Thứ Sáu, 11 tháng 8, 2017

MẤY Ý KIÊN VỀ NHÂN VẬT PHẠM NGỌC THẢO

Nguyn Xuân Minh đã chia sẻ bài viết của Hunh Duy Lc.
https://www.facebook.com/rsrc.php/v3/yA/r/edLoz3xikQz.png
- Lê Nguyễn
Bạn Huỳnh Duy Lộc
Trong hình ảnh có thể có: 11 người, mọi người đang cười, mọi người đang ngồi
Đọc xong status của Lộc về nhân vật Phạm Ngọc Thảo, tôi viết mấy ý trong phần bình luận, song càng viết càng thấy dài, mà bình luận dài hơn bài chính thì … kỳ quá. Vì vậy, xin phép Lộc cho tôi trích dẫn bài của bạn, để dựa vào đó mà bổ sung “tùy hứng” một số ý kiến của riêng mình. 
Chuyện về các nhân viên tình báo của miền Bắc hoạt động tại miền Nam những năm 1954-1975, ngoại trừ trường hợp Phạm Xuân Ẩn còn có thể phối kiểm được do ông Ẩn từng làm việc cho ngành truyền thông Mỹ, đa số những trường hợp còn lại thường được thêm thắt, vẽ vời, thậm chí xuyên tạc, để cố tô son vẽ phấn cho các nhân vật được miền Bắc giao trách nhiệm lũng đoạn chính trị tại miền Nam. Quyển tiểu thuyết và bộ phim Ván Bài Lật Ngửa là một ví dụ cụ thể về nhân vật “Nguyễn Thành Luân” trong Phủ Tổng thống Sài Gòn. Thời đó, ông Diệm không đòi hỏi, song với tinh thần rất tôn trọng ông, hầu hết Bộ trưởng vào gặp ông, khi ra về đều đi lui nhiều bước rồi mới quay lưng đi hẳn, báo hại có lần một ông vấp té, làm bể một cái đôn trong phòng khánh tiết. Bộ trưởng còn cách biệt với tổng thống, cố vấn chính trị tổng thống như thế, hà cớ gì anh đại úy Phạm Ngọc Thảo quèn không đáng xách cặp cho họ lại có thể thao túng trong phủ như chỗ không người? Một vài tài liệu cho biết ông Thảo nguyên là Tiểu đoàn trưởng của VM, “hồi chánh” thời ông Diệm, là một “chiến lược gia” về du kích, có nhiều bài đăng về lãnh vực này trên tạp chí Bách Khoa – Sài Gòn, những năm cuối thập niên 1950, đầu thập niên 1960. Chuyện Phạm Ngọc Thảo làm tỉnh trưởng Kiến Hòa là do sự vận động của bào huynh ông Diệm là giám mục Ngô Đình Thục, lúc đó ở giáo phận Vĩnh Long, vì Thảo cũng là dân Công giáo. Xin nói thêm, khi làm tỉnh trưởng Kiến Hòa, ông Phạm Ngọc Thảo mới mang cấp bậc trung tá. Lúc đó, tôi chẳng hề nghe qua báo chí chuyện ông tỉnh trưởng Kiến Hòa này thả hai ngàn cán bộ CS: chỉ mới sau Đồng khởi một vài năm, cán bộ CS ở đâu mà VNCH bắt nhiều dữ thế? Thời đó, chỉ có một chuyện được nhiều người biết là chuyện ông Đốc phủ sứ Nguyễn Trân, tỉnh trưởng Định Tường, dàn cảnh việc “đấu lý” với 14 cán bộ CS, trong đó có nhà văn Nguyễn Bảo Hóa (Tô Nguyệt Đình) và thầy dạy tôi, ông Nguyễn Văn Vàng, hứa nếu tranh luận thua sẽ thả họ, và cuối cùng, ông Trân “chịu thua”, thả hết 14 người này. Sau ngày đảo chánh 1.11.1963, một cuộc tranh giành quyền lực diễn ra trong đám tướng lãnh “kiêu binh”, xã hội rối beng, anh nào cũng muốn dây máu ăn phần, cũng muốn ngoi lên làm lãnh tụ, Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát … nằm trong số những người như vậy. Sau những màn đảo chánh nhau thất bại, ông Thảo trốn chui trốn nhủi trong một giáo xứ thuộc phạm vi Biên Hòa, một thời gian lâu sau, có hôm bị phát hiện, không đứng lại theo lệnh dừng, bỏ chạy và bị bắn chết (theo tin của báo chí đương thời). Ở phần bình luận trong bài của bạn Huỳnh Duy Lộc, một bạn FB đã có lý khi đặt ra câu hỏi: với công lao, thành tích đóng góp như thế, sao ông Phạm Ngọc Thảo không được phe thắng cuộc vinh danh, không được đặt tên đường? Do "tội hồi chánh" chăng? 
Chuyện về nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ cũng thế. Thời tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, về mặt chính danh, người đứng đầu trong vụ tiếp xúc với MTDTGPMNVN là ông Huỳnh Văn Trọng (nguyên Đổng lý ngự tiền vua Bảo Đại), chức danh Cố vấn chính trị, Phụ tá tại phủ Tổng thống, xếp ngang tổng trưởng, còn Vũ Ngọc Nhạ chỉ là một trong những chuyên viên làm việc trong nhóm ông Trọng mà thôi (tất nhiên về mặt đảng CS, ông Nhạ là người lãnh đạo nhóm cán bộ, đảng viên do ông cầm đầu riêng). Sau 1975, báo chí khai thác rùm beng vai trò của ông Nhạ, thổi lên tận mây xanh, tôn xưng là “ông Cố vấn”. Nhân vật này hả hê với vai trò “tối cao” của mình, tha hồ vẽ vời những trò tra tấn, hành hạ của chính quyền VNCH đối với ông ta cùng các đồng sự. Cuối năm 1970, khi tôi ra làm việc tại Côn Sơn (Côn Đảo), thì hai ông Huỳnh Văn Trọng và Vũ Ngọc Nhạ còn thụ án ở trại Chí Hòa, nhóm của hai ông, trong đó có Nguyễn Xuân Hòe (nhân vật số 3 sau ông Nhạ), Bửu Chương, Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Văn Hiếu …, cùng với nhóm Trung tá Trần Đình Vọng, nguyên tỉnh trưởng Bình Định, mỗi nhóm được cấp một căn nhà riêng trên đảo, đi làm “công nhân văn phòng” ở các ty sở, một dạng “công chức không lương”, hết giờ hành chánh thì về nhà tha hồ đi tắm biển, mua sắm, nghỉ ngơi. Trong một dịp trả lời phỏng vấn trên Facebook, tôi từng kể rằng, có chủ nhật, tôi lấy xe chở họ đi chơi ở Bến Đầm, cách trung tâm thị trấn hơn 10 km. Họ là “tù cha” thiên hạ, thế mà trong hồi ký của ông Nhạ, chuyện tra tấn, nhục hình nhóm của ông ta diễn ra vô cùng khốc liệt! Tôi khinh bỉ thái độ té nước theo mưa, giậu đổ bìm leo như thế.
Xin phép hương hồn ông Nguyễn Xuân Hòe để kể lại một chuyện của ông, trong những ngày ông ở tù và chủ nhật nào ông cũng đến nhà tôi thăm tôi, cho tôi mượn các tạp chí Time, Newsweek (do người nhà ông gửi ra cho ông xem) để đọc và cùng tôi tán gẫu chuyện thời sự quốc nội, quốc tế. Theo ông, vào nửa sau thập niên 1960, có hai sự kiện là “đòn đánh nhau” giữa sứ quán Mỹ (đại diện lập trường của chính phủ Mỹ) và phủ Tổng thống VNCH. Sự kiện thứ nhất là việc an ninh VNCH bắt giữ đại úy MTGP Trần Ngọc Hiền (anh ruột ông Trần Ngọc Châu, từng là trung tá tỉnh trưởng Kiến Hòa, sau là dân biểu Quốc hội VNCH) khi ông này từ chiến khu vào Sài Gòn để tiếp xúc với phía Mỹ. Theo ông Hòe, Phủ Tổng thống Sài Gòn làm thế để dằn mặt Mỹ vì Mỹ tự ý thương thảo với MTGP mà cố tình phớt lờ họ. Sau khi bị bắt, ông Hiền ra tòa và ở tù tại Côn Đảo, tại đây, nhiều lần ông đến thăm tôi, vì nhiều lý do khác nhau. 
Sự kiện thứ hai là “vụ Huỳnh Văn Trọng – Vũ Ngọc Nhạ”, lại là cú phản đòn của phía Mỹ. Theo lời ông Hòe, ông Huỳnh Văn Trọng,với tư cách Cố vấn, Phụ tá chính trị tại Phủ Tổng thống, được Tổng thống Thiệu giao phó sứ mạng tiếp xúc riêng với phía miền Bắc và MTGP mà không thông báo cho phía Mỹ biết. Sứ quán và cơ quan tình báo Mỹ ghi âm được những cuộc trao đổi giữa hai phía bằng thiết bị riêng và cuối cùng tung lên trên các phương tiện truyền thông, ông Thiệu ở vào thế phải hi sinh những trợ lý của mình. Giả thuyết của ông Nguyễn Xuân Hòe, tôi chưa từng nghe ai nói đến bao giờ, xin kể lại với tất cả sự dè dặt.
Sau ngày ký hiệp định Paris 27.1.1973, trong cuộc trao đổi tù binh, báo chí miền Nam đăng tin ông Huỳnh Văn Trọng xin ở lại miền Nam. Chuyện đó dễ hiểu, vì ông Trọng không phải là người CS. Và cũng dễ hiểu khi sau 1975, chức danh “cố vấn tổng thống” của ông Trọng được ngang nhiên khoác cho người đảng viên cao cấp nhất trong nhóm ông Trọng là ông Vũ Ngọc Nhạ. Thậm chí có báo còn "khuyến mãi" thêm cho ông Nhạ chức cố vấn của ông Diệm nữa!!!
Chuyện viết về các nhân vật của phía thắng cuộc hay phía thua cuộc trong cuộc nội chiến 20 năm đã qua đòi hỏi người viết, và nhất là người trong cuộc, phải có thái độ trung thực, khách quan, té nước theo mưa hay quơ quào mọi “chiến công, thành tích” về mình, bất chấp sự thực khách quan như thế nào, là hành vi đắc tội với lịch sử.
Lê Nguyễn
10.8.2017

Trong hình ảnh có thể có: 11 người, mọi người đang cười, mọi người đang ngồi
Trong hình ảnh có thể có: 1 người, cận cảnh
Trong hình ảnh có thể có: 7 người, đám đông
Trong hình ảnh có thể có: 1 người, đang đứng và ngoài trời

with Huỳnh Duy Lộc, Tien Dang Manh Kim, Kim Lang Le Hoa Ngoc, Hoàng Thị Ngọc Trâm Bổn Đình Nguyễn

https://www.facebook.com/rsrc.php/v3/yA/r/edLoz3xikQz.png
Đại tá Phạm Ngọc Thảo, nguyên mẫu của Nguyễn Thành Luân trong bộ phim “Ván bài lật ngửa”
Phạm Ngọc Thảo sinh ngày 14 tháng 2 năm 1922 tại trong một gia đình theo đạo Công giáo, có tên thánh là Albert nên còn được gọi là Albert Thảo hay Chín Thảo vì ông là người con thứ 9 trong gia đình. Thuở nhỏ, ông học ở trường tư thục Công giáo Lasan Taberd nổi tiếng ở Sài gòn và sau khi thi tú tài, khác với những anh em trong gia đình, ông không sang Pháp du học mà ra Hà Nội theo học Trường Kỹ sư Công chánh Hà Nội. Khi Cách Mạng Tháng Tám bùng nổ, anh cả của ông là Phạm Ngọc Thuần tham gia Việt Minh ở Vĩnh Long và được cử giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam bộ. Khi Luật sư Phạm Văn Bạch ra miền Bắc, ông Thuần làm Chủ tịch Ủy ban Hành chính Kháng chiến Nam bộ kiêm Chính ủy Bộ Tư lệnh Nam bộ. Sau khi tốt nghiệp Trường Kỹ sư công chánh ở Hà Nội, khi Pháp bội ước quay lại xâm chiếm Việt Nam, Phạm Ngọc Thảo từ bỏ quốc tịch Pháp, trở về Vĩnh Long theo anh tham gia kháng chiến, làm việc ở Văn phòng Uỷ ban Kháng chiến hành chính Nam bộ. Năm 1946, Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn khai giảng, ông đã cùng 12 người ở Nam bộ được cử ra Sơn Tây học tập. Tốt nghiệp khóa I, ông được điều về Phú Yên nhận nhiệm vụ giao liên. Khi trở về miền Nam, ông được giao nhiệm vụ Trưởng phòng mật vụ Ban quân sự Nam bộ – tổ chức tình báo đầu tiên ở Nam bộ, rồi được bổ nhiệm làm tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410, Quân khu 9.
Sau khi Hiệp định Genève được ký kết (năm 1954), ông về Vĩnh Long dạy học. Vùng này là giáo phận của giám mục Ngô Đình Thục vốn quen biết gia đình ông từ lâu. Giám mục Ngô Đình Thục rất quý mến ông, đã bảo lãnh cho ông vào dạy học ở trường Nguyễn Trường Tộ. Về sau, cũng chính giám mục Ngô Đình Thục đã giới thiệu ông với ông Ngô Đình Nhu và ông được sắp xếp vào làm việc ở Sở Tài chánh Nam Việt. Sau khi gia nhập đảng Cần Lao, ông phụ trách tổ quân sự, nghiên cứu chiến lược, chiến thuật quân sự và huấn luyện quân sự cho các đảng viên đảng Cần Lao. Biết ông từng là chỉ huy quân sự của Việt Minh, đầu năm 1961, Tổng thống Ngô Đình Diệm đã quyết định thăng ông lên cấp bậc trung tá và cử ông làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre ngày nay) để thử nghiệm Chương trình Bình định.
Nhà báo Stanley Karnow đã viết về những hoạt động của Phạm Ngọc Thảo vào thời kỳ này: “Chương trình ấp chiến lược bắt đầu thực hiện vào đầu năm 1962 là một kế hoạch tập trung nông dân vào những khu vực có rào chắn đặt dưới sự kiểm soát của binh lính, làm mất đi cơ sở giúp cho Việt cộng tồn tại như Mao Trạch Đông đã từng nói: Du kích quân không thể tồn tại nếu không có dân giống như cá không thể sống thiếu nước… Điều đáng chú ý là người trợ giúp ông Ngô Đình Nhu thực hiện chương trình ấp chiến lược lại là đại tá Phạm Ngọc Thảo (khi ấy là tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa, tức Bến Tre ngày nay), một điệp viên của Cộng sản. Nhiều năm về sau, các tài liệu của người Cộng sản cho biết rằng Phạm Ngọc Thảo đã có chủ ý đẩy thật nhanh tiến độ thực hiện chương trình ấp chiến lược để cho những người nông dân miền Nam trở nên thù nghịch với chế độ và về phe Việt cộng… Hàng chục nhóm khác nhau đã có âm mưu lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm và mãi đến cuối năm 1963, họ đã hợp sức thành một âm mưu duy nhất. Một người đã sớm có âm mưu lật đổ ông Diệm là bác sĩ Trần Kim Tuyến, một người đàn ông thấp bé nói giọng the thé, được coi như một trong những khuôn mặt hắc ám nhất ở Sàigòn. Ông điều hành Sở Nghiên cứu Chính trị & Xã hội, tổ chức mật vụ được thành lập với sự giúp sức của CIA để theo dõi những người bất đồng chính kiến. Là một người Công giáo từ miền Bắc di cư vào Nam vào năm 1954, ông sợ rằng sự thất bại của ông Diệm sẽ đưa tới chiến thắng của những người Cộng sản. Điều nực cười là phe nhóm của ông bao gồm cả những người ông đã từng đưa vào “danh sách đen” và ông cũng lôi kéo cả những sĩ quan quân đội cấp thấp đang bất mãn. Ông hợp tác với đại tá Phạm Ngọc Thảo mà không biết gì về những mối liên hệ bí mật của vị đại tá này. Tuyến và Thảo đã lên kế hoạch thực hiện nhanh một cuộc đảo chánh có thể giúp họ đi trước một bước những kẻ có âm mưu đảo chánh khác. Thế nhưng Lucien Conein biết trước âm mưu này, đã báo cho tướng Trần Thiện Khiêm, Tổng tham mưu trưởng Bộ Tổng tham mưu, và ông này đã chặn đứng cuộc đảo chánh. Ông Nhu đày bác sĩ Trần Kim Tuyến sang làm tổng lãnh sự ở thủ đô Cairo của Ai Cập…Thảo lại về với phe nhóm nổi dậy của Trần Thiện Khiêm, về sau sẽ trở thành phe nhóm chủ lực thực hiện âm mưu đảo chánh…” (Vietnam, a history, tr. 237, 257, 290).
Sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ vào tháng 11 năm 1963, đại tá Phạm Ngọc Thảo và tướng Lâm Văn Phát lại dính líu vào âm mưu lật đổ tướng Nguyễn Khánh nên bị Nguyễn Khánh đẩy sang Đại sứ quán Việt Nam Cộng hòa ở Washington rồi lại bị triệu hồi về nước. Ông lại tiếp tục âm mưu đảo chánh năm 1965 rồi sau một cuộc bàn thảo tay ba tại căn cứ không quân Biên Hòa giữa tướng Nguyễn Cao Kỳ, tướng Lâm Văn Phát và ông, tướng Nguyễn Khánh đã chấp nhận điều kiện do Lâm Văn Phát và ông đưa ra, rời Việt Nam để bắt đầu cuộc sống lưu vong ở xứ người. Nhưng lúc này, vỏ bọc của Phạm Ngọc Thảo cũng rơi xuống.
GS Thomas A. Bass viết về kết cục bi thảm của đại tá Phạm Ngọc Thảo: “Thảo là một chuyên gia đảo chánh”, Phạm Xuân Ẩn nói. “Ông không ngừng ra sức lật đổ chính phủ và tránh cho Việt Nam thêm một thập kỷ chiến tranh, nhưng vận may của ông đã hết vào năm 1965, khi ông bị (An ninh quân đội) bắt sau một cuộc đảo chánh thất bại. Họ bóp nát tinh hoàn của ông. Sau đó, họ siết cổ ông...” (The spy who loved us, bản tiếng Việt tr. 354, 355)
Tư liệu về Phạm Ngọc Thảo - một bài viết về Phạm Ngọc Thảo của một người bạn của ông: http://huunguyenddk.blogspot.com/…/pham-ngoc-thao-ong-la-ai…

Ảnh: Đại tá Phạm Ngọc Thảo

BBC: Ông Hoàng Văn Hoan và vụ thanh trừng 1979


Ông Hoàng Văn Hoan (thứ nhì từ trái sang) lãnh đạo phái đoàn Việt Minh đứng cạnh Thứ trưởng Ấn Độ KG Mathur tại Dehli năm 1954Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionÔng Hoàng Văn Hoan (thứ nhì từ trái sang) lãnh đạo phái đoàn Việt Minh đứng cạnh Thứ trưởng Ấn Độ KG Mathur (đeo kính) tại Dehli năm 1954, bên trái ông Mathur là ông Hà Văn Lâu
Nhân kỷ niệm Chiến tranh Biên giới Việt - Trung 1979, BBC đăng lại bài của tiến sĩ Balazs Szalontai về số phận ông Hoàng Văn Hoan, người từng là lãnh đạo cao cấp nhưng bị 'tử hình vắng mặt' vì chạy theo Trung Quốc:
Khi đã lưu vong ở Trung Quốc (TQ), Hoàng Văn Hoan, nhân vật lãnh đạo vào hàng cao cấp nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đào thoát ra nước ngoài từ trước tới nay, nói rằng sau cuộc chiến Việt - Trung, có tới 300.000 đảng viên thân Trung Quốc bị phe “thân Liên Xô” của Lê Duẩn loại bỏ.
Một cuộc thanh trừng nội bộ quả đã diễn ra trong 1979-80, nhưng như hồ sơ Hungary tiết lộ, ông Hoan đã phóng đại nhiều về tầm mức.
Việc thanh trừng vừa là nỗ lực bóc tách các “phần tử thân TQ” thật sự và tiềm năng, nhưng nó cũng là biểu hiệu của khủng hoảng kinh tế - xã hội ăn sâu ở VN.

Vai trò cá nhân

Sự đóng góp của ông Hoàng Văn Hoan cho phong trào Cộng sản VN không to lớn như ông nói mà cũng không nhỏ bé như phát ngôn nhân của Hà Nội cáo buộc sau khi ông đã bỏ trốn sang Trung Quốc.
Là thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương, ông có thời gian dài ở TQ. Trong cuộc chiến kháng Pháp, ông giữ chức thứ trưởng quốc phòng.
Năm 1948, ông được giao việc thành lập Văn phòng Hải ngoại ở Thái Lan, và sau đó là đại sứ đầu tiên của Bắc Việt ở Trung Quốc.
Mặc dù là thành viên thứ 13 trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1956, và sau này vào Bộ Chính trị, nhưng Hoan không thuộc vào nhóm lãnh đạo chủ chốt nhất.
Vị trí cao nhất ông từng giữ là phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, và không nằm trong Ban Bí thư đầy quyền lực. Kết quả là, vị trí của ông bị lung lay hơn trước biến đổi trong quan hệ Việt - Trung, khi so với Trường Chinh hay Lê Duẩn là những người luôn có thể giữ vị trí, cho dù Hà Nội thân thiện với Bắc Kinh hay không.
Được biết vì tình cảm thân thiện với TQ, ông Hoan đạt đỉnh cao sự nghiệp vào đầu thập niên 1960 khi Bắc Việt tạm thời có thái độ thân TQ trong tranh chấp Liên Xô - TQ. Năm 1963, khi Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị thay bằng Xuân Thủy (thân TQ hơn), ông Hoan cũng thành Trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng.
Nhưng trong giai đoạn 1965-66, quan hệ Xô - Việt bắt đầu cải thiện, cùng lúc với căng thẳng gia tăng giữa Hà Nội và Bắc Kinh. Trong môi trường mới này, ban lãnh đạo cảm thấy cần thay cả Xuân Thủy và Hoàng Văn Hoan bằng những cán bộ ít dính líu hơn đến chính sách thân TQ trước đây của ban lãnh đạo Hà Nội.
Năm 1971-72, Hà Nội bất mãn vì Trung - Mỹ làm hòa, có vẻ càng làm vị thế ông Hoan bị suy giảm.
Dù vậy ông vẫn là nhân vật quan trọng trong quan hệ Việt - Trung.
Ví dụ, năm 1969, chính ông đã giúp hoàn tất cuộc đàm phán kéo dài và khó khăn quanh viện trợ kinh tế của TQ. Tháng Năm 1973, ông tiến hành hội đàm bí mật tại Bắc Kinh về vấn đề Campuchia.
Năm 1974, ông Hoàng Văn Hoan cùng Nguyễn Côn, Bí thư Trung ương Đảng, đi TQ để “chữa bệnh”, nhưng có thể sứ mạng thực sự lại liên quan đến đàm phán biên giới bí mật Việt - Trung từ tháng Tám tới tháng 11, mà kết quả đã thất bại.
Lãnh tụ Bắc VN, ông Hồ Chí Minh ăn trưa cùng Chủ tịch TQ Lưu Thiếu Kỳ tại Bắc Kinh tháng 8/1959Bản quyền hình ảnhAFP
Image captionLãnh tụ Bắc VN, ông Hồ Chí Minh ăn trưa cùng Chủ tịch TQ Lưu Thiếu Kỳ tại Bắc Kinh tháng 8/1959
Sự khác biệt giữa Trung Quốc và Việt Nam về Campuchia và Hoàng Sa đã không thể hàn gắn và làm cho Hoàng Văn Hoan không còn có thể đóng vai trò trung gian thành công. Lê Duẩn và các đồng chí kết luận họ không còn cần ông nữa. Những liên lạc của ông với Bắc Kinh nay bị xem là rủi ro an ninh.
Sau Cuộc chiến Việt Nam, những cán bộ mà Lê Duẩn không còn cần hoặc tin tưởng dần dần bị thay thế. Năm 1975, công chúng không còn thấy Nguyễn Côn, và năm sau, Hoàng Văn Hoan bị ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Năm 1979, khi xung đột Việt - Campuchia và Việt - Trung lan rộng thành chiến tranh, vị trí của ông Hoan càng trở nên bấp bênh. Sang tháng 6, ông quyết định đào tẩu.
Lấy cớ ra nước ngoài chữa bệnh, ông đã xuống máy bay ở Pakistan và sang Trung Quốc, ở lại đó cho tới ngày qua đời năm 1991.
Tại nhiều cuộc họp báo, Hoàng Văn Hoan giải thích sự đào tẩu bằng cách nhấn mạnh ông đã từ lâu chống đối chính sách của Lê Duẩn, mà theo ông là đã biến Việt Nam thành vệ tinh Xô Viết, làm người Hoa bị phân biệt đối xử, và dẫn tới việc chiếm đóng Campuchia. Cáo buộc của ông một phần dựa trên sự thật, vì ngay từ tháng Giêng 1977, Đảng Cộng sản VN đã dự định giải tán và tái định cư một phần cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn.
Hiệp ước Việt - Xô 1978 cũng là một phần quan trọng cho sự chuẩn bị đánh Campuchia.
Nhưng mặt khác, ông Hoan và phía bảo trợ là Trung Quốc dễ dàng bỏ qua là năm 1978, Việt Nam vẫn tìm cách tránh phụ thuộc Moscow quá mức bằng việc cải thiện quan hệ VN - Asean, và thảo luận cả khả năng gia nhập Asean trong tương lai.
Sự đào thoát của ông Hoan hẳn làm Bộ Chính trị vô cùng lúng túng vì họ vẫn quen tự mô tả mình là mẫu mực đoàn kết.
Bắc Kinh càng làm vết thương thêm đau rát. Hai ngày sau khi tới Bắc Kinh, Hoàng Văn Hoan được Tổng Bí thư Hoa Quốc Phong đón tiếp, và ông Hoa tuyên bố “những kẻ phá hoại tình hữu nghị Việt - Trung sẽ vỡ đầu”.
Các ông Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh bên linh cữu Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1969 ở Hà NộiBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionCác ông Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh bên linh cữu Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1969 ở Hà Nội
Mặc dù Việt Nam nhấn mạnh sự trốn chạy của Hoàng Văn Hoan chỉ là trường hợp riêng lẻ, nhưng Bộ Chính trị biết chính sách của họ không được toàn dân ủng hộ.
Mùa xuân 1979, khi giới chức bắt 8000 Hoa kiều tái định cư từ Hà Nội vào “Vùng Kinh tế Mới”, nhiều người Việt Nam đã không đồng ý khi các đồng đội người Hoa của họ bị buộc ra đi. Khác biệt cũng tồn tại trong nội bộ lãnh đạo.
Tháng Sáu 1978, Trường Chinh và Lê Văn Lương ban đầu phản đối việc thông qua nghị quyết gọi TQ là kẻ thù nguy hiểm nhất của VN.

Khủng hoảng xã hội

Sự thanh trừng không lớn như ông Hoàng Văn Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt - Trung.
Quyết loại bỏ những thành phần “bội phản”, giới chức có những biện pháp khắc nghiệt. Người Mèo và các cộng đồng thiểu số khác một phần đã phải ra đi khỏi các tỉnh miền bắc. Tại phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương trong tháng Tám, ban lãnh đạo bàn vụ Hoan trốn thoát và chỉ trích ngành an ninh.
Nhiều cán bộ cao cấp, như Lý Ban, cựu thứ trưởng ngoại thương có gốc Hoa, bị quản thúc. Tháng Giêng 1980, Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn bị buộc về hưu. Kiểm soát ngành an ninh được chuyển sang cho một ủy ban mới thành lập do Lê Đức Thọ đứng đầu. Xuân Thủy, người đã tiễn chân ông Hoan hồi tháng Sáu, cũng bị giáng chức.
Tuy nhiên, sự thanh trừng không lớn như ông Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt - Trung.
Trước hết, các vụ thanh trừng trong hàng ngũ Đảng đã bắt đầu từ những năm trước.
Giai đoạn 1970 - 75, chừng 80.000 đảng viên bị loại khỏi hàng ngũ, còn trong giai đoạn 1976-79, con số này là 74.000.
Chiến tranh Biên giới 1979Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionBộ đội Việt Nam ở Lạng Sơn: cuộc chiến biên giới giết chết hàng vạn người chỉ trong vòng chưa đến 30 ngày
Thứ hai, nhiều người mất thẻ Đảng vì những lý do không liên quan xung đột Việt - Trung.
Việc trục xuất các cá nhân thân Trung Quốc đạt đỉnh cao từ tháng 11-1979 tới tháng Hai 1980, nhưng từ tháng Ba, quá trình này bắt đầu chậm lại, và ưu tiên của chiến dịch sau đó hướng sang chống tham ô, biển thủ và các hành vi tội phạm.
Tại miền Nam, khu vực mà số đảng viên chỉ chiếm một phần ba của đảng, giới lãnh đạo định loại bỏ chừng 5% đảng viên (so với tỉ lệ trung bình cả nước là 3%). Điều này không chỉ chứng tỏ Hà Nội nghi ngờ dân số miền Nam mà đây còn là cố gắng kỷ luật những cán bộ người Bắc đã lạm dụng quyền lực sau khi được bổ nhiệm vào Nam.
Các vấn nạn xã hội, kinh tế và tội phạm mà Đảng Cộng sản Việt Nam phải đương đầu có vẻ khiến họ cố gắng hạn chế thiệt hại hơn là mở đợt thanh trừng chính trị to lớn.
Thất nghiệp và khan hiếm hàng hóa làm trộm cướp gia tăng. Giới chức đã phải huy động quân đội canh giữ ở cảng Hải Phòng nhưng cũng không có kết quả.
Ngược lại, một nhà ngoại giao Hungary nhận xét quân đội khi đó đang trở thành “quân dự bị gồm những kẻ tội phạm”. Không có việc làm, nhiều người lính giải ngũ đã phải thành trộm cướp.
Trong tình hình đó, ban lãnh đạo cộng sản, dù đã kết án tử hình vắng mặt với Hoàng Văn Hoan năm 1980, chỉ muốn xóa tên ông ra khỏi ký ức công chúng thay vì đưa ông ra cho người dân mắng chửi.
Và đến lúc qua đời, ông cũng đã "hết hạn sử dụng" đối với nước chủ nhà TQ, vì lúc đó, cả Hà Nội và Bắc Kinh đều muốn làm hòa chứ không cãi nhau quanh những sự kiện của quá khứ.
Tiến sĩ Balazs Szalontai là một nhà nghiên cứu độc lập ở Hungary. Ông là tác giả cuốn sách Kim Nhật Thành trong thời kỳ Khruschev (Đại học Stanford và Trung tâm Woodrow Wilson xuất bản, 2006). Bài viết dựa vào kho tư liệu tại Hungary và thể hiện quan điểm riêng của tác giả. Bài đã đăng tháng 4/2010 trên bbcvietnamese.com ở giao diện cũ.

NGUYENTANDUNG.ORG, NGUYENPHUTRONG.ORG, ( NGHI A.N PHÍA SAU) TẤN CÔNG OSIN-HUY ĐỨC

(Thời sự) - Với những chia sẻ đầy ẩn ý và liên tục tấn công hạ uy tín các lãnh đạo đất nước thời gian qua, Osin Huy Đức (facebook Trương Huy San) hiện rõ bản chất là một kẻ cơ hội chính trị, một tay bồi bút với sở trường chuyên dùng ngòi bút của mình nhân danh “nhân dân” để theo đuổi lợi ích cá nhân, cam tâm làm tay sai cho tình báo Hoa Nam bất chấp đi ngược lại lợi ích quốc gia (như đã phân tích trước đây). Huy Đức thực sự đã trở thành một “osin” chính hiệu, một con cờ đắc lực của tình báo Hoa Nam như chính tên blog của y.

3a
Qua chia sẻ mới đây của tay osin này mang tên “NGUYÊN THỦ QUỐC GIA & ĐỊNH CHẾ CHỦ TỊCH NƯỚC”, chúng ta tiếp tục có nhiều điều đáng bàn về động cơ của tay bồi bút chính trị này.
Dễ thấy, mục tiêu lần này của Huy Đức là Chủ tịch nước Trần Đại Quang và cái cớ để y tấn công là “sự vắng mặt của người đứng đầu Nhà nước trên các phương tiện truyền thông”. Huy Đức muốn chứng tỏ y là một “tay săn tin” nhanh nhạy khi nắm tường tận thông tin được xem là tối mật, có can hệ trực tiếp đến an ninh quốc gia: “Đại tướng Trần Đại Quang đi chữa bệnh từ tối 25-7-2017”, qua đó âm mưu can dự vào chính trường Việt Nam thông qua yêu cầu phải công bố thông tin này để nhân dân “cảm thấy được tôn trọng” và “tình trạng khẩn cấp có thể xảy ra bất cứ lúc nào”. Chưa rõ thực hư thông tin này ra sao, chỉ xin hỏi Huy Đức đang viết bài phục vụ cho ai? Ý đồ chính trị của ông là gì khi cho rằng cần công bố thông tin để trong trường hợp ban bố “tình trạng khẩn cấp” (về quốc phòng và chiến tranh), theo Điều 30 Luật Quốc phòng năm 2005, người dân không khỏi bất ngờ?
Selection_001
Như đã nói ở trên, thông tin về sức khỏe của nguyên thủ quốc gia can dự trực tiếp đến vận mệnh quốc gia, an ninh chính trị – xã hội trong nước, dễ tạo điều kiện cho những kẻ nhân cơ hội xuyên tạc, chống phá hòng gây bất ổn và tìm cơ hội thao túng đất nước. Do vậy, thông tin này được xếp vào loại TỐI MẬT và chắc chắn một tay bồi bút, nổi tiếng với các bài viết chống phá đất nước, hạ uy tín lãnh đạo không dễ dàng có được… NẾU NHƯ không có ai đó trong nội bộ cố tình tuồn tin cho y để phục vụ cho mưu đồ riêng – một kịch bản vẫn thường thấy không chỉ trên chính trường Việt Nam mà thế giới. Đáng nói hơn, không loại trừ khả năng nhân vật này là một tay thân TRUNG QUỐC, thậm chí là một tay sai của TÌNH BÁO HOA NAM được cài cắm vào nội bộ cấp cao nước ta để thu thập thông tin.
Thông tin Huy Đức cung cấp là THẬT hay GIẢ? Tôi không có câu trả lời.
Nhưng tại sao lại là Chủ tịch nước Trần Đại Quang? Dễ nhận thấy, ngay từ khi còn là Bộ trưởng Bộ Công an và khi đã nhận trọng trách Người đứng đầu Nhà nước, ông Trần Đại Quang luôn khẳng định quan điểm độc lập, không nhún nhường trước bất kỳ hành động nào của Trung Quốc gây phương hại đến toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Với ý chí sắc bén, quyết liệt của một vị Tướng và tấm lòng “vì dân” thể hiện qua từng quyết định, Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã chứng minh không phụ kỳ vọng của người dân và ĐBQH, mạnh mẽ thể hiện quan điểm và đưa ra những quyết sách cứng rắn trong cuộc chiến chống tham nhũng và bảo vệ chủ quyền đất nước. Thế nhưng, chính điều này lại khiến ông trở thành KẺ THÙ của các nhóm lợi ích ngày đêm đục khoét đất nước, và nguy hại hơn, trở thành CÁI GAI trong mắt Trung Quốc.
Như vậy, dễ hiểu tại sao Huy Đức – một tay sai của tình báo Hoa Nam lần này lại quay sang tấn công Chủ tịch nước Trần Đại Quang. Đã là Osin thì “ông chủ” sai khiến điều gì đều phải tuân theo, đặc biệt là Huy Đức, một tay osin sẵn sàng bán nước, bán đứng cả dân tộc để có được lợi ích cá nhân.
Còn nhớ cách đây khá lâu, khi người Trung Quốc đòi chính quyền tỉnh Hà Tĩnh cho phép họ xây miếu thờ tại cảng Vũng Áng, yêu cầu này bị các ĐBQH, người dân cả nước và báo giới lên án là “đòi hỏi chủ quyền Trung Quốc ngay trên đất nước Việt Nam”, thì status ngày 27/10/2014 trên Facebook Trương Huy San lại có nội dung rất LẠ: “Ta cho họ xây một nơi thờ tự một cách minh bạch là đàng hoàng xác lập chủ quyền của ta ngay trên chính phần đất mà họ đang sử dụng. Lẽ ra chính quyền Hà Tĩnh nên cấp phép xây dựng miếu thờ trong khu công nghiệp Vũng Áng”.
HUYDUC-CONGSAN-VUNGANH-FORMOSA1
HUYDUC-CONGSAN-VUNGANH-FORMOSA2-600x477
Ở đây có sự nhập nhằng ý nghĩa từ “TA” của Huy Đức. Chẳng lẽ Vũng Áng của Việt Nam chưa có chủ quyền hay sao mà cần phải “xác lập”? Phần đất nằm trên lãnh thổ Việt Nam thì hà cớ gì phải “đàng hoàng xác lập chủ quyền”? Chả lẽ nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam có người lao động Trung Quốc thì nên cho họ xây dựng chùa chiền thờ tự để “xác lập chủ quyền” sao? Và “chủ quyền của ta” trong câu nói của Huy Đức là của ai? Việt Nam hay Trung Quốc?
Huy Đức thường cố chứng minh bản thân là một tay săn tin nhanh nhạy, với hàng loạt tin ĐỘC không ngừng được tung ra trong thời gian qua. Thế nhưng, liệu chúng ta có từng hỏi, ai là người đã cung cấp những tin này cho y và tung ra với mục đích gì? Qua những chia sẻ, Huy Đức càng lộ rõ bộ mặt là một tay bồi bút ủng hộ Trung Quốc chuyên sử dụng “ngòi bút ma quỷ” để tấn công chính trị, hạ uy tín của các nhà lãnh đạo cấp cao được nhận xét là có cứng rắn và quyết liệt nhất trước những hành động khiêu khích và xâm phạm lãnh thổ của Trung Quốc trên Biển Đông – cái gai cần nhổ trong con mắt Tập Cận Bình và tình báo Hoa Nam, đồng thời dọn đường cho tình báo Trung Quốc can thiệp vào vấn đề nhân sự cấp cao.
Để khép lại bài viết, xin mượn lời chia sẻ của nhà báo Minh Diện về nhận định của Luật sư nhà báo MT: “Có lẽ ai đó đã tuồn thông tin cho Huy Đức và đặt hàng Huy Đức viết”. Và rồi ông nhếch mép cười và bảo: “Huy Đức đặt tên cho blog của mình là Osin, thế mà đúng!”.
Bạn đọc Huy Phong