Thứ Hai, 13 tháng 3, 2017

Lý Quang Diệu viết về xã hội và kinh tế Trung Quốc

beijing-china-language-society-main

Vào mùa thu năm 1989, ngay sau biến cố Thiên An Môn, Tiền Ninh (Qian Ning), con trai của cựu Phó thủ tướng Tiền Kỳ Tham (Qian Qichen), đạt được học bổng theo học tại Đại học Michigan. Trước khi tới Mỹ, anh này đang ở độ tuổi 30 và làm việc cho tờ Nhân dân nhật báo (People’s Daily). Một vài năm sau, anh ta viết một cuốn sách có tựa đề “Việc học ở nước Mỹ” (Studying in America) và được cho phép xuất bản tại Trung Quốc. Tiền Ninh xuất thân từ một gia đình có truyền thống cộng sản, nhưng những gì được viết trong cuốn sách của anh lại khá nổi loạn.

Tại thành phố Ann Arbor, Michigan, anh ta nhận ra rằng cuộc sống còn có cả những bữa tiệc, những buổi nướng thịt barbecue và những tình bạn tuyệt vời, chứ không chỉ là sự tự phê bình căng thẳng và đấu đá chính trị ở Bắc Kinh. Trong một đoạn văn, anh viết rằng những người vợ đã theo chân chồng đến Mỹ sẽ không còn là những người phụ nữ Trung Quốc điển hình khi trở về quê hương. Họ đã thấy cơ hội được sống một lối sống khác. Đó là cách Tiền Ninh gián tiếp thổ lộ rằng anh đã thay đổi cách nhìn của mình về những điều khả thi ở xã hội Trung Quốc. Đây là một nước Trung Quốc mới, với vô số kênh tương tác với thế giới bên ngoài.

Từ từ nhưng chắc chắn, quá trình mở cửa của Trung Quốc đang thay đổi diện mạo của xã hội nước này. Khi tôi lần đầu đến thăm Trung Quốc vào năm 1976, tôi thấy một xã hội khép kín và cứng nhắc. Những người dân Trung Quốc trên đường phố nhìn hao hao nhau trong những bộ cánh xanh hoặc đen. Mặc dù không phải trong kỳ nghỉ, họ vẫn cử một nhóm đông các em học sinh đến để hát chào đón tôi: “Huan ying, huan ying! Re he huan ying” (Hoan nghênh, hoan nghênh! Nhiệt liệt hoan nghênh!). Tôi thầm nghĩ: “Chúng đáng lẽ nên ở trường học, chứ không nên phí phạm thời gian đi từ trường tới sân bay, rồi lại về trường học, như thế mất nguyên cả một ngày học.” Có một sự cứng nhắc nhất định ở hệ thống này. Họ sẽ chào đón một vị khách và cố gắng gây ấn tượng với vị khách này bằng sự tiếp đón nồng ấm và hiếu khách, cùng lúc với cả những con số và quy mô hoành tráng cùng sự đồng bộ. Tôi nghĩ tình trạng này đã qua rồi. Họ biết rằng các vị khách không bị ấn tượng bởi những thứ này nữa. Những bộ đồng phục xanh đen cũng không còn. Bây giờ bạn có thể nhìn thấy đủ thứ màu sắc trên đường phố. Các thương hiệu cao cấp của phương Tây nhận thấy Trung Quốc là một thị trường triển vọng. Năm 2009, Trung Quốc thế chỗ Mỹ để trở thành thị trường tiêu thụ hàng hóa xa xỉ lớn thứ hai trên thế giới, đứng sau mỗi Nhật Bản. Văn hóa tặng quà đem lại nguồn nhu cầu đặc biệt về đồng hồ và đồ làm từ da cao cấp. Mercedes-Benz và BMW tăng gấp đôi doanh số bán hàng ở thị trường Trung Quốc trong hai năm qua, ngay cả khi đơn đặt hàng ở các nước phát triển đã chững lại. Tầng lớp trung lưu ở nước này hiện tại đang theo đuổi sự chăm sóc vẻ ngoài, những bộ cánh lộng lẫy, và một cuộc sống tiện nghi. Họ cho rằng cách sống quá đơn giản không thể tạo nên một xã hội hạnh phúc.

Cũng như Tiền Ninh, lớp trẻ Trung Quốc hiện nay sống trong một ngôi làng toàn cầu. Mọi người di chuyển khắp nơi: người Trung Quốc tới Mỹ và châu Âu, và người Mỹ và người châu Âu lại tới Trung Quốc. Ngay cả nếu họ không có cơ hội học tập tại Michigan, sự tiếp cận với internet, phim truyện và sách báo nước ngoài cũng mở ra một cánh cửa đến với thế giới mà thế hệ của một vài thập niên trước chỉ có thể mơ đến. Tầm nhìn của họ được rộng mở. Quan điểm của họ về vị trí bản thân – cũng như vị thế của đất nước Trung Quốc – sẽ thay đổi. Một thế hệ mới được sinh ra và lớn lên sau thời kì mở cửa một ngày nào đó sẽ làm chủ đất nước. Họ sẽ làm được như vậy mà không phải chịu gánh nặng của những ký ức về quá khứ rối ren của Trung Quốc. Một nước Trung Quốc mà họ biết qua những trải nghiệm thường ngày – chứ không phải từ cuốn sách lịch sử – là một Trung Quốc mạnh mẽ hơn bao giờ hết kể từ cuộc Chiến tranh thuốc phiện, và đang trở nên mạnh mẽ hơn từng ngày.

Điều này có ý nghĩa gì đối với Trung Quốc của ngày mai? Liệu trong vòng 30 năm tới chúng ta có thể thấy một Trung Quốc quyết liệt hơn và dân tộc chủ nghĩa hơn nữa? Có thể lắm chứ. Tôi thấy chủ nghĩa dân tộc lớn dần chính là giai đoạn đầu tiên của đất nước Trung Quốc mới này, bởi vì người Trung Quốc cảm thấy như họ có thêm sức mạnh. Nhưng khi họ bắt đầu nhận thấy khả năng của mình chỉ có hạn, họ sẽ có một khoảng ngừng và tự suy ngẫm. Họ sẽ tiết chế phô trương sức mạnh cứng, bởi họ nhận ra rằng làm vậy chẳng thể làm người Mỹ rời bỏ khu vực. Và họ cũng sẽ nhận ra nếu họ càng áp đặt quan điểm của mình lên các nước láng giềng nhỏ hơn, thì những nước này càng xích lại gần Mỹ và đề nghị cung cấp các cơ sở để tàu sân bay Mỹ qua lại – như một sự bảo đảm cho chính mình.

Một vài năm trước, một vị lãnh đạo người Trung Quốc ở tuổi 70 đã hỏi tôi: “Ông có tin vào lập trường của chúng tôi về trỗi dậy hòa bình?” Tôi trả lời: “Tôi tin – nhưng tôi có lời cảnh báo. Thế hệ của ông đã trải qua cuộc chiến chống lại người Nhật, cuộc nội chiến, rồi Đại nhảy vọt, Cách mạng văn hóa, vụ Bè lũ bốn tên, và giờ là chính sách Mở cửa. Ông biết rằng sẽ có nhiều cạm bẫy, và rằng để Trung Quốc có thể leo lên từng nấc thang mà không gặp rủi ro, ông cần sự ổn định từ bên trong, và hòa bình ở bên ngoài. Nhưng ông đang khắc sâu vào đầu lớp trẻ sự kiêu hãnh và lòng yêu nước quá lớn về một Trung Quốc đang trên đà hồi phục. Lớn đến mức khi họ bắt đầu biểu tình phản đối người Nhật, họ trở nên bạo lực. Và khi con trai tôi, thủ tướng Singapore, đến thăm Đài Bắc vào năm 2004, nó và Singapore bị công kích trên các phòng chat trên mạng internet của Trung Quốc, và bị gọi là kẻ vô ơn và phản bội. Quả là căng thẳng.” Vị lãnh đạo Trung Quốc nói rằng họ sẽ đảm bảo cho những người trẻ hiểu rõ điều này.

Tôi hy vọng là họ làm vậy. Một lúc nào đó trong tương lai, một thế hệ [người Trung Quốc – ND] có thể tin rằng mình đã chạm đến đỉnh trước khi họ thực sự như vậy. Điều đó thật buồn, và góp phần gây bất ổn cho khu vực. Trên thực tế, chỉ riêng việc chèo lái sự nổi lên của Trung Quốc là mục đích đủ để tận dụng được hết tài năng và đam mê của thế hệ này.

Qua thời gian, tôi tin chắc rằng Trung Quốc sẽ có khả năng nâng cao chuỗi giá trị và cạnh tranh với các nước phát triển trong lĩnh vực công nghệ và chế tạo tiên tiến. Hiện tại họ đang cố gắng sánh ngang Mỹ ở những phân khúc cao nhất – không gian và công nghệ quốc phòng. Năng lượng của họ đang tập trung vào các sức mạnh nền tảng chiến lược ở bình diện toàn cầu. Rồi sau đó Trung Quốc có thể dần đuổi kịp [Mỹ – ND] trong lĩnh vực sản phẩm tiêu dùng, tuy nhiên sản phẩm tiêu dùng hiện đang đứng chót về quy mô. Đó là bởi dù bạn có thể rất giàu có, nhưng nếu GPS hay tên lửa của bạn chẳng hạn phải phụ thuộc vào Mỹ, bạn vẫn có thể bị vượt mặt. Nghiên cứu vũ trụ và hệ thống GPS không phải là nguồn tăng trưởng kinh tế, nhưng chúng có thể đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế của họ không dễ bị quấy nhiễu bởi các hành động quân sự.

Chẳng có gì là bất biến trong quá trình phát triển của bất cứ quốc gia nào. Trung Quốc có thể tiếp tục tăng trưởng kinh tế trong vài thập niên tới nếu không có gì làm chệch đường. Nhưng có rất nhiều thách thức nghiêm trọng trong nước mà chính phủ Trung Quốc sẽ phải dành một khối lượng đáng kể năng lượng, thời gian và nguồn lực để giải quyết. Nếu bất cứ thách thức nào vượt khỏi tầm kiểm soát, suy thoái kinh tế hoặc bạo loạn xã hội nghiêm trọng có thể xảy ra. Ngay cả khi duy trì được sự ổn định thì những yếu tố hạn chế vẫn tồn tại. Chẳng hạn như tại sao iPhone không được phát minh ở Trung Quốc? Luật sở hữu trí tuệ và hệ thống doanh nghiệp hiện nay không tạo đủ động lực để giải phóng sức mạnh sáng tạo của người Trung Quốc mà chúng ta đã được chứng kiến ở trong lịch sử. Nhưng tôi khá lạc quan rằng lãnh đạo Trung Quốc hiện có đủ ý chí và khả năng để giải quyết những thách thức trong nước này một cách hợp lý. Trong hơn ba thập kỷ rưỡi tiến hành “gai ge kai fang” (cải cách khai phóng), hay là cải cách và mở cửa, Trung Quốc đã chứng minh rằng nước này có khả năng xem xét lại những chính sách sai lầm và kiểm soát được tình hình trước khi những chính sách này gây ra vấn đề lớn hơn.

Có một thời kỳ những thành phố liền kề sao chép lại rất nhiều dự án cơ sở hạ tầng của nhau. Tại Thâm Quyến, Chu Hải và Macau, có tới bốn sân bay nằm gần nhau. Đó là trước khi họ kiềm chế được tình hình. Đã có thời các thị trưởng được đánh giá dựa trên tốc độ phát triển của thành phố mình, bất chấp việc nó có bền vững hay không. Bởi vậy thay vì tập trung vào những dự án tạo nên giá trị trường kì, họ đơn giản chỉ tập trung thúc đẩy các chỉ số GDP. Hệ quả là họ bỏ mặc môi trường, bỏ qua quá trình lập kế hoạch dài hạn. Tuy nhiên họ cũng đã điều chỉnh việc này.

Trong quá trình phát triển, tình trạng căng thẳng nghiêm trọng có thể đến từ khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng giữa các tỉnh duyên hải và các tỉnh trong đất liền, và ở một mức độ nhất định là khoảng cách giữa các thành phố. Các thành phố ven biển tăng trưởng nhanh hơn các thành phố nội địa ít nhất khoảng 30%, với một xuất phát điểm cao hơn hẳn. Những thành phố này thu hút đầu tư nhiều hơn, tạo công ăn việc làm tốt hơn và cung cấp tiêu chuẩn sống cao hơn cho cư dân của mình. Và khoảng cách này cứ được nới rộng thêm.

Tất nhiên việc một vài chênh lệch trong tăng trưởng tồn tại ở một đất nước rộng lớn như Trung Quốc là điều đương nhiên. Tôi không tin các tỉnh phía tây sẽ có ngày trở nên phồn vinh và tiên tiến ngang các tỉnh ven biển và ven sông. Hãy lấy nước Mỹ làm ví dụ. Bờ Đông và Bờ Tây đông dân hơn và thịnh vượng hơn các vùng nằm sâu trong đất liền, trừ một ngoại lệ là Chicago. Nhưng Chicago có dòng sông St Lawrence và Ngũ Đại Hồ (the Great Lakes) nơi tàu bè có thể qua lại. Khó có gì có thể thay thế được lợi thế địa lý ở gần biển. Hơn nữa, một vài tỉnh phía tây ở Trung Quốc nằm cách biển không xa nhưng lại có cả những vùng bán sa mạc, nơi có khí hậu khắc nghiệt. Những sinh viên xuất sắc muốn phát triển đều hướng đến vùng bờ biển hoặc Bắc Kinh để học đại học. Đây là một vòng tròn luẩn quẩn, bởi những giáo sư và giáo viên tốt nhất của bạn cũng chẳng muốn chuyển vào sâu trong đất liền. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã nhấn mạnh khái niệm một “xã hội hài hòa” và biến nó thành một trong những mục tiêu nhằm cân bằng sự phát triển giữa vùng duyên hải và vùng nội địa. Trung Quốc cố gắng xây dựng cơ sở hạ tầng và thúc đẩy các vùng miền tây phát triển thông qua việc đề xuất các ưu đãi đầu tư đặc biệt cho các doanh nhân. Việc này vẫn đang trong giai đoạn tiến hành. Đến cuối cùng, bạn có thể nâng tiêu chuẩn của các tỉnh nội địa lên khoảng 60, 70% so với các tỉnh duyên hải. Thách thức đặt ra là đảm bảo kiểm soát được sự bất mãn đến từ chênh lệch giàu nghèo. Truyền hình vệ tinh đã làm trầm trọng hóa thêm vấn đề. Người dân từ Thành Đô hay Vân Nam có thể thấy được sự phát triển của Bắc Kinh trên màn hình ti vi. Họ thấy những sân vận động Olympic – đồ sộ và được thiết kế bởi các kiến trúc sư nổi tiếng thế giới. Và họ tự hỏi: “Có thứ gì trong đó dành cho tôi? Bao giờ thì đến lượt tôi?”

Sự chênh lệch dẫn đến những vấn đề khác. Người dân ở những vùng nghèo hơn muốn chuyển đến những vùng giàu có hơn. Cuộc di cư từ nông thôn lên thành thị diễn ra trên diện rộng và ước tính mỗi ngày có 1% dân số Trung Quốc di cư. Người Trung Quốc có một hệ thống hộ khẩu (hukou) hay đăng ký hộ gia đình. Nó giống như hệ thống koseki của người Nhật – bạn không thể chuyển nơi cư trú của mình từ nơi A sang nơi B mà không có sự cho phép. Và nếu bạn làm như vậy thì ở nơi cư trú mới bạn sẽ không có quyền tiếp cận các dịch vụ sức khỏe, nhà ở, trường học cho trẻ em, v.v… Nhưng điều này không ngăn được sự di cư. Mọi công nhân ở nông thôn chuyển lên đô thị đều làm những công việc nặng nhọc và bẩn thỉu ở quanh thành phố, mà không được hưởng lợi từ các dịch vụ xã hội cơ bản cho bản thân hay con cái họ. Đây là tình thế khó mà trụ vững được. Lãnh đạo biết rõ điều đó. Nhưng nếu họ cho phép di cư tự do thì tất cả các thành phố sẽ trở nên quá tải. Bởi vậy họ cố gắng tìm kiếm những giải pháp khác. Họ thuyết phục chính quyền địa phương đảm nhận một vài trách nhiệm đối với những người nhập cư, bởi các đô thị không thể phát triển nếu thiếu lao động. Tôi cũng được biết rằng họ lên kế hoạch xây dựng sáu cụm thành phố ở miền trung Trung Quốc, mỗi cụm có thể tiếp nhận đến 40 triệu cư dân. Họ hy vọng sẽ chuyển được người dân từ nông thôn sang các thành phố này, thay vì các tỉnh ven biển. Tuy nhiên cần có một cơ chế điều hành, bởi những thành phố này sẽ không thể đem lại cho người di cư những cơ hội họ có thể tìm thấy ở những thành phố duyên hải.

Nguồn lợi dễ đạt được nhất trong nền kinh tế Trung Quốc cũng đã dần cạn kiệt. Các nhà lãnh đạo sẽ phải điều chỉnh chiến lược kinh tế chung nhằm đảm bảo giữ vững tăng trưởng trong một vài thập niên tới. Trung Quốc sẽ tiếp tục đà tăng trưởng nhanh một thời gian nữa, với nguồn nhân lực giá rẻ. Lực lượng nhân công ở các tỉnh thành miền tây sẽ đưa Trung Quốc tiến lên với mức tăng trưởng đạt 7, 8, 9% trong vòng 15 – 20 năm. Sau đó, tăng trưởng sẽ phụ thuộc vào năng suất – họ sẽ đào tạo người dân như thế nào để sản xuất được nhiều hơn trong cùng một khoảng thời gian. Nói cách khác là làm sao để bạn đào tạo và trang bị cho lực lượng này những kĩ năng và công cụ làm việc khác nhau – dù là ở trường đại học, trường bách khoa hay các trường dạy nghề.

Trung Quốc còn phải đối mặt với một vấn đề thậm chí còn cấp bách hơn: cần làm gì với những doanh nghiệp nhà nước ngày càng tỏ ra kém hiệu quả. Ở đây, Trung Quốc đối mặt với một vấn đề căn bản về động lực cá nhân. Họ cố gắng thúc đẩy công chức trở nên giống các doanh nhân tư nhân. Nhưng việc đó không hiệu quả, bởi trừ khi bạn nắm trong tay 20% cổ phần, và bạn sống với nỗi lo thị trường cổ phiếu sẽ nuốt sống bạn, thì bạn sẽ không tỉnh giấc và thấy phải làm một điều gì đó. Bạn vẫn nhận lương. Việc kinh doanh có đi lên hay đi xuống, bạn vẫn sẽ nhận lương. Nhưng nếu bạn có tài sản liên đới, toàn bộ sinh kế hay toàn bộ cổ phần của bạn ở một công ty, bạn sẽ lo lắng về nó 24 giờ một ngày.

Liệu người Trung Quốc có sẵn sàng tiếp nhận khái niệm tư nhân hóa này? Họ đang ở giai đoạn công chức được yêu cầu làm thương mại, nhưng điều gì sẽ thúc đẩy một công chức làm việc như một người sở hữu? Trừ khi Trung Quốc đối mặt với một cuộc suy thoái kinh tế trầm trọng, mà điều này hoàn toàn có khả năng xảy ra. Còn không thì tôi không chắc họ sẽ quyết tâm làm gì đó dứt khoát về vấn đề này.

Cuối cùng, nền kinh tế Trung Quốc cần chuyển đổi từ dựa vào xuất khẩu sang dựa trên tiêu thụ nội địa, giống như nước Mỹ. Để điều này xảy ra, bạn cần thay đổi tư duy tầng lớp trung lưu và tầng lớp hạ-trung lưu, những người đã sống trong cảnh nghèo khó quá lâu, và luôn tự động tích lũy lượng tài sản tăng thêm ở ngân hàng hoặc dưới gối. Họ chỉ chi tiền khi họ thấy tin tưởng về tương lai. Người Mỹ chi tiêu – và họ vay mượn và chi tiêu – không quan trọng họ có tự tin về tương lai của mình hay không. Có một niềm tin cơ bản ở Mỹ rằng mọi thứ cuối cùng rồi sẽ ổn. Đó là cách nền kinh tế của họ tăng trưởng – bằng tiêu dùng nội địa. Rốt cuộc đó cũng là con đường mà Trung Quốc phải đi. Nhưng họ sẽ tiến hành thời kỳ quá độ đó ra sao?

Những người dân nghèo sẽ vẫn cư xử như người nghèo ngay cả khi họ giàu. Bạn chỉ muốn tích lũy nhiều tài sản hơn và có nhiều khoản tiết kiệm hơn bởi bạn đã nghèo quá lâu rồi, bạn sợ rằng bạn sẽ có thể nghèo trở lại. Bạn sẽ bắt đầu chi tiêu chỉ khi bạn trở nên tự tin và tin rằng sự thịnh vượng này sẽ ở lại đây và thật ngu ngốc khi gò bó cuộc sống của mình. Trung Quốc buộc phải tiến tới giai đoạn đảm bảo kinh tế tăng trưởng bền vững. Họ không có thừa mứa thời gian. Đây là một cuộc chuyển giao mà nước này phải thực hiện trong vòng một hoặc hai thập kỷ.

Tuy nhiên sự thịnh vượng cần được phân bổ một cách hợp lý. Chênh lệch về thu nhập là một yếu tố làm trì trệ tiêu thụ nội địa, bởi sức mua hiện giờ chỉ tập trung ở các tỉnh thành ven biển chứ không có ở bộ phận dân số lớn hơn sống tại nông thôn và các vùng nội địa. Trung Quốc sẽ tái phân bổ tăng trưởng hay nguồn lợi nhuận như thế nào? Bạn cần phải đảm bảo mọi người đều được hưởng lợi.[1]

Lee Kuan Yew 
(2013).

Nguồn: Lee Kuan Yew (2013). “The New China: People, Society, Economy”, in L.K. Yew, One Man’s View of the World (Singapore: Straits Times Press), pp. 51-67.

Biên dịch: Phạm Hồng Anh | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
—————–

[1] Nguyên văn “You must have all boats rising” – xuất phát từ câu nói của cố tổng thống John F. Kennedy (1963) “a rising tide lifts all boats”, hàm ý khi một nền kinh tế vận hành tốt, mọi người đều sẽ được hưởng lợi từ nó. [ND]

(Nghiên cứu Quốc tế)

Quan lộ vợ chồng Chủ tịch Dầu khí cùng về làm công chức Bộ Công Thương

12/03/2017  07:05 GMT+7

Trước khi ông Nguyễn Quốc Khánh, Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) chính thức được điều chuyển công tác về Bộ Công Thương vào ngày 9/3/2017 vừa qua, vợ ông – bà Vũ Thúy Huệ cũng đã về công tác tại Bộ Công Thương.
Chồng: từ Chủ tịch PVN về làm công chức Bộ
Ngày 9/3/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 308/QĐ-TTg về thôi giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng thành viên Tập đoàn Dầu khí Việt Nam đối với ông Nguyễn Quốc Khánh để về nhận nhiệm vụ tại Bộ Công Thương.
Ông Nguyễn Quốc Khánh sinh năm 1960 tại Thạch Việt, Thạch Hà, Hà Tĩnh và đảm nhiệm cương vị Chủ tịch HĐTV PVN từ ngày 12/1/2016.
Chủ tịch PVN, Bộ Công Thương, Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, điều chuyển
Tại thời điểm đó, ông Khánh được bổ nhiệm chức Chủ tịch HĐTV PVN sau khi người tiền nhiệm là ông Nguyễn Xuân Sơn bị thôi chức và bị bắt sau đó do liên quan tới những sai phạm tại Ngân hàng TMCP Đại Dương (OceanBank).
Trước đó ông Khánh giữ vị trí Tổng giám đốc PVN từ ngày 19/11/2014 theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ Công Thương tại thời điểm đó là ông Vũ Huy Hoàng. Trước đó nữa, vào tháng 7/2009, ông Khánh đã được bổ nhiệm làm Phó tổng giám đốc PVN.
Trước khi làm Phó tổng giám đốc PVN, ông Nguyễn Quốc Khánh từng giữ vị trí Tổng giám đốc Tổng công ty Dầu Việt Nam (PV Oil), sau khi đơn vị này được thành lập trên cơ sở hợp nhất của Công ty Chế biến và Kinh doanh sản phẩm dầu (PDC) và Petechim.
Ông Nguyễn Quốc Khánh từng tốt nghiệp kỹ sư Địa Vật lý chuyên ngành Thăm dò địa chất Dầu khí tại Đại học Dầu khí Ba Cu - Liên Xô cũ.
Ông cũng từng giữ nhiều vị trí quan trọng tại Công ty Thăm dò khai thác Dầu khí (PVEP) và Công ty Liên doanh Dầu khí Mê Kông trước khi về PVN.
Thời điểm ông Khánh đảm nhiệm vị trí Tổng giám đốc PV Oil, đơn vị này cũng là một cổ đông chính để thành lập ra các doanh nghiệp đầu tư 3 dự án xăng nhiên liệu sinh học của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam mà hiện đang không phát huy được hiệu quả.
Khi đảm nhiệm vị trí Phó tổng giám đốc PVN, ông Khánh phụ trách mảng sản xuất điện và gắn với hàng loạt các dự án điện do PVN đầu tư trong đó đáng chú ý là các dự án điện lớn gồm Nhiệt điện Vũng Áng I (1.200 MW), Nhiệt điện Thái Bình 2 (công suất 1.200 MW), nhiệt điện Sông Hậu 1 (1.200 MW) và Dự án nhiệt điện Long Phú 1 (1.200 MW) được xem là có ảnh hưởng lớn đối với an ninh năng lượng.
Tuy nhiên, hiện mới chỉ có Nhiệt điện Vũng Áng 1 đi vào hoạt động.
Các Dự án còn lại gồm Nhiệt điện Thái Bình 2 (công suất 1.200 MW), Nhiệt điện Sông Hậu 1 (1.200 MW) hay Nhiệt điện Long Phú 1 (1.200 MW) vẫn đang trong quá trình thi công, dù tiến độ hoàn thành công trình đã qua từ khá lâu.
Vợ: làm công chức Bộ rồi xin thôi việc
Ngoài ông Khánh về nhận nhiệm vụ mới tại Bộ Công Thương trong tháng 3/2017, vợ ông, bà Vũ Thúy Huệ trước đó cũng đã chuyển từ ngành dầu khí sang làm công chức của Bộ Công Thương.
Chủ tịch PVN, Bộ Công Thương, Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, điều chuyển
Bà Vũ Thúy Huệ
Bà Vũ Thuý Huệ từng là Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Công nghệ Năng lượng Dầu khí Việt Nam (PV EIC) thuộc PVN.
Vào tháng 9/2013, Tổng giám đốc PVN khi đó là ông Đỗ Văn Hậu đã ra Quyết định số 6412/QĐ-DKVN lập Đoàn Kiểm tra các dấu hiệu sai phạm tại PV EIC do HĐQT đương nhiệm của PV EIC “tố” bà Vũ Thúy Huệ có hàng loạt sai phạm và tiêu cực, liên quan đến công tác quản lý và sử dụng vốn, điều hành doanh nghiệp...
PV EIC hình thành năm 2008, trong đó PVN là cổ đông lớn. Giai đoạn từ 2009-2011, PV EIC đã đầu tư nhiều dự án bất động sản, dự án sản xuất và mua bán cổ phần trong các công ty khác không đúng mục đích dẫn đến nhiều sai phạm về tài chính.
Sau đó, PVN đã có kết luận về những sai phạm nói trên và đã có công văn số 186/DKVN-TTr ngày 6/12/2013 yêu cầu người đại diện phần vốn của Tập đoàn cùng HĐQT kiểm điểm và làm rõ trách nhiệm của các cá nhân, tập thể gây ra những sai phạm trên. Tuy nhiên cũng không có các thông tin liên quan đến kết quả xử lý các sai phạm này trên công luận.
Bà Huệ sau đó về làm việc tại PVN. Vào tháng 2/2014, bà Vũ Thuý Huệ đã được ra mắt là Kiểm soát viên chuyên trách phụ trách chung tại Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) theo quyết định bổ nhiệm của Bộ Công Thương thời điểm đó là ông Vũ Huy Hoàng.
Được biết, thời gian bà Huệ là Kiểm soát viên phụ trách chung tại Vinacomin là từ tháng 12/2013 đến tháng 5/2015.
Tiếp đó, bà Huệ được điều động và bổ nhiệm giữ chức vụ Phó vụ trưởng Bộ Công Thương, đại diện Tổng cục Năng lượng tại TP.HCM.
Dẫu vậy thì tới cuối tháng 12/2016, Bộ Công Thương đã chỉ đạo các đơn vị chức năng của Bộ triển khai rà soát và thống nhất ban hành Nghị quyết xử lý một số trường hợp cán bộ được bổ nhiệm không đúng quy định nêu tại Kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, trong đó có nhắc tới trường hợp của bà Huệ. Cụ thể với trường hợp của bà Vũ Thúy Huệ, Bộ Công Thương đã chỉ đạo thu hồi Quyết định điều động và bổ nhiệm bà Vũ Thúy Huệ giữ chức vụ Phó Vụ trưởng Bộ Công Thương, đại diện Tổng cục Năng lượng tại thành phố Hồ Chí Minh. Đồng thời, đồng ý để bà Vũ Thúy Huệ được thôi việc theo nguyện vọng cá nhân.
Theo Đầu tư

Chuyện ông bí thư đạp xe, bị nghi giả nghèo

13/03/2017  03:03 GMT+7

- 21 năm làm lãnh đạo chủ chốt của Hội An, ban đầu ông Nguyễn Sự đi xe đạp, sau đi xe máy 78, khi xe này hỏng quá thì đi xe Wave. 
Trò chuyện đầu tuần với VietNamNet xung quanh hiện tượng doanh nghiệp tặng xe sang cho chính quyền, lãnh đạo ở một số địa phương gần đây, ông Nguyễn Sự thẳng thắn cho rằng, đó không phải là món quà "biếu cho không".
Chẳng có gì mà không có giá 
Xe hơi sang là món quà đắt tiền. Trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp và lãnh đạo, chính quyền, món quà đắt tiền liệu có thể làm dư luận nghĩ đến hàm ý gì?
Việc thăm hỏi, tặng quà biếu lẫn nhau vốn có từ ngàn xưa, thể hiện ý nghĩa tình cảm về mặt tinh thần. Tuy nhiên tặng những món quà đắt tiền thì có ý nghĩa khác hẳn.
Những món quà có giá trị lớn thường chỉ có biếu cho quan chức, những người có chức có quyền. Không thể có chuyện người ta mua quà giá trị lớn biếu cho một người dân bình thường.
Rõ ràng có điều gì đó không ổn. Không phải người ta biếu cho không, chẳng có cái gì mà không có giá của nó cả. Doanh nghiệp tặng xe có thể là cách để tiếp cận với lãnh đạo, tạo mối quan hệ gần gũi.
Nguyễn Sự, doanh nghiệp tặng xe, xe sang biển xanh, bí thư Hội An, Nguyễn Sự từ quan
Ông Nguyễn Sự: Không có chuyện tặng không, biếu không
Vấn đề đây là tặng xe sang. Anh tặng xe con đắt tiền cho ai đi? Tặng quà cho một địa phương, tại sao anh không tặng cầu, nhà tình nghĩa, khu vui chơi cho các cháu? Nếu tặng xe sao không tặng xe thu gom rác, xe cấp cứu hỗ trợ cho các bệnh viện, giúp nhân dân?
Có thể lãnh đạo địa phương lập luận rằng, xe sang cũng cần thiết bởi khi tiếp khách quý hoặc các tập đoàn nước ngoài đến tìm hiểu, đầu tư mà lại không có nổi chiếc xe sang trọng để đưa đón thì… thiếu thiếu?
Nếu chiếc xe đó tặng về mà giành để khi tiếp các đoàn nước ngoài thì có thể được. Nhưng sử dụng cho mấy ông lãnh đạo thường xuyên đi là người ta sẽ dị nghị ngay.
Nhưng mình nghĩ khách quốc tế chắc gì người ta đã thích đi xe sang? 
Nguyễn Sự, doanh nghiệp tặng xe, xe sang biển xanh, bí thư Hội An, Nguyễn Sự từ quan
Hình ảnh quen thuộc ông Nguyễn Sự đạp xe đi làm ở Hội An khi còn công tác
Thực ra vấn đề được tặng xe, có 2 kiểu. Thứ nhất, có thể anh em nghĩ đơn giản, dù sao đó cũng là cái chung, mình sử dụng rồi mai mốt mình rời vị trí thì để lại cho người khác chứ cũng chẳng đem về nhà. 
Thứ hai là tình trạng cán bộ muốn đi xe sang nhưng dùng ngân sách mua không được, chưa kể phải tuân thủ tiêu chuẩn do Nhà nước quy định. Do đó chỉ có xe tặng mới được. 
Mà tặng lãnh đạo thì phải xe sang một tý, chứ chẳng ai tặng một chiếc xe làng nhàng. Tôi nói bây giờ anh tặng chiếc xe độ 500 triệu, mà tiêu chuẩn lãnh đạo là xe 1 tỷ thì còn lâu người ta mới đi xe tặng ấy.
Anh cứ lấy tiền ngân sách mua xe theo quy định. Vị trí anh được đi xe 900 triệu thì anh đi xe 900 triệu đúng tiêu chuẩn. Xe sang không làm nên hình ảnh người lãnh đạo, mà giá trị người lãnh đạo thể hiện ở hiệu quả công việc. 
Xe sang không làm cho mình sang. Mình đi xe không sang nhưng nó cũng không làm cho mình nhỏ đi.
Sao cán bộ nghèo như trên trời rơi xuống?
Thời ông làm lãnh đạo có hiện tượng như vậy không? Ông có thường công cán bằng ô tô?
21 năm làm lãnh đạo chủ chốt của TP Hội An, ban đầu mình đi xe đạp, sau đi một con xe máy 78, đến khi xe này hỏng quá mình dùng xe Wave. 
Nguyễn Sự, doanh nghiệp tặng xe, xe sang biển xanh, bí thư Hội An, Nguyễn Sự từ quan
Những chiếc xe sang biển xanh gây ồn ào dư luận thời gian qua
Khi đến cơ quan hay đi các địa phương trong TP mình chỉ  đi xe đạp, xe máy, không bao giờ mình sử dụng ô tô.  Chỉ khi đi chống bão lụt hoặc đi ra khỏi thành phố mình mới cần tới ô tô công vụ.
Còn chuyện quà cáp, với mình, ngoài gói thuốc, gói trà, mình không nhận một đồng nào của ai, kể cả doanh nghiệp. Đó là điều mình khẳng định chắc chắn.
Nên từng có luồng thông tin bảo ông Sự giả nghèo?
Nghi ngờ của nhân dân đối với quan chức trong đó có mình là điều bình thường. Bởi vì nhan nhản những người có chức có quyền cũng giàu lắm và giàu một cách bất thường nên họ không lí gì lại không nghĩ ông Sự không giàu. 
Mình cũng chả trách người ta điều đó, cũng chẳng lăn tăn. Mình có sao sống vậy. Như ông bà mình nói 'nước cạn sẽ bày cồn', không việc gì phải giả chết. 
Một cán bộ sống bằng đồng lương và phải lo bao việc, nuôi con cái học hành thì không giàu là bình thường. Tại sao người ta cứ nghĩ cán bộ nghèo như trên trời rơi xuống?
Ai chưa dám làm như Nguyễn Sự...

Ai chưa dám làm như Nguyễn Sự...

Việc Nguyễn Sự từ quan tác động tới những người có trọng trách chuẩn bị nhân sự, tác động tới những người đáng ra nên làm, nhưng chưa dám làm như ông...
Ông Nguyễn Sự: Tôi từng bị dọa đốt nhà vì dẹp vỉa hè

Ông Nguyễn Sự: Tôi từng bị dọa đốt nhà vì dẹp vỉa hè

Nguyên Bí thư Hội An chia sẻ áp lực dẹp vấn nạn chiếm vỉa hè ở Hội An cách đây hơn 20 năm.
Gặp ông Nguyễn Sự sau hơn 1 năm từ quan

Gặp ông Nguyễn Sự sau hơn 1 năm từ quan

Trò chuyện với nguyên Bí thư Thành ủy Hội An Nguyễn Sự - người quyết định xin nghỉ hưu trước 2 năm. 
Ông Nguyễn Sự: Tôi và Thủ tướng từng tranh cãi liên tục

Ông Nguyễn Sự: Tôi và Thủ tướng từng tranh cãi liên tục

Có lần, trong một cuộc họp với ông Phúc, tôi đã đập bàn to giọng với ông. Nếu lãnh đạo khác có lẽ đã rất để bụng, nhưng anh Phúc chỉ cười xoà và bỏ qua...
Cao Thái

‘Không có chữ Gạc Ma nào trong sách giáo khoa’

  • 26
 “Đề cập Gạc Ma, sách giáo khoa cần viết ngắn gọn về âm mưu, thủ đoạn đánh chiếm và sát hại 64 bộ đội Việt Nam, từ đó nêu hệ quả của sự kiện này”, thầy Trần Trung Hiếu đề xuất.
Đầu năm 1988, Trung Quốc chiếm đóng và xây dựng bất hợp pháp đảo Gạc Ma. 64 cán bộ, chiến sĩ đã anh dũng hy sinh cùng tàu HQ 604.
28 năm trôi qua, đến nay, theo đánh giá của nhiều chuyên gia, giáo viên Lịch sử, hải chiến Gạc Ma là một trong những sự kiện lịch sử lớn, phải đưa vào sách giáo khoa giảng dạy trong nhà trường. Những người đã hy sinh cho đất nước phải được tôn vinh xứng đáng.
Thạc sĩ Trần Trung Hiếu, giáo viên Lịch sử, trường THPT chuyên Phan Bội Châu, Nghệ An chia sẻ bài viết với Zing.vn về thực tế vị trí của hải chiến Gạc Ma nói riêng, đảo Trường Sa, Hoàng Sa nói chung trong sách giáo khoa hiện hành.
Thạc sĩ Trần Trung Hiếu: "Nhanh chóng đưa trận đánh Gạc Ma vào sách giáo khoa"
Thiếu sót lớn
Ngày 14/3/1988, quân đội Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma (thuộc quần đảo Trường Sa) của Việt Nam. 28 năm qua, vì nhiều lý do khác nhau, người ta đã quên dần sự thật lịch sử này. Nhưng, những người thân của các liệt sĩ Gạc Ma và cả đồng đội còn sống sót sau sự kiện vẫn không thể và không bao giờ quên nỗi đau đó. Vết thương chưa lành và vẫn còn đau, bởi sự kiện Gạc Ma đang nhạt dần và có nguy cơ biến mất.
28 năm, thời gian quá dài và quá đủ để chúng ta nhìn nhận lại một sự thật hiển nhiên, dù nó rất phũ phàng và đau xót. Rất đáng để chúng ta phải trăn trở là tại sao một sự kiện như thế nhưng không hề được nói một từ nào trong sách giáo khoa Lịch sử phổ thông hiện hành.
‘Khong co chu Gac Ma nao trong sach giao khoa’ hinh anh 1
Thạc sĩ Trần Trung Hiếu (bên phải) cùng giáo sư Phan Huy Lê - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
Rất nhiều tờ lịch treo tường hàng chục năm qua không hề nhắc đến các sự kiện biên giới phía Bắc (17/2/1979), biên giới Tây- Nam và các sự kiện liên quan chủ quyền biển đảo Hoàng Sa (19/1/1974), Gạc Ma (14/3/1988).
Một thực tế cho thấy nhiều học sinh phổ thông thắc mắc vấn đề chủ quyền 2 quần đảo (hiện nay là hai huyện đảo) Hoàng Sa, Trường Sa không được nhắc đến trong sách giáo khoa môn Lịch sử. Và đương nhiên, các sự kiện Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm như Hoàng Sa (1974), Gạc Ma (1988) cũng không được viết một dòng chữ nào.
Với góc độ giáo viên dạy Lịch sử trường phổ thông, tôi cho rằng đó là thiếu sót lớn, dù người ta cố tình biện minh với bất kỳ lý do gì.
Vấn đề này, sách giáo khoa cần minh bạch thông tin, nói đúng, nói đủ sự kiện. Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép từ năm 1974 và Gạc Ma (thuộc quần đảo Trường Sa) hiện nay thuộc quyền chiếm đóng và quản lý trái phép của Trung Quốc.
Nói đến sự kiện này, sách giáo khoa chỉ cần viết ngắn gọn: Âm mưu, thủ đoạn đánh chiếm và sát hại 64 bộ đội Việt Nam ở Gạc Ma, từ đó nêu lên hệ quả của sự kiện này.
Sách giáo khoa cần khẳng định lại rằng cuộc đấu tranh đòi chủ quyển đã mất (Hoàng Sa, Gạc Ma và một số đảo khác) là vấn đề phức tạp, không dễ dàng. Dù xét về phương diện lịch sử và pháp lý quốc tế, Việt Nam đấu tranh đòi lại chủ quyền là hoàn toàn đúng đắn.
Nếu chúng ta cố tình che đậy, né tránh những sự thật hiển nhiên này, sẽ gây ra sự khủng hoảng niềm tin: Học sinh tin vào ai, sách giáo khoa, lời thầy cô giáo hay thông tin trên các phương tiện truyền thông, Internet?
Sách giáo khoa phải tôn trọng và trả lại những sự thật lịch sử. Sự kiện Gạc Ma bị “quên” trong sách giáo khoa là điều khó chấp nhận.
Chúng ta không tưởng nhớ, tri ân đúng nghĩa các liệt sĩ đã hy sinh ở Hoàng Sa, Trường Sa nói chung, Gạc Ma nói riêng thì làm sao giáo dục cho thế hệ trẻ đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, biết trân trọng những giá trị lịch sử, từ đó có thái độ và trách nhiệm với Tổ quốc?
Nhắc lại sự kiện Gạc Ma 28 năm trước không phải nhằm khơi sâu mối thù hằn và sự tàn ác của chiến tranh, phá vỡ quan hệ hợp tác trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa. Nhưng thế hệ trẻ cần biết lịch sử để luôn đề phòng, cũng như tôn vinh, tưởng nhớ và tri ân các bậc tiền nhân ngã xuống vì Tổ quốc, từ đó sống có trách nhiệm và yêu đất nước mình.
Vị trí của Trường Sa, Hoàng Sa trong sách giáo khoa
Thạc sĩ Trần Trung Hiếu là giáo viên nhiều năm bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử tại trường chuyên THPT Phan Bội Châu, Nghệ An. Thầy Hiếu là người góp nhiều tiếng nói trên báo chí để giành lại vị trí môn Lịch sử trong trường phổ thông.
Tháng 10/2015, ông viết thư gửi Bộ GD&ĐT đề xuất không tích hợp Lịch sử và cho rằng đây là môn thi bắt buộc của kỳ thi THPT quốc gia.
Sau đó, ngày 3/11/2015, Bộ GD&ĐT làm việc với Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam cùng đại diện Ban Tuyên giáo TƯ và một số tổ chức liên quan bàn về Dự thảo chương trình tổng thể giáo dục phổ thông, trong đó chủ đề chính là không tích hợp môn Lịch sử.
Trên thực tế, từ năm 2012 đến nay, sách giáo khoa Lịch sử phổ thông vẫn giữ nguyên như cũ và chưa có thêm dòng chữ nào về chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa.
Ở sách giáo khoa Lịch Sử lớp 7, bài 20: Nước Đại Việt thời Lê sơ (1428-1527), trang 95, hình 44, có Lược đồ Hành chính nước Đại Việt thời Lê sơ, hoàn toàn không vẽ và không giải thích về chủ quyền Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa.
Bài 25: Phong trào Tây Sơn (trang 123, hình 57) có Lược đồ Tây Sơn khởi nghĩa chống các thế lực phong kiến và chống quân xâm lược nước ngoài, có đánh dấu vị trí của Hoàng Sa, Trường Sa như các bản đồ Việt Nam khác, nhưng không có thông tin nói đến chủ quyền của Việt Nam ở các quần đảo này.
Trong bài 27: Chế độ phong kiến nhà Nguyễn (trang 135, hình 6) có Lược đồ các đơn vị hành chính thời Nguyễn (từ năm 1832), đánh dấu Hoàng Sa, Trường Sa như bản đồ Việt Nam khác, nhưng không giới thiệu thông tin nào về chủ quyền của Việt Nam ở các quần đảo này.
Tại sách giáo khoa Lịch sử lớp 9, bài 27: Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc (1953-1954), trang 122, hình 53, có hình thái chiến trường trên mặt trận Đông Xuân 1953-1954. Dù đánh dấu vị trí của Hoàng Sa, Trường Sa như bản đồ Việt Nam khác nhưng không giới thiệu thông tin về hoạt động của quân dân ta ở Hoàng Sa, Trường Sa trong những năm 1953-1954.
Đến bài 30: Hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1973-1975), trang 163, hình 77, có Lược đồ cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 đánh dấu quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và có vẽ đường mũi tên từ khu vực Cam Ranh ra Trường Sa, nhưng không một lời giải thích. Người đọc không thể hiểu vấn đề lịch sử chủ quyền ở đây như thế nào.
Với sách giáo khoa Lịch sử lớp 10, bài 25: Tình hình chính trị, kinh tế, văn hóa dưới triều Nguyễn, trang 126, hình 49, có Lược đồ các đơn vị hành chính Việt Nam thời Minh Mạng, vẫn đánh dấu vị trí  Hoàng Sa, Trường Sa như các bản đồ Việt Nam khác, nhưng không có lời giải thích về chủ quyền của Việt Nam.
Sách giáo khoa Lịch sử lớp 12, bài 23: Khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội ở miền Bắc, giải phóng hoàn toàn miền Nam (1973-1975), trang 193, hình 79, có Lược đồ diễn biến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, giống như lược đồ của sách giáo khoa Lịch sử lớp 9. Học sinh cũng không thể nhận ra lược đồ này “thể hiện rõ quân ta giải phóng đảo Trường Sa từ tay quân đội Sài Gòn”.
Như vậy, hầu hết lược đồ chỉ xác định vị trí của các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong khung chung của một bản đồ nền chính thức Việt Nam hiện nay, mà không minh chứng cho vấn đề nào của chủ quyền biển đảo trong lịch sử. 
Ngoài ra, sách giáo khoa Lịch sử phổ thông đều không nhắc đến 2 sự kiện quan trọng liên quan cuộc đấu tranh giành lại chủ quyền và bảo vệ chủ quyền 2 quần đảo này sau năm 1975. Đó là sự kiện đầu năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa từ quân đội Việt Nam Cộng hòa và trận chiến Gạc Ma năm 1988.
Tôi là người dạy Lịch sử và các đồng nghiệp cũng rất mong muốn Bộ GD&ĐT, trong khi chờ sách giáo khoa mới, nên kịp thời chỉ đạo các trường, sở GD&ĐT trong cả nước bằng văn bản, để lồng ghép nói về công cuộc bảo vệ biên giới và chủ quyền biển đảo.
Mời đón xem bài 4: 'Dạy Lịch sử thiếu biển đảo như vẽ người thiếu đôi mắt'
Giáo sư Phan Huy Lê - Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, nhà sử học Dương Trung Quốc cùng nhiều chuyên gia giáo dục, thầy cô dạy môn Lịch sử, du học sinh đều cho rằng: Phải đưa cuộc chiến Gạc Ma, cũng như những cuộc chiến tranh bảo vệ biển đảo của Tổ quốc vào sách giáo khoa.

Có nên đưa trận đánh Gạc Ma, cũng như chiến tranh bảo vệ biển đảo vào SGK Lịch sử?

Xem kết quả

'SGK nên có một chương về chiến tranh bảo vệ biên giới'

GS Vũ Dương Ninh, đồng chủ biên cuốn Lịch sử lớp 12, cho rằng, cần đưa cuộc chiến bảo vệ biên cương của Tổ quốc trên đất liền, cũng như hải đảo vào sách giáo khoa.
Thạc sĩ Trần Trung Hiếu
Trường THPT chuyên Phan Bội Châu, Nghệ An

"Phó giám đốc Sở Tư pháp Bình Thuận xin lỗi" ( Minh chứng thành ngữ: Miệng quan trôn trẻ )

11/03/2017 20:02 GMT+7

TTO - Chiều 11-3, bà Phạm Thị Minh Hiếu - phó giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Bình Thuận gửi thư xin lỗi đến các cơ quan báo chí về sự việc bẻ hoa mai anh đào tại TP Đà Lạt (Lâm Đồng).
Bà Hiếu cũng xin lỗi việc bà dùng một số từ ngữ chưa chính xác tại buổi sinh hoạt đầu tuần vào sáng ngày 6-3 của Sở Tư pháp, thừa nhận đã sai trong sự việc này và rất lấy làm tiếc đã gây ra dư luận không tốt trong những ngày qua, làm ảnh hưởng đến uy tín cá nhân, đồng thời cũng ảnh hưởng đến tập thể cơ quan, địa phương tỉnh nhà…
“Tôi luôn tôn trọng mọi người, sự việc xảy ra vừa qua là do lỗi của tôi đã làm phiền lòng tất cả mọi người.
Đây là bài học kinh nghiệm sâu sắc về thái độ ứng xử trong cuộc đời tôi, xin thành thật xin lỗi và mong tất cả mọi người tha thứ, bỏ qua.
Trong thời gian tới, tôi sẽ chú ý rèn luyện, thận trọng hơn trong văn hóa ứng xử, lời ăn tiếng nói của mình”, bà Hiếu viết trong thư xin lỗi.
Bà Hiếu bày tỏ sự chân thành khi nói lên điều này và xin lỗi đến toàn thể mọi người, đặc biệt là nhóm thanh niên đã nói chuyện, chụp hình bà và rất mong mọi người hiểu, thông cảm, bỏ qua cho bà.
NGUYỄN NAM