Thứ Tư, 17 tháng 5, 2017

Một chân dung khác về Lenin

Posted on  by The Observer

Print Friendly
Nguồn: Graeme Gill, “The Other Lenin,” Inside Story, 21/03/2017.
Biên dịch: Hiếu Minh | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng
Đây là bài điểm cuốn Lenin the Dictator: An Intimate Portrait (Weidenfeld & Nicolson, 2017) của Victor Sebestyen.
Trong cuốn tiểu sử mới nhất về Vladimir Lenin này, mọi đặc điểm nổi bật của cuộc đời nhà cách mạng Nga đều được nói đến: vụ hành hình người anh cả của Lenin khiến ông bị cấp tiến hóa như thế nào, tranh luận về những luận điểm lý thuyết cách mạng khó hiểu trong những năm dài ông lưu vong, việc trở lại Nga năm 1917 với sự giúp đỡ của Đức, sự thâu tóm quyền lực cũng trong năm đó, và những năm đầu chế độ Xô-viết. Nhưng cuốn tiểu sử này rất khác so với những tiểu sử chúng ta từng biết.
Có thể nhận ra sự khác biệt này trong nhan đề nhỏ của cuốn sách (“An Intimate Portrait”: Một chân dung gần gũi). Victor Sebestyen tập trung vào con người Lenin, đặc biệt chú ý đến mối quan hệ của Lenin với hai người phụ nữ quan trọng nhất trong cuộc đời ông và những đau đớn thể xác mà ông phải chịu. Dựa một phần vào tài liệu tìm thấy trong văn khố Nga sau khi Liên Xô sụp đổ, Sebestyen tìm cách dựng nên một bức tranh về Lenin tập trung vào đời sống cá nhân hơn là sự nghiệp cách mạng.
Sebestyen lập luận rằng các mối quan hệ cá nhân quan trọng nhất của Lenin là với hai người phụ nữ nói trên. Vợ Lenin, Nadezhda Krupskaya, được miêu tả không chỉ là người thư ký và đồng chí như trong các sách vở Xô-viết, mà theo Sebestyen, bà còn là một nhà cách mạng nổi bật và là một nguồn động viên cá nhân quan trọng đối với Lenin. Khía cạnh sau, được khắc hoạ bằng tình yêu, sự ngưỡng mộ, và sự cống hiến liên tục, không thay đổi, đã thêm một khía cạnh nhân văn vào hiểu biết của chúng ta về Lenin mà trước đây vẫn thường bị bỏ qua.
Sự cống hiến của Krupskaya với Lenin có lẽ được thể hiện rõ ràng nhất trong việc bà chấp nhận người phụ nữ thứ hai mà Sebestyen thảo luận trong sách, Inessa Armand, người tình lâu năm của Lenin. Suốt một thời gian dài, ở cả trong và ngoài nước Nga, ba người ít nhiều chung sống với nhau, và Armand và Krupskaya đã trở thành bạn thân. Dường như Armand chia sẻ một tình cảm mãnh liệt với Lenin mà mối quan hệ giữa Lenin và Krypskaya không có, nhưng cả hai người phụ nữ này có vẻ đều có tầm quan trọng ngang nhau đối với tinh thần của Lenin.
Krupskaya có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc chăm sóc sức khoẻ Lenin. Nhiều tiểu sử gia đã chỉ ra tính chất căng thẳng trong công việc của ông: Lenin đã đâm đầu vào mâu thuẫn với những người khác như thế nào, ông nghiêm khắc (và khắc nghiệt) như thế nào trong những phê phán của mình, và ông đã cống hiến toàn bộ sức lực của mình cho cách mạng ra sao. Sự căng thẳng này đã có những ảnh hưởng rõ ràng lên sức khoẻ của Lenin.
Một loạt các cơn đột quỵ bắt đầu từ năm 1922 thường được xem là minh chứng cho điều này. Nhưng Sebestyen cho thấy trong suốt sự nghiệp của mình Lenin đã phải chịu đựng các rối loạn tâm thần. Mức độ căng thẳng nghiêm trọng có vẻ đã gây ra nhức đầu và một dạng bán đột quỵ về thể chất mà chỉ nghỉ ngơi hoàn toàn mới có thể khắc phục được. Krupskaya đóng vai trò chủ chốt trong việc giúp ông đối phó với tình trạng này. Bà biết khi nào nó đến và có thể thuyết phục Lenin tạm dừng công việc cách mạng và đi nghỉ ở vùng quê, tránh xa tất cả mọi thứ.
Tập trung vào đời sống cá nhân là điểm mạnh chính của cuốn sách, nhưng cũng có cái giá của nó. Sự nghiệp của Lenin, cuộc đấu tranh xây dựng đảng, vượt qua các đồng sự để thâu tóm quyền lực năm 1917, vai trò của ông trong việc xây dựng nhà nước Xô-viết mới và dẫn dắt nó qua những giai đoạn khó khăn khi mà sự sụp đổ có vẻ rõ ràng hơn sự tồn tại – tất cả đều xuất hiện chỉ như phụ lục cho phần đời sống cá nhân trong cuốn tiểu sử này. Đúng là phần công khai của câu chuyện đã được biết đến rộng rãi, nhưng chính khía cạnh này của đời sống Lenin mới khiến cho việc tập trung vào đời sống cá nhân có giá trị. Chúng ta liệu có quan tâm đến Lenin không nếu ông gắn liền với công việc luật sư đầu đời? Khả năng là không.
Chú ý hơn vào cuộc đời chính trị của Lenin có thể giúp lập luận của cuốn tiểu sử rằng mối quan hệ quan trọng nhất của Lenin là với Krupskaya và Armand chắc chắn hơn. Tại sao ông có vẻ không thể duy trì tình bạn thân thiết với đàn ông? Sebestyen gợi ý rằng Lenin không chấp nhận bất kỳ thách thức nào đối với thẩm quyền của mình, và ông nhận thức rằng những thách thức ấy đến từ những đồng sự nam giới. Trừ phi có một lý giải về mặt tâm lý học cho quan điểm này, và Sebestyen không đưa ra lý giải nào như vậy, thì chắc hẳn nguyên nhân ít nhất một phần nằm trong bản chất của “nhóm” và các mối quan hệ bên trong. Mong muốn kiểm soát của Lenin có thể là phản ứng trước những điều kiện mà phong trào phải đối diện – luôn luôn gặp nguy hiểm trong tầm ngắm của cảnh sát mật Sa hoàng, thường được hỗ trợ bởi cảnh sát các nước Tây Âu nơi mà phần lớn các thành viên cách mạng sống – nhưng cuốn sách đã để ngỏ vấn đề này.
Một khía cạnh khác trong mối quan hệ giữa đời sống riêng tư và sự nghiệp của Lenin là các tác phẩm của ông. Trong phần lớn các cuốn tiểu sử, các tác phẩm của nhân vật chủ đề được xem là tư liệu nguồn quan trọng. Nhưng Sebestyen ít chú ý đến những gì Lenin viết, mặc dù chúng lên đến hơn 55 tập bằng tiếng Nga. Sebestyen không giải thích vì sao mình không chú ý đến nguồn tư liệu quý giá này, nhưng có thể là vì ông tin Lenin sẽ nói bất kỳ điều gì nhằm đạt được mục đích chính trị trước mắt. Nói cách khác, các tác phẩm của Lenin không phản ánh quan điểm thật, mà là các phản ứng chiến thuật đối với hoàn cảnh. Đây không phải là lập luận mới, nhưng nó không thể đứng vững mà không có phân tích mở rộng về suy nghĩ của ông, thứ không được nêu ra trong sách. Và nó ko thống nhất với nhiều nghiên cứu về tư tưởng và hành động của Lenin vốn cho thấy sự linh hoạt, nhưng cũng thể hiện cả sự logic và tiếp nối chắc chắn.
Khía cạnh đời sống riêng tư và sự nghiệp này cũng được phản ánh trong nghịch lý của nhan đề: chân dung gần gũi của một nhà độc tài. Trên thực tế, cuốn sách bàn rất ít đến phần “nhà độc tài,” không hề thảo luận thế nào là nhà độc tài hay Lenin đã trở thành nhà độc tài như thế nào. Trong một phần ba cuối sách khá lan man, bàn về những năm đầu của quyền lực Xô-viết, Sebestyen cố gắng kết nối Lenin với các sự kiện quan trọng. Đây là một nỗ lực có giá trị, nhưng khi thiếu bối cảnh rộng hơn – sự phát triển thể chế, vai trò của các thành viên lãnh đạo khác của chế độ, và cuộc nội chiến – thì một người không có kiến thức về giai đoạn này sẽ rất khó hiểu được điều gì đang diễn ra.
***
Tuy vậy, Lenin the Dictator vẫn đúng là một cuốn sách hay, được viết tốt và có những góc nhìn sâu sắc. Nó cũng mang tính thời sự đối với ngày nay ít nhất theo hai cách.
Thứ nhất, bức tranh phong trào cách mạng Nga lưu vong của cuốn sách tuy không hoàn chỉnh nhưng đã cho thấy những sự thay đổi. Trong những năm đầu thế kỷ 20, các nhà cách mạng gặp nhau trong quán cà phê với cà phê và bánh trái, thảo luận và tranh luận cả qua thư tín lẫn mặt đối mặt, nói chung là ngay dưới mũi cảnh sát và thường là có sự thông đồng của cảnh sát. Giao tiếp qua thư rất chậm, và nếu bị bắt, các nhà cách mạng thường bị đày đến một vùng xa xôi mà trong nhiều trường hợp là rất khắc nghiệt. Và nếu họ dự định phản kháng vũ trang, điều này thường nhắm vào những người phục vụ chế độ cũ chứ không phải quần chúng.
Điều này trái ngược với những kẻ khủng bố ngày nay: giao tiếp điện tử, sử dụng các phương thức khủng bố một cách tuỳ tiện, thiết lập quân đội, quảng bá rộng rãi thông điệp và, ít nhất là trong trường hợp hiện tại, tuân thủ một giáo điều tôn giáo. Giai đoạn trước có vẻ nhẹ nhàng hơn, mặc dù đối với những người trong cuộc thì có vẻ không phải như vậy. Chúng ta đã đi một chặng đường dài, và không phải là theo hướng tích cực.
Thứ hai, năm nay đánh dấu 100 năm cách mạng Nga, một sự kiện định hình nền chính trị của cả thế kỷ 20. Nhưng phương Tây có vẻ không chú ý mấy đến sự kiện này. Sẽ có các cuộc hội thảo học thuật, và có lẽ những gì còn lại của “cánh tả” sẽ tổ chức kỷ niệm theo một cách nào đó, nhưng đối với nền chính trị chủ lưu thì đây chủ yếu là một sự kiện không có gì đặc biệt.
Câu hỏi đặt ra là nó sẽ được xử lý thế nào ở Nga. Chế độ Putin vẫn luôn có phần mập mờ về giai đoạn Xô-viết, thừa nhận rằng những thành tựu vĩ đại phải trả giá đắt, nhưng cũng xem nó như một giai đoạn phải được tích hợp vào lịch sử nước Nga. Họ chỉ không biết là phải làm như thế nào. Và điều này có nghĩa là trong đời sống công cộng Nga có một sự mơ hồ rất lớn xung quanh cuộc cách mạng và hệ quả của nó.
Điều này được phản ánh rõ trong cuộc tranh luận nổi lên thường xuyên, cả ở trong tháng này, về việc phải làm gì với di hài Lenin. Nó được bảo quản trong lăng ở Quảng trường Đỏ từ năm 1924. Một số người tin là nên đem di hài đi chôn và dỡ bỏ lăng; một số khác tin là nên giữ nguyên như vậy. Vấn đề này phản ánh những bất định xung quanh việc xử lý cuộc cách mạng, và đưa nhà lãnh đạo của nó vào cuộc tranh luận chính trị Nga đương đại. Trong bối cảnh đó, đóng góp của Sebestyen cho hiểu biết của chúng ta về cuộc đời cá nhân của Lenin là đáng ghi nhận.
Graeme Gill là giáo sư hưu trí tại Đại học Sydney. Mối quan tâm nghiên cứu chính của ông là nền chính trị Nga và Xô-viết, nhưng ông cũng xuất bản sách về nhiều khía cạnh khác nhau của quá trình dân chủ hoá và về những nguồn gốc và sự phát triển của nhà nước.
Hình: Lenin và vợ, bà  Nadezhda Krupskaya, năm 1922. 
- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2017/05/17/mot-chan-dung-khac-ve-lenin/#sthash.pNhOXPOO.dpuf

Tập Cận Bình- Vương Hộ Ninh sao chép “chủ thuyết tập quyền” của Vệ Ưởng-Tần Thủy Hoàng-Lý Tư…

Phạm Viết Đào.
Tập Cận Bình-Vương Hộ Ninh-Lý Khắc Cường

Trang Đa Chiều (Mỹ) cho hay, Ủy viên Bộ chính trị Trung Quốc, Chủ nhiệm Phòng nghiên cứu chính sách Trung ương Trung Quốc Vương Hộ Ninh không phải là “hồng nhị đại” – hậu duệ của các nhà cách mạng Trung Quốc hay “quan nhị đại” – con cháu của các quan chức nước này.
Ông Vương là điển hình của một phần tử trí thức cao cấp, một học giả và là giáo sư. “Hay gọi theo cách khác, ông Vương là một… tiên sinh”, Đa Chiều bình luận.
Trang này tiết lộ, dù là một quan chức ít nổi bật, song Vương Hỗ Ninh lại được chính giới Trung Quốc ví như “quốc sư ba triều” khi từng là “quân sư”, cố vấn cho các cựu lãnh đạo Trung Quốc Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào và là “người dẫn đường” của Chủ tịch Tập Cận Bình.
Lý luận của Vương Hộ Ninh có ảnh hưởng rất lớn đến đường hướng phát triển toàn diện của Trung Quốc trong thời điểm hiện tại và cả tương lai. Thậm chí có quan điểm đánh giá, “mô hình Trung Quốc” chính là “mô hình Vương Hỗ Ninh”.
Tờ New York Times (Mỹ) hôm 30/9 cho hay, Vương Hộ Ninh là thành viên thuộc nhóm tinh hoa trong đảng Cộng sản Trung Quốc. Ông từng là giáo sư chính trị học tại Đại học Phúc Đán, Thượng Hải, nghiên cứu xã hội Mỹ.

                   Xem bài cùng tác giả:
Giai đoạn 1988-1989, Vương Hỗ Ninh là chuyên gia nghiên cứu tại Đại học Iowa và Đại học California-Berkeley, Mỹ. Trong quá trình nghiên cứu, ông quen biết với nhiều học giả Mỹ.

Chủ thuyết “tập trung quyền lực” của Vương Hỗ Ninh

Từ năm 1988, Vương Hỗ Ninh đã có bài viết “Phân tích phương thức lãnh đạo chính trị trong tiến trình hiện đại hóa”, đăng trên tờ “Phúc Đán học báo”, trong đó nhấn mạnh chính phủ Trung Quốc nên theo đuổi cơ chế lãnh đạo “tập quyền” chứ không phải “phân tán”.
Theo ông Vương, cơ chế “lãnh đạo thống nhất” sẽ giúp Trung Quốc tránh được những xung đột không cần thiết giữa nhiều đường lối và quan niệm đối lập.
“Mô hình này cho phép giới cầm quyền phản ứng nhanh, mạnh với các vấn đề đột biến, ngăn chặn phân hóa và biến động xã hội trong quá trình hiện đại hóa”, Vương Hỗ Ninh viết.
Vương Hỗ Ninh nhận định, Trung Quốc cần mô hình lãnh đạo tập trung bởi điều này “giúp mở rộng chưa từng có phạm vi quyết sách của lãnh đạo chính trị”.
Theo những thông tin ít ỏi mà Đa Chiều cung cấp, căn cứ vào hàng loạt các chính sách của Trung Quốc được ban hành những năm gần đây nhất là từ khi ông Tập Cận Bình lên chấp chính, chúng ta thấy những chính sách này thấp thoáng bóng dáng của những chính sách “tập quyền” mà Thừa tướng nhà Tần là Lý Tư và chủ trương đề cao pháp trị của Tả Thứ trưởng Vệ Ưởng-những “ kiến trúc sư” của  nền chính trị triều Tần cuối thời Chiến quốc…

“Chủ thuyết tập quyền ” của Tập Cân Bình-Vương Hỗ Ninh sao chép “ tập quyền” của Vệ Ưởng-Tần Thủy Hoàng-Lý Tư

Theo WikiPedia:”Thương Ưởng  (khoảng 390 TCN-338 TCN), còn gọi là Vệ Ưởng hay Công Tôn Ưởng là nhà chính trị gia, pháp gia nổi tiếng, thừa tướng nước Tần của thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Lý Tư là học trò của Tuân Tử và là bạn học cùng Hàn Phi Tử, Theo WikiPedia: ”Vào năm 247 TCN, khi đến nước Tần, gặp lúc Trang Tương Vương chết, Lý Tư bèn cầu xin làm môn hạ của Văn Tín Hầu Lã Bất Vi, thừa tướng nước Tần. Bất Vi cho là người hiền dùng làm quan "Lang". Lý Tư nhờ vậy có cơ hội du thuyết, Vua Tần Thủy Hoàng cho Tư làm trưởng sử, rồi khách khanh. Trong số 3000 người "khách" của Lã Bất Vi, Lý Tư nhanh chóng trở thành người nổi trội nhất.”
Sử ký Tư Mã Thiên chép việc Lý Tư hiến kế cho Tần Thủy Hoàng:
“- Cứ ngồi chờ đợi nay lần mai lữa thì sẽ bỏ mất thời cơ.Làm nên công lớn là ở chỗ biết lợi dụng chỗ sơ hở rồi mạnh dạn làm. Ngày xưa Tần Mục Công làm bá nhưng cuối cùng cũng không đi về đông thâu tóm cả sáu nước là tại làm sao? Bởi vì lức bấy giờ chư hầu còn đông, đức của nhà Chu chưa suy; cho nên Ngũ bá kế tiếp nhau nổi lên nhưng cũng đều tôn nhà Chu
Vua Tần bèn cho Tư làm trưởng sử, nghe theo kế của Tư, ngầm sai mưu sĩ mang vàng bạc châu ngọc, đi du thuyết chư hầu. Xem các danh sĩ ở chư hầu người nào có thể mua chuộc bằng tiền thì cho tiền để liên kết với họ, còn người nào không nghe thì dùng kiếm sắc đâm chết, cốt để ly gián vua tôi của họ. Sau đó vua Tần mới phái tướng giỏi đem quân  đến đánh.”
Theo kế của Lý Tư, sau 20 năm, năm 221 trước công nguyên Tần Thủy Hoàng đã thống nhất được Trung Quốc, chấm dứt thời đại lịch sử “ Chiến quốc” kéo dài 300 năm…
Về chủ thuyết “ tập quyền” thời Tần, Sử ký Tư Mã Thiên viết:” Năm thứ ba mươi tư đời Thủy Hoàng (năm 213 trước Công nguyên), nhà vua sai đặt tiệc rượu ở cung Hàm Dương. Thuần Vu Việt người nước Tề tiến lên can:
- Thần nghe: nhà Ân, nhà Chu làm vua hơn nghìn năm, phong các con em, các công thần để cho họ làm phên dậu giúp đỡ mình. Nay bệ hạ giầu có bốn biển nhưng con em vẫn là kẻ thất phu; nếu đột nhiên xảy ra việc như bọn Điền Thường hay bọn lục khanh thì không ai giúp đỡ, làm sao có thể cứu nhau được. Trong công việc không bắt chước đời xưa mà có thể lâu dài là điều chưa hề nghe nói...
Thủy Hoàng đưa lời bàn của ông ta xuống thừa tướng.Thừa tướng Lý Tư cho thuyết ấy là sai,bèn dâng thư nói:
“Ngày xưa thiên hạ rối loạn và phân tán, không ai thống nhất được. Do đó chư hầu tranh nhau; khi nói, mọi người đều đem huyện đời xưa làm hại việc nay bày đặt nói những lời nói suông để làm loạn việc thực. Mọi người đều lấy cái học riêng của mình để chê bai những điều nhà vua làm.Nhưng nay hoàng đế đã thâu tóm cả thiên hạ, phân biệt trắng đen mà định ra điều duy nhất được tôn trọng. Trái lại,những kẻ học theo cái học riêng của mình cùng nhau chê cười pháp luật rồi đem dạy cho người ta. Khi nghe lệnh ban xuống tức thì họ đều lấy cái học riêng của mình để bàn tán.Khi vào triều thì trong bụng chê bai. Ra ngoài đường thì xúm bàn trong ngõ, chê vua để lấy tiếng, làm khác người để tỏ là cao, bày cho kẻ dưới phỉ báng. Nếu cứ như thế mà không cấm thì ở trên uy thế của nhà vua sẽ bị giảm sút; ở dưới các bè đảng sẽ nổi lên. Nên cấm là hơn.
Việc định ra pháp độ rõ ràng, đặt luật lệ bắt đầu từ Thủy Hoàng.Thống nhất văn tự, xây các ly cung và các biệt quán khắp trong thiên hạ. Năm sau lại đi tuần thú, bên ngoài thì đánh dẹp từ di. Trong những việc này đều có công của Tư.”

Một trong những cái lõi của chủ thuyết “ tập quyền” đó là bóp nghẹt tự do tư tưởng; Tần Thủy Hoàng đã“ đốt sách, chôn nho”; về hành chính nhà Tần đặt chế độ quận, huyện trực thuộc triều đình, không cắt đất phong vương cho họ hàng con cháu.

Còn “ Đả hổ diệt ruồi”, thiết lập ký cương ở Trung Quốc hiện nay là một chủ trương Tập Cận Bình học theo Vệ Ưởng, Lý Tư hiến kế với Tần Hiếu công, Tần Thủy Hoàng: "dĩ bạo trị quốc", tôn thờ biện pháp cai trị bằng vũ lực cả đối nội và đối ngoại

“Biến pháp Thương Ưởng” chính là "chuyên chế quân chủ" và "trung ương tập quyền" và nội dung cụ thể của “Biến pháp” từng được Dịch Trung Thiên giới thiệu trong cuốn "Từ Xuân Thu đến Chiến Quốc":
"Phế lĩnh chủ chế": Đưa thần dân vốn thuộc sở hữu của quý tộc quy về trung ương, tức "dân là của vua".
"Phế phong kiến chế": Thái ấp của các quan Khanh đại phu bị phân thành quận huyện, tức đất đai quy về sở hữu của vua.
"Phế thế tập chế": Tất cả quan chức thông qua trung ương phân bổ, quyền lực nằm trong tay vua.
Với sự bãi bỏ chế độ lĩnh chủ, phong kiến, thế tập như trên, cuộc cải cách của Thương Ưởng đã đưa đất đai, người dân và quyền lực thâu tóm về tay quân chủ. Cuộc cải tổ tập quyền triệt này cũng là mầm mống của sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể của thể chế cộng sản ở Trung Quốc sau này…
Tuy phát triển rực rỡ nhưng Tần Thủy Hoàng đã không đạt được 2 giấc mơ: xây dựng và bảo vệ “ vạn thế Tần triều”; Nhà Tần chỉ tồn tại đến đời thứ 2 thì bị diệt vong và tìm thuốc trường sinh, kéo dài tuổi thọ cho mình; theo nhiều sử sách: Tần Thủy Hoảng chết ở tuổi 49…
Sự đoản mệnh của nhà Tần và của Tần Thủy Hoàng là “ hậu quả” của “cái nhân”- thiết chế tập quyền bạo tàn, khắc bạc: “rải thây trăm họ làm công một người”; Thể chế đó vừa đẻ ra những người ngu trung, khắc bạc, tôn thờ bạo quyền như Vệ Ưởng, Lý Tư, như Bạch Khởi; (Bạch Khởi viên tướng đã ra lệnh chôn sống 400.000 hàng binh của nước Triệu trong một đêm); đồng thời cũng lại đẻ ra những kẻ phản trắc, đào mồ chôn chế độ như Triệu Cao, Kinh Kha và sau này là Lưu Bang, Hạng Vũ, Hàn Tín…
Cả Vệ Ưởng, Lý Tư, Triệu Cao và cả Tần Thủy Hoàng đều có kết cục cuộc đời thảm khốc không phải bởi số phận mà do bởi cái guồng máy của thể chế tập quyền do họ “ phát minh” ra…Sử ký Tư Mã Thiên ghi về lời nhận xét của Thái sử công: “Thương Quân ( Vệ Ưởng ) là người thiên tư khắc bạc” và chính Vệ Ưởng đã phái trả giá cho cái đó bằng chính cuộc đời mình…
Còn Tần Thủy Hoàng đột tử do bởi hoạn quan Triệu Cao đầu độc; Đây là một giả thuyết có cơ sở tin cậy trong con mắt của hậu thế nếu xem xét các dữ liệu liên quan…
Thể chế phân quyền, mô hình liên bang là cơ sở đảm bảo tự do, dân chủ, nhân quyền cho các thành viên, nhóm các nhóm cộng đồng lớn nhỏ và cho đến nay chưa xuất hiện thể chế nào phát triển, hài hòa, bền vững hơn; xã hội càng phát triển văn minh về cơ sở chính trị-kinh tế-văn hóa-xã hội thì thế chế tập quyền càng trở thành chướng ngại cản trở khát vọng này của loài người…
Đáng tiếc ông Tập Cận Bình ban lãnh đạo Trung Quốc hiện tại đã có dấu hiệu bị “sơ nhiễm” căn bệnh hoang tưởng, say sưa với quyền lực tập trung, điều này thể hiện qua những chuyện tỷ như có lúc “Tập Cận Bình muốn bóng đá Trung Quốc vô địch World Cup”; Đá bóng ngỡ là môn thể thao cơ bắp thế nhưng lại không thể duy ý chí phát triển nó giống như chiến dịch “ đả hổ, diệt ruồi”, “ đại cách mạng văn hoá vô sản “ hay đem mô hôi xương máu của hàng vạn người ra xây đăp Vạn lý trường thành, toàn dân làm gang thép, những việc từng xảy ra kinh thiên động địa ở Trung Quốc…
Trung Quốc được ghi nhận là quê hương của 4 phát minh mang tính đột phá, cách mạng từ thời cố đại: la bàn, thuốc nổ, giấy viết và kỹ thuật in ấn… Thế tại tại sao cái “đêm trung cổ” tại Trung Quốc kéo dài hơn tất cả các quốc gia khác ở Âu châu…Trong khi nước Anh chỉ có 1 phát minh là máy hơi nước mà đã làm cho cả châu Âu Phục Hưng, Khai sáng ?
Sự chậm lụt của Trung Quốc so với thế giới là do chủ thuyết tập quyền hủ bại; chủ thuyết này được vũ trang bởi 2 chủ thuyết chính trị thay nhau cai trị trên đất nước Trung Hoa: Nho gia và Pháp gia; hiện tại “ Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc” là một tập hợp hổ lốn, chắp nhặt của Nho-Pháp; mặc dù 2 phái này xung khắc nhau như nước với lửa nhưng có lõi đều tôn thờ tập quyền…
Nuôi ảo tưởng “ Cầu đồng tồn dị”, buộc nước láng giềng tiếp tục phải chịu sự chi phối, triều cống Trung Quốc là một ảo tưởng tham vọng, bá quyền có từ thời chiến quốc?! Ảo tưởng đó xưa rồi…
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển của văn minh vật chất đã làm cho các quốc gia lệ thuộc vào nhau sâu sắc hơn; không chỉ nước nhỏ lệ thuộc nước lớn mà trong nhiều trường hợp nước lớn cũng phải tùy thuộc vào sự phát triển của nước nhỏ.

Con Đường Tơ Lụa mới

Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình phát biểu trong bữa tiệc chào mừng lãnh đạo các nước tham dự Diễn đàn Vành Đai và Con Đường tại Đại lễ đường Nhân dân Bắc Kinh vào ngày 14 tháng 5 năm 2017.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình phát biểu trong bữa tiệc chào mừng lãnh đạo các nước tham dự Diễn đàn Vành Đai và Con Đường tại Đại lễ đường Nhân dân Bắc Kinh vào ngày 14 tháng 5 năm 2017.
 AFP photo

Hội nghị quốc tế về Con Đường Tơ Lụa mới vừa kết thúc hôm Thứ Hai tại Bắc Kinh với lời phát biểu hùng hồn của Chủ tịch Tập Cận Bình về một trật tự mới của thế giới trong sự hợp tác cho thịnh vượng chung.
Sáng kiến của Bắc Kinh
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, hội nghị quốc tế về Sáng kiến Một vành đai Một con đường của Trung Quốc vừa chấm dứt hai ngày họp tại Bắc Kinh nhưng lại không có thêm dữ kiện cụ thể liên hệ đến công trình mà Chủ tịch Tập Cận Bình gọi là “dự án của thế kỷ”. Ông nghĩ sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chấm dứt hội nghị, ông Tập Cận Bình dùng hình tượng bầy ngỗng trời đặc thù của Châu Á thường bay sau con đầu đàn với dạng chữ V ngang. Các nhà báo sính văn hóa có khi tâm đắc với hình ảnh đầu đàn của Trung Quốc trong một dự án “hoành tráng”, với ngoặc kép, giữa 65 quốc gia trên đại lục địa Âu Á, có 62% dân số toàn cầu và sản xuất ra 30% sản lượng của thế giới. Nhưng thuần về kinh tế thì đấy là bầy chim sẽ còn thay hình đổi dạng theo cái nhìn của Bắc Kinh. Tôi xin lần lượt giải thích, sau khi trình bày bối cảnh.
Đầu tiên là vào Tháng 9 rồi Tháng 10 năm 2013, khi thăm Cộng hòa Kazahkstan tại Trung Á và Indonesia tại Đông Nam Á, ông Tập nói đến kế hoạch gọi là Con Đường Tơ Lụa Mới, gồm hai phần là Nhất Đái và Nhất Lộ, theo Anh ngữ là One Belt, One Road, gọi tắt là OBOR. Nhất Đái hay Nhất Đới là “tẩu lang kinh tế” trên bộ từ Trung Quốc tới Âu Châu qua Nga, khu vực Trung Á và Trung Đông. Nhất Lộ là “đường Hàng hải Thế kỷ 21” từ Trung Quốc qua biển Đông Nam Á tới Ấn Độ Dương và các biển Đông Phi, Trung Đông rồi Địa Trung Hải đến tận Âu Châu. Khi đó báo chí Bắc Kinh còn so sánh tham vọng OBOR với Kế hoạch Marshall khi Hoa Kỳ viện trợ cho 16 nước Âu Châu tái thiết sau Thế Chiến II, đấy là một so sánh buồn cười mình sẽ nói sau. Vài năm qua, Bắc Kinh lại sửa tên gọi theo Anh ngữ là “Belt and Road Initiative”, viết tắt là BRI. Rồi đây, tôi nghĩ là họ còn sửa nữa, chứ “Belt and Road Initiative” hay bầy ngỗng dại này chưa định hình và sự thật lại chẳng giống như ông Tập vẫn tô vẽ trước sự trầm trồ của những người thiếu hiểu biết.
Nguyên Lam: Ông vừa nói sự thật lại chẳng giống như Chủ tịch Tập Cận Bình vẫn tô vẽ, ông có thể giải thích chuyện này được không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thật ra, bầy ngỗng dại này cất cánh lần đầu từ năm 1999, vào thời Chủ tịch Giang Trạch Dân và xuất phát từ thực tế nghiệt ngã về địa dư của Trung Quốc.
Với diện tích 10 triệu cây số vuông, xứ này có ít nhất hai khu vực khác biệt. Tại hướng Đông là vùng duyên hải có các tỉnh tương đối trù phú và tăng trưởng mạnh sau khi mở ra buôn bán với bên ngoài. Bên trong, tại hướng Tây và hướng Bắc hoang vu, là các tỉnh nghèo nàn lạc hậu bị khóa trong lục địa, khó thông thương ra ngoài mà lại là nơi tập trung các dị tộc thiểu số. Trong lịch sử, Trung Quốc bị loạn khi dân nghèo từ trong đổ xuống vùng Trung Nguyên hay Hoa Đông, như thời Tần Thủy Hoàng hay Mao Trạch Đông. Vì vậy, Bắc Kinh có chiến lược “Tây Tiến”, đó là “Tây Bộ Đại Khai Phá” do Tổng lý Quốc vụ viện là Thủ tướng Chu Dung Cơ chỉ đạo từ năm 2000 nhằm phát triển các vùng nghèo khốn tại miền Tây để tránh dị biệt quá lớn về lợi tức và nhận thức.
000_OD8PM-400.jpg
Phó Thủ tướng Trung Quốc Trương Cao Lệ phát biểu tại Diễn đàn Vành Đai và Con Đường tại Bắc Kinh vào ngày 14 tháng 5 năm 2017. AFP photo
Khu vực này chiếm hơn 70% diện tích lãnh thổ, trùm lên các tỉnh là Cam Túc, Thanh Hải, Tứ Xuyên, Thiểm Tây, Vân Nam, năm đặc khu tự trị của các sắc dân thiểu số, là Quảng Tây, Tây Tạng, Tân Cương, Nội Mông, Ninh Hạ, cùng một thành phố thuộc quyền quản lý của trung ương là Trùng Khánh. Bây giờ, khi Tập Cận Bình muốn mở ra các “tẩu lang kinh tế” chính là để khu vực hoang vu bát ngát này có thể buôn bán với bên ngoài. Yêu cầu ở đây chính là an ninh và kinh tế cho nội tình Trung Quốc. Rồi họ sở dĩ cứ đổi tên gọi vì chưa thống nhất được hệ thống quản lý công cuộc mở mang khai phá đó.
Nguyên Lam: Nhưng thưa ông, có nguồn dư luận e rằng kế hoạch Một vành đai Một con đường ấy của Bắc Kinh chính là để bành trướng ảnh hưởng với các nước bên ngoài. Ông nghĩ sao về nhận định đó?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Với thần dân của họ, dĩ nhiên lãnh đạo Bắc Kinh muốn tuyên truyền cho sự “quật khởi hòa bình” và chính đáng sau hơn trăm năm lụn bại và bị liệt cường sâu xé kể từ quãng 1840 cho tới khi đảng Cộng sản thống nhất đất nước từ năm 1949. Ta hiểu ra nhu cầu tâm lý chính trị đó, khi giới lý luận thủ cựu mơ ước phát huy tư thế và ảnh hưởng của Chủ nghĩa Dân tộc Đại Hán qua Con Đường Tơ Lụa. Nhưng lãnh đạo Trung Quốc hiện có nhiều ưu tiên cấp bách hơn, đó là tái phân lợi tức từ các tỉnh tương đối trù phú tại vùng duyên hải ở miền Đông vào các địa phương nghèo đói và lạc hậu bị khóa ở trong nên không tiếp cận với thế giới.
Đây là loại nan đề ngàn năm của Trung Quốc đang trở thành sức ép chính trị cho lãnh đạo vì người dân bên trong đã biết và không chấp nhận bất công được nữa. Nhưng, về kinh tế thì ta còn cần thấy ra chuyện khác nữa và chúng ta nên hãi sợ về sự sợ hãi của Bắc Kinh.
Âm mưu của Trung Quốc
Nguyên Lam: Ông hay trình bày sự thể dưới dạng nghịch lý làm người đọc giật mình. Thưa ông, thế nào là chúng ta nên hãi sợ về sự sợ hãi của Bắc Kinh.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Trong lịch sử, chưa khi nào kinh tế Trung Quốc lại cần buôn bán với thế giới như hiện nay. Ngoại thương hay xuất nhập khẩu là lẽ sống của họ, mà 90% hàng hóa lại được chở qua biển vì là phương tiện rẻ nhất. Nhìn từ Bắc Kinh ra biển, với tâm trạng của một kẻ từng bị hạm đội xứ khác khuất phục, họ thấy ba mặt biển cận duyên là biển Hoàng hải, biển Hoa Đông và biển Hoa Nam lại bị ngăn bởi các quần đảo mà họ gọi là “Đệ Nhất Đảo Liên”, như chuỗi xích kéo dài từ Nhật Bản, Đài Loan tới Philippines và Indonesia.
Nhiều quốc gia quần đảo này lại là đồng minh của Mỹ. Luồng giao dịch hàng hóa từ các hải cảng của Trung Quốc tại vùng duyên hải với thế giới phải qua nhiều eo biển, thí dụ như eo biển Malacca, hiện nay vẫn do một siêu cường bảo vệ. Khi thấy an ninh kinh tế của mình lại nằm trong tay của Hoa Kỳ, Bắc Kinh sợ là có ngày bị Mỹ xiết họng! Vì vậy, họ mới có nhiều động thái đáng ngại.
Thứ nhất là họ cưỡng đoạt quần đảo hay bãi cạn của các lân bang nghèo yếu hơn; thứ hai là quân sự hóa các bãi cạn đã chiếm và biến thành đảo nhân tạo; thứ ba là ly gián các nước trong Hiệp hội ASEAN theo kiểu bẻ đũa từng chiếc để nhóm kinh tế Đông Nam Á này không thể thống nhất hành động chống cự; thứ tư là mua chuộc hai thành viên của ASEAN đang có tranh chấp chủ quyền biển đảo với họ tại Đông Nam Á, là Việt Nam và Philippines; thứ năm là tránh gây hấn trực tiếp với Hoa Kỳ. Dù vậy, Bắc Kinh vẫn chưa yên lòng nên tìm cách tiến thẳng ra Ấn Độ Dương mà tránh các eo biển Đông Nam Á. Đấy cũng là mục tiêu của “Tẩu lang Kinh tế Đông Dương” với bảy nước Việt, Miên, Lào, Thái Lan, Malaysia, Brunei và Indonesia và của “Tẩu lang Kinh tế Bangladesh, Trung Quốc, Ấn Độ, Miến Điện”.
Nguyên Lam: Chúng ta bước qua phần hai, với câu hỏi là sau bốn năm chuẩn bị thì Sáng kiến Đới Lộ này đã tiến tới đâu và có hy vọng thành hình không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chúng ta trở lại với thực tế phũ phàng. Thứ nhất, việc xây dựng chuỗi hành lang trên đất liền và ngoài biển, như xa lộ, thiết lộ, cầu đường, phi cảng, hải cảng, ống dẫn dầu khí v.v, qua một vùng bát ngát có bốn tỷ 400 triệu dân, là 62% dân số địa cầu, mà chỉ sản xuất có 30% sản lượng toàn cầu thôi. Hai con số ấy, 62% dân số và 30% sản lượng, cho thấy sự nghèo nàn của khu vực. Mà hiện nay và trong tương lai xa xôi, vùng đất hoang vu ấy có quá nhiều tranh chấp và bất ổn có thể gây loạn cho Trung Quốc. Đấy là về địa dư, kinh tế, xã hội và cả an ninh trong một vùng đang có khủng bố Hồi giáo cực đoan và sự nghi kỵ về sự can thiệp của ngoại bang.
000_OD80A-400.jpg
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã phát biểu trong lễ khai mạc Diễn đàn Vành Đai và Con Đường tại Bắc Kinh vào ngày 14 tháng 5 năm 2017. AFP photo
Thứ hai là chuyện bạc tiền. Khi công bố kế hoạch bốn năm về trước, Chủ tịch Tập Cận Bình cho biết kinh phí dự trù là năm ngàn tỷ đô la, dùng trong bao lâu thì chưa rõ. Ngân hàng Hongkong Shanghai của Anh thì tính ra nhu cầu từ bốn đến sáu ngàn tỷ trong 15 năm, và Ngân hàng Phát triển Á châu ADB ước lượng rằng là từ nay đến năm 2030 các nước Châu Á cần 26 ngàn tỷ cho các dự án xây dựng hạ tầng! Tính đến nay thì các ngân hàng có vốn của Trung Quốc mới chỉ gạn được khoảng ba trăm tỷ thôi và một số dự án đầu tiên đã lỗ vốn. Thứ ba, trong 65 nước liên hệ đến Con đường Tơ lụa mới thì chỉ có 20 nguyên thủ tham dự hội nghị tuần qua ở Bắc Kinh với Chủ tịch Tập Cận Bình, tức là lãnh đạo của 44 quốc gia vẫn đứng ngoài nghe ngóng mà đấy lại là các nước giàu nhất với lợi tức bình quân một đầu người là 25 ngàn đô la so với 20 nước có lãnh tụ tới Bắc Kinh thì người dân chưa có được 15 ngàn một năm.
Thứ tư ta thấy bài toán phối hợp giữa các nước và giữa các cơ quan của Trung Quốc với nhau. Nhiều tỉnh hay tập đoàn kinh tế nhà nước của Bắc Kinh nhảy vào vay tiền ngân hàng cũng của nhà nước, nhân đó dùng khối nguyên vật liệu ế ẩm và nhân công dư dôi của họ vào các dự án có giá trị kinh tế đáng ngờ. Trong khi đó dự án hỏa xa nối liền Trùng Khánh với thành phố Duisburg của Đức được coi như một thành công chói lọi lại chẳng là sáng kiến của Bắc Kinh mà do tổ hợp Hewlett-Packard của Mỹ đề ra từ sáu năm trước để chở máy vi tính qua Âu Châu cho lẹ. Vì vậy, ta không nên chờ đợi phép lạ mà phải chấp nhận nhiều năm học bay cho bầy ngỗng trời.
Nguyên Lam: Câu hỏi ngược lại, thưa ông, đâu là những rủi ro cho các nước khi Trung Quốc lại muốn là con ngỗng đầu đàn?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Một số quốc gia đã thấy dụng tâm của Bắc Kinh trong kế hoạch này, như Thống đốc Chu Tiểu Xuyên của Ngân hàng Nhà nước Bắc Kinh có phát biểu, là chính phủ Trung Quốc không có đủ tiền nên các nước dần tìm nguồn tài trợ rẻ tiền để thực hiện dự án và khi ấy sẽ sử dụng đồng Nguyên của Trung Quốc. Tại hội nghị ở Bắc Kinh, bà Tổng trưởng Kinh tế và Năng lượng Đức hăm là không ký tên vào thông cáo chung nếu thiếu điều kiện đảm bảo tình chất bình đẳng cho các doanh nghiệp dự thầu vì ai cũng cho là Trung Quốc sẽ tìm cách nâng đỡ doanh nghiệp của mình.
Tuy nhiên, sự bất đồng và bất công ấy thật ra vẫn còn nhỏ so với nhiều mối quan tâm khác. Các nước trong Hiệp hội ASEAN thì sợ đòn ly gián của Bắc Kinh. Liên hiệp Âu châu thấy Trung Quốc muốn tranh thủ các nước Đông Âu nên sẽ gây khó cho đối sách thống nhất của cả khối. Ấn Độ chẳng yên tâm trước ảnh hưởng lớn mạnh của Trung Quốc với Pakistan và đe dọa quyền lợi của mình tại bang Kashmir. Tướng lãnh Miến Điện và bà Aung San Suu Kyi thì thấy bàn tay Bắc Kinh đằng sau các lực lượng thiểu số đòi ly khai tại biên giới giữa hai nước. Liên bang Nga có thể ủng hộ sáng kiến của Bắc Kinh nhưng vẫn phải canh chừng quyền lợi của mình tại Trung Á…. Cho nên chưa biết Con đường Tơ lụa mới có thành chăng thì các nước cũng ngại sự xuất hiện của một cường quốc với các dự án kinh tế khả dĩ chi phối an ninh của họ.
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam xin cảm tạ ông về cuộc phỏng vấn kỳ này.

Phan Thế Ruệ, ông nói nghe “thối quá”!

Xin lỗi bạn đọc vì đã dùng từ không được sạch để đặt tiêu đề cho bài viết. Nhưng nghĩ rằng, chỉ có từ đó mới phù hợp cho phát ngôn của ông Phan Thế Ruệ - Chủ tịch Hiệp Hội Xăng Dầu Việt Nam: “Về động tĩnh tăng thuế bảo vệ môi trường lên 8.000 đồng/lít nhưng chưa có lộ trình cụ thể. Chúng tôi rất ủng hộ sớm điều chỉnh thuế nội địa lên, ít nhất là đưa thuế tiêu thụ đặc biệt và bảo vệ môi trường lên làm sao cho chiếm trên 50% cơ cấu giá để đảm bảo thu ngân sách Nhà nước” (theo Dân Trí).

Ông Phan Thế Ruệ - Chủ tịch Hiệp Hội Xăng Dầu Việt Nam

Ông Ruệ còn nhấn mạnh.“Là người công dân phải có nghĩa vụ nộp thuế, nộp ngân sách”.

Không biết trình độ của ông chủ tịch Hiệp hội xăng dầu Việt Nam cao cỡ nào mà nói nghe thối quá. Ông ta không chịu hiểu một điều cơ bản rằng, nếu giá xăng tăng thêm 8.000đ/lít thì chi phí vận chuyển tăng, khi đó giá cả hàng hóa tất sẽ tăng theo, người tiêu dùng phải gánh chịu. Trong khi thu nhập không tăng, đồng tiền lại ngày càng mất giá. Và người càng nghèo, càng chịu ảnh hưởng.

Tưởng rằng, thuế nhập khẩu xăng dầu giảm người dân sẽ được hưởng lợi. Nhưng nhà nước lại vẽ ra các khoản thu mới để bù vào khoản hụt thu đó. Như vậy thì giảm thuế nhập khẩu để làm gì? Thay vì thu thế nhập khẩu của doanh nghiệp nước ngoài thì lại đi móc túi dân. Hiện tại, Việt Nam đang có giá xăng rất đắt so với thu nhập bình quân (đắt thứ 3 trên thế giới).

Xin hỏi ông một câu, công dân có nghĩa vụ nộp thuế, nộp ngân sách, vậy họ cũng có quyền được biết những đồng tiền đó chi tiêu như thế nào. Nhưng đã bao giờ nhà nước công khai, minh bạch ngân sách cho dân biết chưa? Khi đầu tư các dự án có khi nào người dân được ý kiến, nhưng khi hoạt động không hiệu quả, thua lỗ thì bắt người dân phải gánh chịu. Còn những kẻ vạch ra các dự án thất bại đó chỉ bị kiểm điểm, rút kinh nghiệm. Nợ công ai trả?

Còn cái gọi là thuế môi trường thì mù mờ quá. Thà cứ nói thẳng như thế này cho người dân dễ hiểu, ngân sách giờ thâm hụt, nhà nước thu thêm thuế để bù.

Thuế là nguồn thu để phát triển đất nước và mọi công dân điều phải có nghĩa vụ nộp thuế là điều không có gì bàn cãi. Nhưng vấn đề là, nhà nước phải quản lý và sử dụng tiền thuế sao cho hiệu quả và tạo ra một hệ thống an sinh và phúc lợi xã hội phục vụ người dân. Chứ không phải là như hiện nay, nhà nước sử dụng vung vãi ngân sách rồi khi thâm hụt lại tùy tiện đặt và tăng các loại thuế để bù. Ở các nước phát triển như Mỹ, Anh, Đức, Đan Mạch, Thụy Điển… tuy người dân đóng thuế rất cao nhưng con em họ đi học không mất tiền, khám chữa bệnh miễn phí, các chế độ phúc lợi xã hội rất tốt. Và đồng thời Chính phủ các nước đó quản lý và sử dụng ngân sách rất tốt nên người dân rất yên tâm.

Trong khi người dân Việt Nam thu nhập thấp, đã phải đóng nhiều thuế, phí lại còn phải chịu nhiều khoản chi phí khác rất tốn kém. Xin hỏi, thời nay còn ở đâu trên thế giới này có cảnh người dân phải khóc trước các khoản thu như ở Can Lộc (Hà Tĩnh). Cán bộ thuế tịch thu cả giường ngủ của dân, bà lão 80 tuổi nằm liệt giường cũng phải đóng quỹ, đứa trẻ mới sinh ra đã đóng tiền nghĩa trang như ở Thanh Hóa. Đã có rất nhiều trẻ em không thể đến trường vì cha mẹ không có tiền đóng học, bệnh nhân xin về nhà chết vì không có đủ tiền chi trả viện phí.

Nói thì nghe hay lắm, nào là tiết kiệm, chắt chiêu từng đồng tiền thuế của dân, không lãng phí tiền thuế của dân… nhưng việc làm thì khác một trời một vực. Cây cầu xây cả chục tỷ xây dựng nửa chừng bỏ, quảng trường ngàn tỷ xây xong bỏ hoang, cổng chào trăm tỷ xây để nhìn chơi, trường học, bệnh viện, cầu đường mới khánh thành hôm trước hôm sau nứt…. Có ở đâu như nước ta, lấy tiền thuế của dân làm đường, làm cầu rồi xây trạm thu phí. Doanh nghiệp làm sân bay kinh doanh thua lỗ lại xin tiền ngân sách bù. Trong khi hàng triệu người dân nghèo mơ ước cả đời được một lần đi máy bay.

Dân đóng thuế không những nuôi bộ máy chính quyền mà còn nuôi Đảng và các tổ chức đoàn, hội. Nên có người nói mỉa mai rằng, người dân Việt Nam khỏe nhất thế giới.

Người Việt không những khỏe mà còn rất cam chịu.

Định An

Thứ Ba, 16 tháng 5, 2017

Nợ nần,hết tiền,Việt Nam muốn hạn chế các lễ kỷ niệm

Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch Việt Nam vừa công bố dự thảo nghị định hạn chế kỷ niệm các ngày thành lập, ngày truyền thống để “hạn chế phô trương, gây tốn kém, lãng phí ngân sách”.

Một trong hàng chục ngàn bộ ấm chén mà chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc đặt để làm quà kỷ niệm 20 năm ngày tái lập tỉnh. (Hình: Thanh Niên)
Do liên tục bội chi, nợ nần càng ngày càng lớn, chính quyền Việt Nam đã yêu cầu tiết kiệm tối đa song không ngăn được hệ thống công quyền tiếp tục vung tiền vào những chuyện từng bị công chúng thường xuyên chỉ trích là lãng phí (động thổ, khánh thành, kỷ niệm, chào mừng,…).

Sau khi Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam vứt đi 70 tỉ đồng để mua quà nhân cái gọi là “Ngày truyền thống thợ mỏ” hồi tháng 2, sang tháng ba, tới lượt chính quyền tỉnh Vĩnh Phúc chi 65 tỉ để “kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh”. Theo báo chí Việt Nam, trong 65 tỉ vừa kể, có 54 tỉ được dùng để sắm quà, 9 tỉ còn lại được dùng vào nhiều hoạt động chào mừng, bao gồm cả việc chiêu đãi đến 3.000 khách.

Dẫu chính phủ Việt Nam đã ra lệnh thanh tra vụ dùng ngân sách để “kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh Vĩnh Phúc” nhưng chẳng có gì bảo đảm hệ thống công quyền sẽ tiết kiệm. Đó cũng là lý do chính quyền Việt Nam phải soạn thảo nghị định hạn chế kỷ niệm.

Cục Văn hóa cơ sở của Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch Việt Nam ước tính, tại Việt Nam hiện có hơn… 200 ngày thành lập, ngày truyền thống của các bộ, các ngành, các địa phương. Trong đó, kỷ niệm cấp quốc gia có 7 ngày. Kỷ niệm “ngày thành lập” các bộ, ngành, địa phương có 87 ngày. Kỷ niệm “ngày truyền thống” của các bộ, ngành, địa phương có 121 ngày. Đó là chưa kể 63/63 tỉnh, thành phố đang kỷ niệm “ngày thành lập”, “ngày tái lập” riêng.

Theo tường thuật của tờ Người Lao Động thì cơ quan vừa kể được yêu cầu soạn thảo nghị định chống kỷ niệm để “siết lại việc tổ chức kỷ niệm vốn đang tràn lan” nhưng “chưa có văn bản qui định cụ thể về điều kiện, trình tự, thủ tục, mạnh ai nấy làm”.

Bà Trịnh Thị Thủy, Cục trưởng Cục Văn hóa cơ sở, nói thêm, một số tỉnh, thành phố tổ chức kỷ niệm “ngày thành lập”, “ngày tái lập” với quy mô lớn. Sau phần lễ luôn là chương trình nghệ thuật chào mừng với sự tham gia của hàng trăm nghệ sĩ, hàng ngàn khách mời tham dự,… tiêu tốn hàng chục tỉ. Việc chiêu đãi, tặng quà, tặng hoa khi tổ chức các ngày kỷ niệm tốn kém, lãng phí, nhân dân không đồng tình. Thậm chí, một số tỉnh, thành vừa tổ chức mừng tròn năm “ngày thành lập”, vừa tổ chức mừng tròn năm “ngày tái lập”. Các quận, huyện, thị xã, đơn vị sự nghiệp, các tổ chức kinh tế, chính trị, chính trị – xã hội – nghề nghiệp… cũng thi nhau tổ chức kỷ niệm thường xuyên.

Được xem như một hành động pháp lý để tiết kiệm, chống lãng phí nhưng dự thảo của nghị định vừa kể cũng vẫn duy trì việc tổ chức “ngày thành lập”, “ngày truyền thống”, kèm các hướng dẫn cụ thể về nghi thức, trình tự khá rườm rà. Cho phép mời từ 300 (nếu làm trong hội trường) đến 500 khách (nếu làm ngoài trời) và khuyến khích mời một trong bốn trụ cột (Tổng Bí thư, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Nhà nước, Thủ tướng) khi kỷ niệm “ngày thành lập” tỉnh, thành phố!

Bình luận về dự thảo vừa kể, ông Nguyễn Văn Vịnh, cựu Viện phó Viện Nghiên cứu phát triển xã hội, bảo rằng một nghị định hạn chế ăn nhậu, múa hát là cần thiết vì chi tiêu cho động thổ, khánh thành, kỷ niệm ngốn quá nhiều tiền của ngân sách.

Cho đến nay, chính quyền Việt Nam không cho biết những hoạt động ăn nhậu, múa hát như thế đã ngốn bao nhiêu tiền mỗi năm.

(Người Việt)