng chi trả thuế quá mức này sẽ phát triển như thế nào, cũng như khi nào thì người nộp thuế sẽ đòi lại lãi suất từ tiền nộp thuế quá mức của họ. Chính điều này gây khó khăn cho việc quản lý lưu lượng tiền tệ.
Lãi suất âm ở Thụy Điển sẽ tiếp tục trong trong thời gian tới đây, đồng nghĩa rằng tình trạng nộp thừa thuế cũng sẽ còn kéo dài.
Theo Cafe Biz

Thụy Điển cạn kiệt nguồn rác, phải nhập khẩu từ các nước láng giềng

Thụy Điển, quốc gia hạnh phúc và hăm hở tái chế rác, nơi có gần một triệu ngôi nhà được làm nóng bằng chất thải được đốt cháy, đang phải đối mặt với một tình thế khó xử có một không hai: Họ cần nhiều nhiên liệu hơn.
Thụy Điển, quốc gia của hơn 9,8 triệu người, đã cạn kiệt nguồn rác. Các bãi rác đã được khai thác triệt để, nguồn rác dự trữ đang cạn kiệt. Điều này trông có vẻ là một điều tích cực, thậm chí đáng ghen tị, khi rác là một vấn đề nan giải mà các quốc gia khác chỉ muốn tống khứ đi, ngược lại Thụy Điển lại bị buộc phải nhập khẩu rác từ các nước láng giềng.
Thụy Điển rất chú trọng tái chế, vì vậy chất thải rất ít khi được đưa đến bãi rác. (Ảnh: Evikka/Shutterstock)
Người Thụy Điển rất chú trọng tái chế. Trên thực tế, chỉ dưới 1% chất thải hộ gia đình Thụy Điển phải đến bãi rác kể từ năm 2011.
Họ đã tái chế rất tốt! Tuy nhiên, thói quen tái chế này đã làm họ phải phụ thuộc vào nguồn chất thải để sưởi ấm và cung cấp điện cho hàng trăm ngàn ngôi nhà thông qua một chương trình dài hạn đốt chất thải thành năng lượng.
Vì vậy, khi chất thải trong nước không đủ, họ buộc phải tìm nhiên liệu ở nơi khác. Giải pháp được đưa ra là nhập khẩu chất thải từ các nước khác, chủ yếu là Na Uy và Anh. Đây là một thỏa thuận tuyệt vời cho Thụy Điển: Những quốc gia khác trả tiền để Thụy Điển lấy đi chất thải dư thừa của họ, Thụy Điển đốt cháy chúng để lấy nhiệt và điện. Và trong trường hợp của Na Uy, tro còn lại từ quá trình đốt rác có hàm lượng dioxin gây ô nhiễm cao đã được trả lại cho đất nước này để chôn lấp.
Bà Catarina Ostlund, một cố vấn cấp cao của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Thụy Điển vào năm 2012 cho biết Na Uy có thể không phải là một đối tác hoàn hảo cho đề án rác nhập khẩu. “Tôi hy vọng rằng chúng tôi có thể nhận được rác thải từ Ý hay từ Romania và Bulgaria hay các quốc gia Baltic vì có rất nhiều bãi rác ở những nước này”, bà nói với Đài phát thanh Public Radio International. “Họ không có bất kỳ nhà máy đốt hay các nhà máy tái chế, họ cần tìm một giải pháp cho chất thải của họ”.

8 cách thông minh mà Thụy Điển tái chế rác thải

Trang takepart.com đã liệt kê những cách tuyệt vời để khuyến khích bảo vệ môi trường ở Thụy Điển:
  1. Thuốc dùng dư sẽ được trả lại cho nhà thuốc: 43% người Thụy Điển thực hiện điều này
  2. Quần áo đã dùng có thể mang đi đổi để được giảm giá khi mua quần áo mới. VD: năm 2013, H&M giảm giá 7,8 USD (trên đơn hàng tối thiểu 52 USD) cho mỗi túi quần áo cũ mà khách hàng mang tới.
  3. Vỏ chai bia đổi lấy burger: Trong một chương trình khuyến mãi năm 2014, cửa hàng McDonald’s ở Thụy Điển chấp nhận đổi 10 vỏ lon bia lấy một chiếc bánh mì hamburger/cheeseburger, hoặc 40 vỏ lon lấy một chiếc bánh Big Mac.
  4. Thùng rác chơi nhạc: Ở Helsingborg, các thùng rác công cộng có loa để phát nhạc, làm cho việc đổ rác thoải mái vui vẻ hơn.
  5. Mọi người cùng phân loại rác: các hộ gia đình phân loại báo giấy, nhựa, kim loại, thủy tinh, bóng đèn, và pin. Các món đồ lớn hơn như đồ nội thất hay điện tử thì người Thụy Điển đem tới các trung tâm tái chế ở ngoại ô.
  6. Xe tải đổ rác cũng chạy bằng năng lượng sạch: Dùng biodiesel hay biogas, các xe tải này tạo ra ít tiếng ồn và khí thải hơn, môi trường làm việc cũng tốt hơn cho nhân viên vận hành.
  7. Các nghệ sĩ khuyến khích việc tái chế: Tổ chức bảo vệ môi trường đã hợp tác với các nhạc sĩ, ca sĩ, ngôi sao để thu âm bài hát và quay các quảng cáo phát sóng toàn quốc khuyến khích việc mang các vỏ chai đã dùng tới cửa hàng.
  8. Người dân rất có ý thức môi trường: 40% người Thụy Điển mua sản phẩm dán nhãn thân thiện môi trường. Con số này là cao hơn hẳn ở Mỹ.
Theo MNN, takepart.com
Hoàng Vũ tổng hợp


Kết quả hình ảnh cho Milos Ion
Nhà thơ Ion Milos đang đọc thơ

THƠ CỦA NHÀ THƠ THỤY ĐIỂN ION MILOS DO PHẠM VIẾT ĐÀO DỊCH  VÀ XUẤT BẢN TẠI NXB VĂN HỌC


Thơ hậu hiện đại của Ion Milos
Phạm Viết Đào
Thứ tư ngày 25 tháng 2 năm 2009 2:22 PM

Một cách diễn giải " kinh dịch " bằng thơ...

Hiện đại và hậu hiện đại không chỉ là một khái niệm và một cặp phạm trù của khoa học-kỹ thuật, của văn minh vật chất mà còn là một khái niệm, một cặp phạm trù trong văn hoá-văn học-nghệ thuật; một khái niệm, một cặp phạm trù cả trong lĩnh vực triết học...
Bởi cuộc sống đã chứng minh: Phía sau đỉnh cao là vực thẳm; sau thịnh là suy, thịnh được cái này thì suy cái khác (Thịnh mãn lắm, oán thù càng lắm-Văn chiêu hồn-Nguyễn Du); đối với dương là âm, hễ âm thịnh thì dương suy và ngược lại...
Liệu các giá trị của văn hoá-tinh thần có phát triển tỷ lệ thuận theo sự phát triển của văn minh vật chất- thành quả của khoa học kỹ thuật đã và sẽ đang đến với nhiều quốc gia? Trái đất liệu có tồn tại thiên đường không ? Điều khắc khoảy này người đọc có thể cảm nhận trong nhiều tứ thơ của Ion Milos được tuyển dịch trong tập thơ mới này...
Chúng ta đã nghe nói nhiều về chũ nghĩa hậu hiện đại trên phương diện lý thuyết, lý luận về các lĩnh vực: kiến trúc, hội hoạ, văn học, nghệ thuật; vậy những sáng tác theo trường phái hậu hiện đại là như thế nào? Thông qua thơ của Ion Milos, một nhà thơ Thuỵ Điển chúng tôi muốn giới thiệu với độc giả về trường phái này thông qua cảm thức của một nhà thơ, cảm thức của ngôn ngữ thơ...
Có lần có nhà báo hỏi nhà bác học Đức Einstein Albert: Theo ông, trong thế chiến thứ thứ 3 loài người sẽ sử dụng loại vũ khí nào để tiêu diệt lẫn nhau? Ông trả lời là không biết nhưng ông dám chắc rằng: Tới thế chiến thứ tư... loài người nhất định sẽ sử dụng cung tên để bắn nhau.
Suy ngẫn câu trả lời của Einstein Albert đã dạy cho chúng ta hãy lường định cái mặt trái của văn minh vật chất...Thượng đế chẳng cho không ai một cái gì, một điều gì mà con người không phải trả giá cho nó…
Với 89 bài thơ của Ion Milos, một nhà thơ Thuỵ Điển, chúng tôi muốn giới thiệu với bạn đọc những khắc khoảy của một nhà thơ, của một con người đang sống trong một xã hội, một quốc gia đã đáp ứng gần như hoàn thiện phần lớn những nhu cầu vật chất mà con người bình thường đặt ra. Thuỵ Điển- đó là một mô hình quản trị kinh tế- xã hội mà rất nhiều chính phủ, nhiều cư dân trên hành tình này đang ngưỡng mộ, hướng tới. Trong thơ Ion Milos người đọc thấy hình như  không phải nhà thơ đang được thừa hưởng những văn minh vật chất mà đang bị "cầm tù" bởi cái gọi là văn minh vật chất; người đọc cảm nhận được ngổn ngang đây đó những cảm giác chán chường, mệt mỏi, trống rỗng và lạnh lẽo của tiện nghi vật chất trong thơ Milos...
Thuỵ Điển hiện là một trong những quốc gia có nhiều người tự tử nhất thế giới? Hy vọng tập thơ của Ion Milos phần nào sẽ giúp người đọc hiểu được những bế tắc của một nhà thơ Thuỵ Điển, của con người Thuỵ Điển, bế tắc trong một xã hội giàu sang, của những con người giàu sang theo chuẩn mực thông tục...
Đọc thơ Milos cũng giúp cho người đọc thấy tiện nghi vật chất, tiền bạc chưa hẳn đã là đấng quyền năng tối thượng; Tiện nghi vật chất chưa hẳn đã là chất liệu tiên quyết cho các giá trị tinh thần, cho những niềm vui và hạnh phúc của con người...
Đọc thơ Ion Milos người đọc sẽ thấy một đất nước giàu sang, tinh tươm và bóng lộn như một hiệu "kim hoàn" nhưng hình như lại đang thiếu vắng " bóng người"...
Vậy con người sống như thể nào và cần những điều kiện gì để thật sự có hạnh phúc? Hạnh phúc, thiên đường liệu có là điều có thật không?
Đó hình như vẫn còn là một bài toán để ngỏ khi đọc thơ Ion Milos ?!
Ion Milos sinh năm 1930 tại làng Sarcia ở vùng Banat-thuộc Nam Tư cũ, bố mẹ là người Rumani; Ion Milos nhập quốc tịch Thụy Điển từ năm 1964; hiện ông đang sống tại thành phố Malmo với số thẻ công dân 300330-1333...
Ion Milos là tác giả của 80 đầu sách viết bằng các thứ tiếng: Thụy Điển, Rumani, tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Serbi, tiếng Macedonia, tiếng Croatia, tiếng Slovenia...
Sự nghiệp văn học của Ion Milos trải rộng trong các lĩnh vực: làm thơ, ông đã công bố 19 tập thơ với tập thơ đầu tay xuất bản vào năm 1953; số tác phẩm còn lại là dịch văn học từ các ngôn ngữ kể trên sang tiếng Thụy Điển và ngược lại...
Ion Milos đã bảo vệ thành công danh hiệu Tiến sĩ văn học tại Đại học Sorbon-Pari; ông được trao Danh hiệu Tiến sĩ Danh dự Đại học Tổng hợp Oradea-Rumania...
Các hoạt động văn học của Ion Milos được đánh giá cao tại Thụy Điển, Rumani và nhiều quốc gia khác tại châu Âu; Ion Milos là chủ sở hữu của 22 giải thưởng văn học lớn tại Thụy Điển và một số nước châu Âu, trong đó đáng chú ý: 
- Giải thưởng quốc tế Artur Lundkvist năm 1978 và năm 1981;
- Giải thưởng Hội Nhà văn Thụy Điển năm 1993;
- Giải thưởng của Viện Hàn lâm Thụy Điển năm 1998 cho các hoạt động văn học;
- Giải thưởng văn học của Hội Nhà văn Rumani các năm 1989,1990,1995 và 1998;
- Giải thưởng của Viện hàn lâm Rumani...
- Huân Chương Mihai Eminescu do Tổng thống Rumani trao tặng...
- Giải thưởng của Hội Nhà văn Moldavi năm 1995;
Cứ đi đến tận cùng của cái gọi là văn minh phương Tây sẽ bắt gặp phương Đông; đó là cảm giác khi đọc thơ Ion Milos?!
Tác giả: Ion Milos-nhà thơ Thuỵ Điển
Nhà xuất bản: Văn Học

Dịch giả: Phạm Viết Đào



Thụy Điển...

Hạnh phúc được kiến tạo như thế nào

Ở cái quốc gia mà tôi lựa chọn

Thụy Điển là  đất nước mà,

con người đã mất thói quen

Tự một mình đi lại

Nhà nước cầm tay từng người

như dắt tay  lũ  trẻ...

Ở đây các loài hoa đều có thể nở

Và các loài hoa đều  có

các mùi hương giống nhau

Tất cả ở đây đều đúng đắn

Mọi thứ ở đất nước này đều xếp đặt

Theo đường ngay, mực thẳng.
Đất nước Thụy Điển

Đất nước của mọi thứ  sắp bày

Như  những đồ trang sức

được chạm tỉa tinh vi

Trong các cửa hàng vàng, bạc...


    Thụy Điến


Đất nước của một nền chính trị tự thân và tự chủ

Đất nước sinh ra những đứa trẻ con

Từ những cuộc tình tự nguyện

Những bếp lò tại đất nước này

Vẫn luôn tỏa ra những làn khói xanh
ảo mộng...

Chỉ có tâm hồn con người ở đất nước này

Là chết cứng vì  trống rỗng

và chán chường

Bởi  các  điều kiện sống

Đã  vươn tới ngưỡng,  đỉnh cao...



Tình yêu bỏng cháy

Ở Thuỵ Điển không có tình yêu

Cô gái Thuỵ Điển nói với tôi  như vậy

Bởi Thuỵ Điển, xứ sở này quá lạnh.

Tình yêu là thứ luôn đòi sự bỏng cháy

Rất cần sự bỏng cháy.

Chính vì thế nên mỗi khi mùa hè đến

Cô gái Thuỵ Điển kia lại phải lên đ¬¬ường

Đến với những miền bỏng cháy

Để mộng mơ...

Sau mỗi giấc mơ cô bừng tỉnh dậy

Tình yêu nào có thấy đâu?

Cô gái Thuỵ Điển kia bắt đầu vấn v¬ương suy nghĩ:

Tình yêu phải chăng cũng giống như¬¬ bát n¬ước-đời cô

Sẽ đóng băng khi gặp lạnh

Sẽ trào dâng khi gặp

Sức nóng của con tim...




Con người


Tôi dạo trên phố phường

Để gặp Con người

Để được cất lời chào Con người;

Nhưng rồi tôi chỉ gặp

những kỹ sư, những bác nông dân

Những bác sĩ, những công nhân
Những anh lính áo vẫn còn vương mùi thuốc súng...

Tôi tạt vào quán cafe

Nơi đây tôi lại toàn bắt gặp:

Những triết gia, những nhà buôn

Những bóng ma và cả bóng dáng đàn bà

Tất cả như quyện vào trong khói thuốc

Cả thế gới hình như đang đảo điên
trong một tôn giáo mới...

Tôi vội tạt ra chợ

Vào sâu trong các công viên

Và tôi lại chỉ toàn nhìn thấy;

Những con vượn, con ngỗng, con lừa

Những con bồ câu đang yêu nhau mải miết

Thấy một cánh chim đang than khóc
Về những khu vườn đã mất
Con người nào thấy đâu...


Làng tôi

Sự sống ở làng tôi
Đã từ lâu tắt thở
Đám trẻ đã vượt biên
Còn người già thì đã lui về nghĩa địa
Trẻ con bây giờ không còn
Nói tiếng mẹ cha sinh
Những kỷ niệm cứ khóc than
trong những những ngôi nhà trống rỗng
Những chiếc gương không còn nhận ra tôi
Sự hiu quạnh cứ réo rắt ngân vang
trong những tháp chuông
Của những ngôi nhà thờ đổ nát…

Những chiếc chuông cứ nguyện cầu
Những điều nguyện ước
Về những nỗi đau vĩnh hằng
Đang còn thoi thóp
Trong ngôi làng nhỏ quê tôi…

Thế kỷ hạnh phúc

Thứ hạnh phúc gì đây
Khi anh đang sống trong thế kỷ được coi
Là hạnh phúc này?

Khoa học dạy anh sống như những thiên thần:
Cần phải ăn ngần ấy vitamin
Cần phải ngủ bấy nhiêu giờ trong mỗi tối
Để anh có thể sống và chết một cách yên bình
và khỏe khoắn…

Nhà nước sẽ canh chừng cho anh
Mọi sự vô lối của láng giềng
cả  sự hoang tàn của bầy thú dữ…

Những bài học chính trị hàng ngày
Sẽ tẩy não cho anh từ khi anh còn trứng nước
Sẽ thuần dưỡng cho anh
Mọi suy nghĩ lạc loài…

Nhà thờ sẽ tham gia gột rửa tội lỗi cho anh
Sẽ giúp anh dần trở nên thánh thiện
Nhà thờ sẽ chỉ giúp anh
Lối nào có thể
Quay về thế giới  bên kia…

LÃNH ĐẠO VIỆT NAM CÓ GIỐNG LÃNH ĐẠO TRUNG QUỐC: LO CỦNG CỐ QUYỀN LỰC THAY CHO CẢI CÁCH, CẢI TỔ KINH TẾ

"Nền kinh tế Việt Nam có 4 động cơ thì 3 đang trục trặc!"

"Nền kinh tế Việt Nam có 4 động cơ thì 3 đang trục trặc!"

Xem bài liên quan:

>

Phát biểu tại Diễn đàn kinh tế 2017: Cơ hội cho các nhà đầu tư trong tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2016 – 2020, ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng ban pháp chế VCCI cho rằng nếu nhìn nhận lại sức khoẻ của doanh nghiệp tư nhân thì có nhiều điều đáng ngại, chỉ có khối FDI còn mạnh.

Dẫn ra báo cáo của đại học Fulbright trước đó, ông Đậu Anh Tuấn cho biết nền kinh tế Việt Nam đang có 4 động cơ, tuy nhiên, 3 động cơ đang trục trặc, chỉ có mỗi FDI là mạnh. Dù vậy, thời gian tới FDI có duy trì được hay không thì rất khó đoán định. Bởi lẽ, theo nhiều nghiên cứu, khảo sát, vốn FDI đổ vào Việt Nam là bởi các nhà đầu tư có chi phí rẻ.
“Trong tương lai, những điều này sẽ không còn nữa. Đất đai hết rồi, nhân công cũng không còn rẻ nữa, lại thêm câu chuyện TPP, liệu nguồn vốn FDI có còn đổ nhiều vào Việt Nam, trở thành 1 trong những động lực của Việt Nam nữa hay không”, ông Tuấn cho biết.
Cũng theo ông, bức tranh kinh tế doanh nghiệp tư nhân của Việt Nam vẫn đáng ngại bởi quy mô của doanh nghiệp tư nhân Việt Nam đang ngày càng nhỏ đi, hoạt động không hiệu quả.
Cụ thể, nếu như lao động bình quân 1 doanh nghiệp năm 2009 là hơn 40 người thì đến năm 2015 chỉ còn 26 người; Cũng theo khảo sát, 58% doanh nghiệp tư nhân không có thu nhập để nộp thuế. Các chỉ số khác cũng đang rất đáng ngại, như là việc xuất khẩu dù tăng trưởng nhanh, nhưng xuất đi được 10 đồng thì 8 đồng thuộc khu vực có vốn nước ngoài, chỉ có 2 đồng thuộc doanh nghiệp nội, trong khi 4 năm trước tỷ lệ này là 50/50.
Báo cáo của Ngân hàng thế giới cũng cho thấy năng suất của khu vực kinh tế tư nhân có xu hướng giảm. Doanh nghiệp bé, không thể áp dụng được các ưu thế, do đó cứ loay hoay với bài toán phát triển…
“Chúng ta đang chú ý nhiều đến số lượng doanh nghiệp thành lập, 1 triệu doanh nghiệp là mục tiêu, nhưng phải là những doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, có chất lượng”, ông Tuấn nhấn mạnh.
Do đó, để doanh nghiệp tư nhân hoạt động hiệu quả, cơ quan quản lý cần đảm bảo quyền kinh doanh công bằng. Bởi hiện tại chính sách ban hành ra đang chỉ dành cho các ông lớn mà các doanh nghiệp nhỏ khó tiếp cận.
“Nếu không có các doanh nghiệp nhỏ thì sao có các doanh nghiệp lớn. Chưa kể các doanh nghiệp lớn vì không có ai cạnh tranh nên cũng không chịu đổi mới, phát triển”, ông Tuấn cho biết.
Dù vậy, không có nghĩa là doanh nghiệp lớn không gặp khó khăn. Trên thực tế, các doanh nghiệp này đang gặp nhiều bất lợi về thủ tục hành chính. Bởi lẽ, doanh nghiệp càng lớn, thủ tục hành chính càng nhiều, càng hay bị kiểm tra, thanh tra.
Nói về điều này, ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp tỉnh Hưng Yên cho rằng nhiều doanh nghiệp không muốn lớn để khỏi phải phiền phức, một số khác thì tìm cách lách để không bị nhũng nhiễu mà làm ăn.
Nam Dương
Theo Trí thức trẻ

Chuyên gia Vũ Thế Thành: Chỉ cần 1 chiếc đèn pin, có thể phân biệt bún sạch, bún bẩn

Chuyên gia Vũ Thế Thành | 

Chuyên gia Vũ Thế Thành: Chỉ cần 1 chiếc đèn pin, có thể phân biệt bún sạch, bún bẩn

Tinopal không có trong danh mục phụ gia dùng trong thực phẩm. Sử dụng tinopal trong thực phẩm là vi phạm quy định an toàn thực phẩm.

LTS: Cuộc đối thoại với ông Vũ Thế Thành, Thạc sĩ Quản trị chất lượng, giảng viên an toàn thực phẩm của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủ sản Việt Nam (VASEP) sẽ giúp chúng ta hiểu rõ: Chất phụ gia trong bún nguy hại đến đâu và làm thế nào để phân biệt được bún sạch, bún bẩn?
Chuyên gia Vũ Thế Thành: Chỉ cần 1 chiếc đèn pin, có thể phân biệt bún sạch, bún bẩn - Ảnh 1.
Hỏi: Thưa ông, tôi sợ quá, tôi vừa đọc một bài báo giật cái title kinh hoàng: Bún đang giết dần giết mòn cơ thể bạn... Không biết thông tin này có xác thực không? Tôi sợ rằng nhiều người đọc xong sẽ không dám ăn bún nữa.
Chuyên gia Vũ Thế Thành: Báo nào mà ăn nói ác ôn vậy? Không có bún thì bỏ luôn bún riêu, bún bò, bún thang, bún ốc... à? Rồi chả cá Lã Vọng, chả giò nem rán, rựa mận… không có bún làm sao nuốt trôi. Chỉ có một vài lò bún làm bậy thì cơ quan hữu trách kiểm tra và phạt, chứ vơ đũa cả nắm cho cả làng bún như thế thì coi sao được!
Hỏi: Người ta nói trong bún có cho thêm chất tạo bóng…
Chuyên gia Vũ Thế Thành: Không phải chất tạo bóng, mà là chất làm trắng quang học, gọi chung là tinopal.
Hỏi: Nghe nói chất này làm bún… phát sáng?
Chuyên gia Vũ Thế Thành: Đúng, bởi vậy mới gọi tinopal là chất làm trắng quang học. 
Ánh sáng thấy được gồm 7 màu, đỏ cam vàng lục lam chàm tím. Bảy sắc cầu vồng đấy. Trộn bảy màu này lại với nhau thì ra ánh sáng trắng. Chất tinopal hấp thu ánh sáng tím và "ánh sáng" không thấy được ở cạnh đó (tia cực tím), rồi thì phóng ra ánh sánh xanh lơ. Màu xanh này phụ với màu vàng ngà làm ra màu trắng sáng.
Áo trắng mặc lâu thường hơi ngả vàng. Hồi xưa giặt áo xong, người ta nhúng áo trắng vào trong chậu nước, có thêm giấy tẩm màu xanh, làm áo trở nên trắng sáng như mới. Bây giờ, các nhà sản xuất cho thẳng tinopal và trong bột giặt. Chất tinopal biến áo ngả vàng thành trắng sáng, thực chất là đánh lừa thị giác, chứ cái áo vẫn còn nguyên màu vàng ngà, không làm mất được.
Chuyên gia Vũ Thế Thành: Chỉ cần 1 chiếc đèn pin, có thể phân biệt bún sạch, bún bẩn - Ảnh 2.
Hỏi: Người ta cho chất tinopal vào bún để làm trắng bún, phải không? Chất này tác hại với sức khỏe đến đâu?
Chuyên gia Vũ Thế Thành: Đúng rồi. Bún làm ra có màu hơi ngả vàng. Cho tinopal vào để làm trắng bún, trông cho đẹp mắt thôi, chứ bún vẫn còn màu ngả vàng.
Còn chất tinopal có hại cho sức khỏe không, câu này mới khó trả lời. Có cả gần trăm loại tinopal, và người ta chế ra tinopal dùng trong bột giặt để làm trắng áo, làm trắng trong kỹ nghệ giấy và vải sợi, và cả trong mỹ phẩm nữa. Thiên hạ dễ bị đánh lừa bởi cái đẹp, chứ đâu riêng gì bún.
Chế ra các loại tinopal là để dùng trong công nghiệp, chứ đâu có ai nghĩ đến dùng tinopal trong bún đâu. Mà không chỉ có bún, người ta còn dùng tinopal trong bánh cuốn, bánh hỏi, bánh canh, bánh ướt,…
Việt Nam mình sáng tạo quá mức, khoa học theo không kịp, nên chưa có nghiên cứu nào nói đến độc hại của tinopal đến sức khỏe con người theo đường ăn uống. Nghiên cứu ảnh hưởng của tinopal đến môi trường, và dị ứng trên da thì có.
Cần lưu ý rằng, tinopal, bất kể loại gì, đều không có trong danh mục phụ gia dùng trong thực phẩm, Việt nam cũng vậy, mà trên thế giới cũng thế. Sử dụng tinopal trong thực phẩm là vi phạm quy định an toàn thực phẩm.
Chuyên gia Vũ Thế Thành: Chỉ cần 1 chiếc đèn pin, có thể phân biệt bún sạch, bún bẩn - Ảnh 3.
Hỏi: Bún trên thị trường có chứa hàn the thật không, thưa ông?
Chuyên gia Vũ Thế Thành: Có, người ta thêm hàn the để bảo quản, vì bún dễ hư. 
Nhưng tôi cần nhấn mạnh, chỉ một số ít nơi làm bún, làm bánh canh... vi phạm thôi, và đó là việc của cơ quan hữu trách, chứ không thể nói tới bún là có hàn the.
Hàn the cũng là chất cấm dùng trong thực phẩm đấy nhé.
Hỏi: Làm thế nào để phân biệt được bún sạch, bún bẩn?
Chuyên gia Vũ Thế Thành: Bún bẩn do tinopal thì phát hiện được. Lấy cái đèn pin đa năng, loại đèn có thêm chức năng rọi để phân biệt tiền giả tiền thiệt. Đèn này có tia tử ngoại, rọi vào bún mà phát sáng là bún có xài tinopal.
Còn bún bẩn do hàn the thì phải đưa vào phòng thí nghiệm mới biết được. Dùng giấy thử không chính xác.
Hỏi: Tôi vẫn đọc ở đâu đó người ta nói rằng người bị dạ dày, bệnh tiêu hóa không nên ăn bún. Ở bài báo mà tôi nói trên kia còn cho rằng trẻ em, phụ nữ sau sinh, người ốm sốt cũng không nên ăn bún. Sự thật thì những người này có cần kiêng bún hay không?
Chuyên gia Vũ Thế Thành: Bị bệnh, uống thuốc kiêng cử ra sao thì đó là việc của bác sĩ, an toàn thực phẩm không xía vào được. Còn ốm sốt, cảm cúm loàng xoàng, với tôi, thì tôi phải ăn bún ăn phở vô tư, nhưng bún phải tươi một chút. Chứ ngày nào cũng cơm, nhìn thấy ớn!
theo Trí Thức Trẻ

Những bí ẩn không thể lý giải trong lăng mộ vua Càn Long

Lúc còn sống Càn Long là vị vua đa tài khiến nhiều người thán phục, khi mất đi ông lại để lại những câu chuyện kì bí cho hậu thế mà đến nay khoa học vẫn chưa thể lý giải được.

Vua Càn Long, lăng mộ, không thể lý giải,
Chân dung Hoàng đế Càn Long. (Ảnh: Wikipedia)
Càn Long – Vị hoàng đế vĩ đại của triều Thanh
Thanh Cao Tông sinh ngày 25/9/1711, tức năm Khang Hy thứ 50, mất ngày 7/2/1799, tức năm Gia Khánh thứ 4, niên hiệu Càn Long, là người con trai thứ 4 của Hoàng đế Ung Chính và là Hoàng đế thứ 6 của nhà Thanh.
Càn Long là hoàng đế có tuổi thọ lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc (88 tuổi), thời kỳ trị vì của Càn Long kéo dài hơn 60 năm từ 11/10/1736 đến 1/9/1795, và là thời cực thịnh về kinh tế cũng như quân sự của nhà Thanh.
Ông học theo cách thức cai trị của ông nội mình là Khang Hy hoàng đế, người mà ông rất ngưỡng mộ. Khi còn trẻ, Càn Long đã khiến vua Khang Hy ngạc nhiên về rất nhiều lĩnh vực, nhất là văn học nghệ thuật. Khang Hy cho rằng Càn Long có thể sẽ xứng đáng trở thành Hoàng đế kế vị nhà Thanh sau Ung Chính (phụ thân của Càn Long).
Có thể nói, Càn Long là một trong vị hoàng đế vĩ đại của triều Thanh. Ông tinh thông văn học, nghệ thuật và được coi là một nhà quân sự tài ba. Dưới sự trị vì của vua Càn Long, triều Thanh đã đạt đến giai đoạn hoàng kim của sự phát triển.
Vua Càn Long, lăng mộ, không thể lý giải,
Vua Càn Long thời trai trẻ. (Ảnh: Internet)
Lăng mộ Càn Long – Tuyệt mỹ mà bí ẩn khôn cùng
Khi hạ lệnh quân lính xây dựng khu lăng mộ cho mình vào năm 1752, Càn Long yêu cầu hết sức tỉ mỉ về các nét chạm trổ hoa văn bên trong lăng. Đến độ, các nhà khảo cổ phái công nhận “Những nét trạm trổ vô cùng tinh xảo, nét vẽ sống động, chân thực, bố cục chặt chẽ, nghệ thuật điêu khắc trong thời Càn Long đạt trình độ đáng kinh ngạc”.
Bên trong mộ của các vua chúa này được xây cất như sau:
Đường hầm dẫn vào những ngôi mộ của họ lát đá hoa trắng, xuyên qua bốn cái cổng được chạm trổ rất công phu bằng đá. Nơi để quan tài yên nghỉ của họ là một khuôn hình bát giác, trên vòm trần khắc chín con rồng bằng vàng lóng lánh. Khu vực yên nghỉ khá rộng, lớn bằng điện Trung Hoà trong Tử Cấm Thành.
Càn Long được chôn trong hai lần quan tài. Quan tài bên trong và bên ngoài được làm bằng một loại gỗ đặc biệt quý. Những báu vật trong hai ngôi mộ này gồm rất nhiều ngọc ngà châu báu cực kỳ quý giá và đắt tiền, ngoài ra còn có những hoạ phẩm, kiếm báu, sách quý, ngà voi và các tượng Phật. Các đồ quý làm bằng lụa và gấm thì chỉ một thời gian là bị mục rã.
Vua Càn Long, lăng mộ, không thể lý giải,
Những nét chạm khắc tỉ mỉ bên trong lăng mộ vua Càn Long. (Ảnh: Internet)
Nhưng điều khiến người ta kinh ngạc không phải sự xa hoa hoành tráng của Dụ lăng mà là những bí ẩn đến giờ vẫn chưa có lời giải đáp.
Quan tài tự di chuyển
Lần 1 là vào năm 1928, quân phiệt Tôn Điện Anh đã từng hạ lệnh cho đám quân lính tiến hành đào bới lăng tẩm của Từ Hy và Dụ Lăng của Càn Long. Trong địa cung của Dụ Lăng tổng cộng có lớp cửa đá vô cùng kiên cố. Ba lớp cửa trước bọn đạo mộ dễ dàng mở được nhưng đến lớp cửa đá thứ 4 không thể nào mở được, cuối cùng chúng phải dùng đến một lượng thuốc nổ có sức công phá lớn.
Điều khiến bọn họ cảm thấy vô cùng kinh ngạc và sợ hãi là trong địa cung tổng cộng có có 6 chiếc quan tài gồm của vua Càn Long, 2 vị hoàng hậu và 3 hoàng phi trong đó có đến 5 chiếc quan tài đều đặt ngay ngắn kiên cố trên thạch sàng (giường đá), chỉ duy nhất quan tài của vua Càn Long là “di chuyển” từ thạch sàng chắn ngang cửa đá.
Điều này khiến cho mọi người không thể giải thích bởi vì thi hài Càn Long được đặt trong hai lớp áo quan nên quan tài rất to và nặng, đồng thời được đặt trên giường đá. 4 góc của quan tài đều được móc chặt vào đá long sơn (được gọi là ca quan thạch). Đá Long sơn có hình vuông trên được khắc vân long, một tổ có 4 cặp, mỗi cặp nặng đến hàng trăm cân, giường đá và đá long sơn dùng hình thức tán đinh để gắn chặt với nhau.
Vua Càn Long, lăng mộ, không thể lý giải,
Bên trong lăng mộ vua Càn Long. (Ảnh: Internet)
Vì thế việc quan tài của Càn Long “tự dịch chuyển” xuống chắn cửa là điều không thể xảy ra. Có người cho rằng quan tài của Càn Long do nước ngấm vào địa cung và bị trôi ra, nhưng cách giải thích này không khả quan vì nước trong địa lăng rất tĩnh nên không thể tạo ra được sức mạnh công kích nào, không thể làm trôi được cỗ quan tài nặng như thế.
Lần 2, năm 1975, khi Cục Văn vật Quốc qua Trung Quốc bắt đầu tiến hành khai quật Dụ Lăng, sau 3 lớp cửa đá đầu tiên mở rất dễ dàng thì mọi người cũng không mở nổi cánh cửa thứ 4.
Cuối cùng các nhà khảo cổ đành phải dùng cách mở đỉnh lăng, và điều kinh ngạc tột độ là quan tài của hoàng đế Càn Long lại tiếp tục “tự di chuyển” từ giường đá xuống chặn ngang cửa giống như 60 năm về trước.
Cho đến nay khoa học vẫn chưa có lời giải thích hợp lý cho hiện tượng này. Có lẽ ở cõi vĩnh hằng vua Càn Long vẫn luôn tìm cách bảo vệ và không cho phép ai kinh động đến giấc ngủ thiên thu của 5 người phụ nữ mà ông rất yêu quý.
Theo Khoahoc.tv

HOÀNG TRẦN CƯƠNG VÀ "NGHỆ"... NGỮ

HOÀNG TRẦN CƯƠNG, NGÔN NGỮ QUÊ HƯƠNG

Hoàng Trần Cương
Một nông thôn Việt Nam đang tan rã.
Thơ cố gắng đi tìm những mảnh vỡ của chúng.
Trong tiếng nói thất lạc, nơi những đứa trẻ bên lề, thơ tìm lại không chỉ mảnh vỡ mà cội nguồn của chúng. Thơ đi tìm ý nghĩa, đối thoại, tra vấn, mạch nối kết. Như lời kêu gọi:
Lần đầu tiên cha nghe tiếng con thất lạc
Cha ơi cha
Con xin cha đừng bán đất
Rồi biết kiếm đâu ra nước giếng ngọt thế này
Nhưng thường thì Hoàng Trần Cương nhẹ nhàng hơn, anh chỉ tả lại, kể lại câu chuyện của mình:
Ngày tảo mộ cả làng dậy sớm
Ngạt ngào xôi nếp thơm
Mùi cỏ dại cay nồng
Mùi hương bay ríu giọng
Những chi tộc gần xa về hội ngộ
Mơ hồ phấn mưa bay
Mỗi lần đọc đoạn này tôi đều nhớ cảnh làng cũ của mình, không còn nữa. Tôi nghĩ, Trầm Tích của Hoàng Trần Cương là cố gắng đi ngược sự tan rã, là tiếng nói của trở lại, phân tích, cất giữ, chống lại lãng quên. Chống lại sự lưu manh hóa nông thôn.
Thơ anh là phối hợp của trường ca và trữ tình.
Trường ca, như một thể thơ, sau mấy mươi năm, vẫn còn lạ đối với nhiều người. Khởi đầu bởi các nhà thơ miền Bắc và trong chiến tranh. Đó là sự phối hợp giữa ít nhất ba truyền thống: thơ trữ tình, thơ chính trị, các trường ca tự sự như sử thi Tây Nguyên, trong bối cảnh đương đại. Thật ra phân biệt sử thi và trường ca là khó, tuy nhiên có thể cho rằng truyện kể và nhân vật anh hùng là hai đặc trưng cho sử thi truyền thống, trong khi trường ca hiện đại kết hợp các yếu tố trữ tình cá nhân, sự phá bỏ cốt truyện, đời thường hóa. Nếu ba khuynh hướng sau này được đẩy đi quá xa, ngoài tầm kiểm soát của tác giả, trường ca chỉ còn là bài thơ dài, ngụy trang như một thể loại riêng biệt.
Sợ con nít lằn lưng trên cái chõng đan bằng tre cật
Không biết ai đã luồn vào dưới lưng tôi một tấm mo nang
Cái mo cau mẹ lượm được ở cuối vườn từ năm ngoái
Đem vào giấu trong buồng và lấy đá dằn lên
Tôi mát lạnh trong hơi của đá
Nhắm mắt ngủ ngon lành
Một đoạn ngắn của trường ca mà đầy đủ như chuyện kể trọn vẹn. Trầm Tích có nhiều đoạn như thế, nhưng chúng nối mạch vào nhau liên tục không gián đoạn.
Trầm Tích mười chín chương, chương đầu là Nguồn Cội, chương cuối là Miền Trung, với dung lượng chia đều cân đối. Ra mắt từ 1989, giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam năm 2000. Hoàng Trần Cương còn viết những bài thơ ngắn, và sau Trầm Tích, những trường ca khác nữa, nhưng nhìn chung chúng chưa sánh được với đỉnh cao này.
Nhà thơ Hoàng Trần Cương
Nhà thơ Hoàng Trần Cương
Câu của anh “cấu trúc của làng” có thể dùng để mô tả khái quát tính chất không gian và cấu trúc của tập thơ. Ẩn dụ trung tâm là miền Trung, xứ Nghệ. Một cái làng. Làng là cấu trúc của gia đình, huyết thống, đất nước. Làng là cấu trúc của tình yêu. Trầm Tích tràn ngập những câu thơ đẹp. Nhan đề ẩn chứa sức mạnh của lối chọn chữ đặc biệt của tác giả. Có lẽ anh muốn nói đến các vỉa tầng địa chất, đá trầm tích, chứa đựng hóa thạch. Nơi cất giữ cội nguồn văn hóa. Khó có một nhan đề nào đúng hơn. Thể trường ca cổ điển, như dùng để kể các sự tích anh hùng, đã được làm mới lại bởi các nhà thơ Việt Nam trong mấy mươi năm nay, với những yếu tố của nghệ thuật hiện đại. Nhiệm vụ của tác giả trường ca là tìm trong ngôn ngữ hôm nay những yếu tố của sự thay đổi của đời sống một cách chủ động, tức là việc tạo lập thế giới mới. Tôi nghĩ, đây là những sáng tạo: kết hợp tính bi hùng, tính trữ tình, chất tự sự, tính triết lý, và cấu trúc chương hồi. Ngay khi nhà thơ phá vỡ quy ước cổ điển, thì trường ca vẫn là câu chuyện kể và vẫn phải kể với đám đông: nó phải lên giọng.
Những gì đã có
Cố đừng để mất
Sự phân chia trường ca và thơ ngắn chỉ là ước lệ, có ích cho một số phân tích, nhưng sự phân chia ấy có thể giả tạo, vì mối quan hệ giữa chúng là phức hợp. Sự nhấn mạnh quá đáng vào các định nghĩa thể loại sẽ làm hại sự thưởng thức đối với tác phẩm vượt ranh giới. Thơ Hoàng Trần Cương mô tả trung thực những hoàn cảnh khốn khó của con người trong môi trường khắc nghiệt, thậm chí tàn bạo và thù địch, một hoàn cảnh xã hội khắc nghiệt không kém, với những bất công và tội ác đã được nhiều người nói tới hay vẫn còn bị khuất lấp:
Mẹ ơi
Tận bây giờ con vẫn còn hoảng hốt
Cái buổi chiều những tưởng cha đi
Bỗng dưng trời đất thâm sì
Lốc rừng dựng đứng
Giông bão ùa về lừng lững
Mây đặc trời
Tối bưng
Gió chém
Mưa đâm
Sợi dây trói nới thầm
Từ tay cha rụng xuống
Mẹ bảo: May mà trời có mắt
Cha không nói gì
Người lẳng lặng cầm sào đi xốc lại cây rơm
Những bất hạnh này, dù được giải thích hay chỉ được biện hộ, đã nhận ra khuôn mặt người làm chứng của chúng giữa đám đông: thơ ca (*). Những câu thơ chua chát và ngọt ngào của Trầm Tích nói về lòng dũng cảm, sự hy sinh, tha thứ và bao dung, nói về chiến tranh, những mất mát, nói về hòa bình, với niềm vui và thất vọng, nhưng cao hơn hết, thơ nói về lòng tri ân trước cuộc đời, trước đất trời, đất nước. Vì anh có câu thơ “dâng tặng mùa màng”, nên tôi nghĩ, Trầm Tích như một lời dâng tặng. Một nghi lễ. Hãy nghe anh kể chuyện khởi đầu:
Mẹ tôi đẻ rơi tôi bên cối giã gạo
Tôi lấm láp đáp mình vào đất
Gió Lào mặc cho tôi chiếc áo màu nâu
Cha đi vắng
Giọng thản nhiên, mộc mạc, nhưng cách dùng chữ của anh kỹ. Chỉ bằng một khởi đầu thế thôi, người ta có thể biết bài thơ sẽ đi xa, bao quát: người mẹ nông dân tần tảo làm việc đến lúc đẻ bên cối giã gạo, đứa con ra đời lăn mình vào đất, đứng lên từ đó, giữa đất và gió Lào, màu da sạm nâu, nhà chỉ hai mẹ con.
Những người đàn ông miền Trung thường đi vắng
Vài năm tạt qua nhà một lần
Để lại đứa con
Là một nhà thơ hiện thực, Hoàng Trần Cương nắm chắc kỹ thuật mô tả sự vật, nhưng không ngừng tìm cách mở rộng các ứng dụng của chúng, đặc biệt cách chọn chữ, ngắt câu, thay đổi giọng điệu ở các khúc quanh, từ trần trụi, gay gắt, đến nhẹ nhàng buông thả. Một nhà thơ non tay sẽ dừng lại ở ba câu trên. Nhưng câu cuối sau đây mới đúng hồn người Việt nam.
Để lại mùi rạ thơm trên mái nhà vừa dọiHoàng Trần Cương sử dụng một số thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Các câu hầu hết ngắn, số chữ thay đổi, các chữ được xếp gần như chen khít vào nhau, như bức tường toàn những tảng đá ghép lại không có vôi vữa, mà vẫn chặt chẽ bền vững.
Dằng dặc dải làng quê thưa thắt
Những vạt lúa đỏ đuôi luội mình đổ rạp
Chỏng chơ nồi cơm ngày đói khát
Đôi khi cũng với một ngôn ngữ chặt chẽ như vậy, anh học được cách tách chúng ra, buông thả, và do đó làm cho câu thơ trở nên nhẹ nhõm, trở nên man mác bồi hồi, chỉ trong vài chữ ngắn.
Buồn có mang tình sông 
Lở bồi tức tưởi
Niềm vui đỏ ớt
Cay mờ tháng năm 
Hoàng Trần Cương có những câu cuối mênh mông, giàu tưởng tượng, nâng cả một đoạn thơ lên như đoạn vừa rồi. Khó viết (original). Trong khi những câu được nhiều người khen, thật ra là những câu nhiều tu từ, và có lẽ dễ lập lại hơn:
Miền Trung mỏng và sắc như cật nứa
Chuốt ruột mình thành dải lụa sông Lam
Là ví von. Anh rất tài tình khi mô tả một cảnh sinh hoạt cụ thể :
Đọi cà pháo chất cao có ngọn
Rồi khoai lang ngọt bùi
Đêm quê kiểng lành hiền
Chuyện trò như ngô nổ
Những khát vọng niêm phong vào Trầm Tích
Cất giữ sơ sài trong bóng trăng non
Mặc dù đôi khi gượng ép:
Những con cá ươn trên thúng mẹt chợ quêTon tót nhảy khi nghe hơi tiền mới
Hình ảnh đẹp nhưng chưa hoàn toàn thuyết phục:
Trăng đầu tháng đỏ ngầuNhư cái bã trầu ai nhè ngang đỉnh núi
Bên dưới một vẻ ngoài chân quê mộc mạc, thô ráp, thơ anh buồn se sắt, có nhiều suy nghĩ bất ngờ, vượt lên so với nhiều nhà thơ cùng thời, đi hẳn ra ngoài lề thói cũ, với sự nghi ngờ triết học. Đó là khuynh hướng hiện đại (**). Nhưng khác với hiện đại Tây phương, anh không bi quan; mô tả chiến tranh nhưng ít lên án; mô tả sự khắc nghiệt tàn bạo của con người hay thiên nhiên nhưng không kèm lòng oán giận.
Ôi! Quê hương
Cái đòn gánh trĩu hai đầu đất nước
Gió bão thù chi với mảnh đất này
Nối đuôi nhau xếp hàng ngang đen sì ngoài biển
Than mà không trách. Cũng một giọng ấy anh đã dùng khi nói về sự kiện khác, bạn bè, chiến tranh, xã hội. Dung lượng lớn của một trường ca cho phép anh kể nhiều chi tiết, thậm chí có những ý trùng lặp, những đoạn thừa ra. Có những chương thật hay, xuất sắc, như Nguồn cội, Miền Trung, Đá đỏ, trung bình như chương Cá gỗ, yếu và loãng hơn như Vốn và lãi, nhưng ngay cả ở những chương chưa xuất sắc, vẫn có những câu thơ làm người đọc dừng lại.
Trầm Tích có cấu trúc cân đối, nhiều chuỗi liên tưởng song song, không phải chỉ dùng làm cho câu thơ trở nên bóng bẩy, như các danh từ đi với danh từ, động từ đi với động từ, mà tạo ra sự hợp lý cho một ý tưởng. Đến lượt chúng các ý tưởng trong cả một đoạn dài cũng phải phù hợp với cấu trúc song song.
May cho làng còn lại cây đa
Cây đa đề không ai rõ tuổi
Trẻ con trốn học chui vào hốc đa
Sáo đen uống nước chui vào hốc đa
Quạ khoang rình mồi chui vào hốc đa
Những câu chuyện của bà
Từ cây đa bươn ra
Nhờ cấu trúc song song này mà các ý tưởng trong toàn bài, các sự kiện được mô tả, trong khi lập lại về tu từ, thì lại không lập lại về ý tưởng và không gây ra nhàm chán. Nếu cứ thế đi xa hơn nữa, mà điều này cũng đôi khi xảy ra trong Trầm Tích, các câu thơ về sau sẽ đuối dần, như một người đánh đu quá lâu trên rễ đa, thế nào cũng rớt:
Những niềm tin của con
Từ cây đa buông rễ
Bóng đa là nơi giấm những vui buồn thành của ăn của để
Bóng đa là phong vũ biểu của làng
Bóng đa tàng hình con ma cố Bợ
Vân vân. Mặc dù sử dụng thể tự do, các câu dài ngắn thường xuyên thay đổi, chất giọng của anh có nhạc điệu riêng, thống nhất từ đầu đến cuối. Anh nói về quê hương, nhưng đó không phải thơ hoài niệm. Một thế hệ các nhà thơ gần gũi Hoàng Trần Cương cũng không có khuynh hướng hoài niệm. Sự hiện diện của quá khứ trong khi không phải là tính chất quan trọng nhất thì cũng không phải là sự trang sức. Sự tồn tại của chúng là hiển nhiên và đơn giản, cấu thành một phần của đời sống hôm nay. Sự tích hợp hiện tại và quá khứ là thay thế cho nỗi bi quan, sự lo âu, sự thất lạc. Hoàng Trần Cương không dựa vào các thể thơ cố định, nhưng những câu thơ của anh, trên trang giấy, tạo nên một hình thức, một dạng thể rõ ràng. Thơ anh không những chỉ được nghe bằng tai mà còn được đọc bằng mắt. Và ngược lại. Biểu tượng của tình yêu quê hương trở thành tia chớp, chúng giữ lại hơi nước, cơn bão, sức mạnh của ngôn ngữ Hoàng Trần Cương không những được thể hiện mà còn được nén lại, giữ lấy, chờ đợi. Cảm giác như có một lực hiện diện trong những câu thơ của anh, một lực đẩy, sức hút, vật chất (***).
mảnh đất nghèo
mồng tơi không kịp rớt
chỉ gió bão là tốt tươi như cỏ
Câu thứ hai làm tôi phân vân. Sự kếp hợp giữa hài hước và trữ tình là việc khó của các nhà thơ Việt Nam hôm nay. Nhưng Hoàng Trần Cương nhanh chóng vượt qua cái khó ấy: trong một kho từ vựng hạn chế, anh có một vốn suy tư rộng lớn, vạm vỡ chờ đợi. Tôi ví dụ, anh có thể triết lý mà không rơi vào bẫy vụn vặt:
Không gian mênh mông
Đầy giới hạn
Thời gian vô tận
Mãi long đong
Ngửa mặt va ngày
Mở mắt vấp đêm
Ngã ba ngã tư
Đèn vàng đèn đỏ
Đi khó
Về cũng khó
Lối trước ngõ sau
Nhan nhản lõm lồi
Sắp đặt đời mình đâu chỉ tự mình thôi
Nhân nói về từ vựng, chúng ta có thể thấy ngôn ngữ Trầm Tích có những đặc điểm sau:
– Nhiều từ địa phương: mặn và khắn, thâm sì, dọi…
– Những từ phổ thông nhưng dùng nhiều ở một địa phương: mùi rạ thơm, khét…
– Nhiều tính từ. Mục đích của chúng là làm thay đổi nghĩa, làm tăng cường:
Mùi cỏ còn đắng nghét đến hôm nay
Mùi cỏ dẫn con vào năm tháng thơm lành
Mùi cỏ mặn và khắn như lông bò tẩm nắng
Mùi cỏ khét dây trói tay cha
Trong bốn câu thơ có năm tính từ. Đắng thì đắng nghét, thơm thì thơm lành.
– Dùng các chữ lấp láy: lục đục, hì hục, mướt mịn, mượt mà…
– Dùng nhiều động từ hoặc động từ kèm theo trạng từ: đứng lì, dong mưa, trào sặc sụa, gió chém, mưa đâm…
– Phương pháp nhân cách hóa dày đặc. Các sự vật đều như có hồn, chia sẻ đời sống với con người:
Mưa giờ ngọ chưa qua gió giờ mùi đã đến
Cay đắng lắng vào trái ớt lúc còn xanh
Đất vắt kiệt mình nước mọng múi chanh
Các phép so sánh với tần số cao:
Ngày xưa lúa tự bò về nhà
Hạt to như bắp chuối
Khi chưa bị người ta xua đuổi
Nắng vàng mơ từ mờ sớm đến chiều hôm
Câu ví dặm gầy nhom thì thào như người mới ốm
Tuy vậy vẫn có những phép nhân cách hóa vội vàng, chưa thuyết phục lắm: 
Một sáng quân thù ập đến
Đã thấy tre chống nạnh đứng trước thềm
Làm thế nào để biết một phương pháp nhân cách hóa là hợp lý và thuyết phục, hay ngược lại? Ẩn dụ và nhân cách hóa là sự chuyển dịch từ một sự vật này đến một sự vật khác, giữa chúng là một khoảng cách không được quá gần và không được quá xa. Quá gần thì nhàm chán, quen thuộc, quá xa thì trở nên gượng gạo, vì giữa chúng không có liên hệ nào. Vậy, phép tu từ của Hoàng Trần Cương khó nhọc và tài hoa. Không hiểu sao, tôi vẫn thích những câu mộc mạc này hơn:
Anh sẽ về quê kiểng 
Nằm xoài trên cỏ non
Mặt không cần úp nón
Nhấm ngọn mưa đầu nguồn 
Những đoạn thơ như thế đều có thể đi lướt qua bên mình bạn, xúc động đến nỗi một vài chữ dù chưa thích đáng, vẫn không cản được cái momentum của nhiều dòng. Sự suy nghĩ dân quê, những lề thói cũ kỹ ảnh hưởng trầm trọng đến sự tiến hóa của dân tộc, về hướng dân chủ và văn minh, những lề thói ấy cũng được bộc lộ trong nhiều câu, có thể vô thức:
Đói cơm còn chịu được
Đói chữ thì khổ to
Trong làng người già bảo
Phải ra thị thành thôi
Cái học hiện nay ở nước ta vẫn là cái học từ chương, toàn bộ là dẫn đến làm giàu hay làm quan. Ở đây còn có truyền thống bỏ làng ra đi, tìm tương lai ở thành thị: đầu mối của sự hoang tàn trong khi nông thôn là cái nôi đạo đức, văn hóa. Không phải chỉ trong chiến tranh mà phẩm giá con người được thử thách; chính đời sống dân sự thời bình mới là phép thử hiệu nghiệm nhất: những con phượng hoàng chiến tranh gãy cánh.
Cho con biết cười biết khóc
Biết yêu người mình yêu như chính yêu mình
Biết bạn bè không có nhiều lắm đâu dẫu mặt đất ngày càng đông chật

Khác với thơ, trường ca viết cho người đọc, hướng tới người đọc. Nhưng độc giả của anh ở đâu? Điều cốt lõi có lẽ là yếu tố nhân vật và tính chất đa nhân vật. Vì sử dụng nhiều nhân vật, nhà thơ cũng dùng phương pháp mặt nạ. Một trường ca có lẽ cần tránh các khuyết điểm: quá dài một cách không cần thiết, quá nặng về lời kể đơn tuyến và về cái tôi trữ tình của tác giả. Sự kể chuyện cần phải có nhiều giọng, có tính đối thoại, cần tránh tính văn xuôi được vần hóa, biến thành một bài thơ tự bộc lộ như thi hóa các hồi ký. Tuy nhiên nếu thành công, trường ca hơn hẳn các loại thơ ngắn vì tạo dung lượng lớn, sự tiếp xúc thường xuyên, tính chất huy động, phát hiện cao; khả năng làm thay đổi suy nghĩ và tình cảm của độc giả là lớn. Trường ca phải nói được sự thay đổi của một nhân vật, bộc lộ những điểm yếu và điểm mạnh của nhân vật ấy, làm cho người đọc hóa thân thành nhân vật. Đọc một trường ca xong người đọc thấy xứng đáng với thời gian mình bỏ ra, và họ sẽ đọc lại. Trong khi thơ trữ tình Việt Nam đang vận động nhanh về phía chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại, thì trường ca di chuyển chậm: cấu trúc, sự cân bằng, truyền thống, ca ngợi cái cao cả và vững bền, tính cách dân tộc. Tháng Tư năm 2008 trên căn gác của nhà thơ Hoàng Cầm, tôi đã được nghe tác giả đọc một trích đoạn của Trầm Tích. Lúc đó anh hơi say, sau một bữa uống ngoài trời nóng nực, nhưng vẫn minh mẫn lạ lùng. Anh thuộc hết các đoạn thơ. Tôi ngạc nhiên về một thứ ngôn ngữ chưa hề nghe, đậm đặc, giàu có, tha thiết.
Nếu so với trường ca của người cùng thế hệ và hoàn cảnh lính chiến, sẽ thấy Hoàng Trần Cương ít nhắc đến chiến tranh, ít nhắc đến chi tiết cụ thể của cuộc binh đao. Anh không thiên về việc sử dụng bút pháp anh hùng ca. Phong cách của Hoàng Trần Cương rõ ràng khác biệt, cách dùng chữ của anh nặng tính khách quan, nhưng đôi khi lập đi lập lại cùng một giọng điệu, đôi khi khá cũ. Điều này làm anh vừa khác so với người khác vừa hơi có chút quá đà, nặng tính chất địa phương. Mối quan hệ giữa một bộ phận và cái phổ quát, giữa tính riêng tư và khả năng chia sẻ, là mối quan hệ mà tất cả những người viết đều phải giải quyết.
Mẹ tôi đẻ rơi tôi bên cối giã gạo
Rất riêng mà vẫn có tính lịch sử.
Tính bi kịch trong trường ca: lúc nào thì bi kịch hóa trở thành một thủ pháp nghệ thuật đắc thế, lúc nào thì không. Anh viết về chiến tranh mà như không phải về chiến tranh, thật ra là về tình mẫu tử trong chiến tranh:
Đêm Trường Sơn nhập nhoà pháo sáng
Con máy mắt liên hồi
Chắc mẹ thầm nhắc gọi
Xin mẹ đừng lang thang ra ngoài ngõ
Đừng tựa lưng thêm vào nơi mẹ đứng chờ con
Đó là giá trị cộng đồng khi một nhà thơ nói về cá nhân. Trầm Tích là thơ tâm linh, lễ dâng hiến. Là lời hát tặng làng xưa, kinh cầu, tiếng sóng dòng sông, lời ca ngợi hòa bình, mồ hôi của đất, muối của cánh đồng, ý chí của cỏ cây. Khả năng quan sát đặc biệt cũng dễ nhận ra:
Những vạt lúa đỏ đuôi luội mình đổ rạp
Chỏng chơ nồi cơm ngày đói khát
Sự phức hợp về ngữ pháp của một câu không phải là sự phong phú của đời sống. Khả năng quan sát mới là khởi điểm của tưởng tượng, của chiều sâu suy tư, vì vậy suy tư của tác giả, những ý tưởng, bắt sâu trong đời sống, có sức thuyết phục hơn cả.
Trong trường ca, cần thấy thủ pháp đổi giọng của người kể chuyện là cần thiết.
Em là cơn mưa
Vỗ về nắng hạn
Xanh như tán lá
Cần phân biệt giữa một bên là việc làm chứng, thơ như một nhân chứng, và một bên là mang lại hiểu biết, tin tức, về một thời đại, một vùng đất. Vào lúc này, sự tan rã của văn hóa nông thôn, và tất nhiên cả văn hoá thành thị, mà chúng ta tạm thời không đề cập ở đây, chính sự hỗn loạn này là động lực sâu thẳm của thơ, kẻ đi tìm diện mạo đích thực của tâm hồn. Trầm tích của Hoàng Trần Cương không phải là những kết tụ theo thời gian một cách thụ động, không phải hoài niệm của người lớn tuổi đối với tuổi thơ mà là vận động có ý thức, là tình yêu được cấu trúc như một ngôn ngữ. Trầm tích ấy của anh chính là thông điệp, là lời kêu gọi đối với con người: trung thành, giữ lại cái chúng ta đang mất, giữ lấy điều chúng ta đang đập vỡ. Có một trạng thái cân bằng thường xuyên biến đổi giữa hoàn tất và chưa xong, giữa phá hủy và sáng tạo, giữa tự bộc lộ bản thân và mô tả khách quan đời sống, sự cân bằng ấy làm nên sức mạnh của Trầm Tích.
Với Hoàng Trần Cương, ngôn ngữ là quê hương. Không những thế, ngôn ngữ và quê hương là một. Một vật thể, một thực hữu, cần được giữ gìn nguyên vẹn.
Đối với thực hữu ấy, thơ trữ tình là ký ức, trường ca là ký ức tập thể.
(trong loạt bài Đọc Thơ)

(Nguồn: http://nguyentrongtao.info/2017/03/06/hoang-tran-cuong-ngon-ngu-que-huong/ )
Chú thích:
(*) Trần Vũ Long – “Người thơ trầm tích”:
“Vào một buổi trưa, cậu bé học vỡ lòng hớn hở chạy về thì thấy nhà cửa tan hoang rồi bị niêm phong lại. Mấy mẹ con bà cháu bị dân quân đẩy ra ngoài đồng, sống chết mặc bay. Cay đắng hơn, người cha của ông là một đảng viên từ năm 46, đang là Chánh văn phòng Uỷ ban kháng chiến tỉnh Nghệ An bị quy là địa chủ đầu sỏ và bị dẫn ra hành hình ngay trong chiều hôm ấy. Tất cả mấy mẹ con bà cháu cũng bị lùa ra để chứng kiến cảnh tượng ghê rợn đó. Trong trí nhớ của cậu bé Hoàng Trần Cương khi đó như in cảnh sáu dân quân cầm súng trường đang chuẩn bị giương lên, mấy mẹ con bà cháu thì sợ sệt rúm ró vào nhau sau vành móng ngựa kết bằng dây chuối. May thay, khi mà cha ông đã bị trói vào cột, giờ hành hình sắp đến, trời bỗng nổi trận mưa giông, tất cả dân làng bỏ chạy tán loạn. Pháp trường vắng hoe, chợt người đội trưởng đội hành hình hét lớn: “Nỏ ai xem thì bắn mần chi”. Vậy là buổi hành hình bị hoãn lại sang ngày hôm sau. Nhưng, ngay buổi tối hôm đó, có lệnh sửa sai, một chiếc xe ôtô đít vuông đã mời bố ông lên xe rồi đưa ra Vinh. Mấy tháng sau gia đình mới được biết bố ông được đưa ra Hà Nội công tác. Trong khoảng thời gian đó mấy mẹ con bà cháu vẫn sống trong một túp lều lụp sụp giữa đồng không mông quạnh, đi mót khoai, mót lạc, mò cua bắt ốc, làm thuê cuốc mướn để sinh sống.”
(http://trannhuong.net/tin-tuc-15698/nguoi-tho-tram-tich.vhtm)
(**) Czeslaw Milosz: “when poets discover that their words refer only to other words and not to reality which must be described as faithfully as possible, they despair. This is probably one cause for modern poetry’ s somber tone”.
(Stephen Dunn, Walking light, Norton, 1993, p.15)
(***) Có lẽ vì vậy mà Nguyễn Trọng Tạo cho rằng tác giả có một thi pháp động. Xem thêm: Nguyễn Trọng Tạo: Thi pháp đặc sắc của Trầm Tích (https://hoangtrancuong.wordpress.com/2009/07/06/thi-phap-d%e1%ba%b7c-s%e1%ba%afc-c%e1%bb%a7a-tr%e1%ba%a7m-tich/)