Thứ Tư, 13 tháng 9, 2017

“Trước làm sai đã cách chức hết rồi, chức vụ hiện tại là chưa sai” ( Câu nói của bà Kim Ngân quá DZUI)

Báo chí toàn cảnh-Chủ nhật, ngày 30/04/2017 11:24 GMT+7

VTV.vn - Đây là khẳng định của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân khi nói về trường hợp của ông Võ Kim Cự.
"Trước làm sai đã cách chức hết rồi, chức vụ hiện tại là chưa sai"
Chủ tịch Quốc hội NGUYỄN THỊ KIM NGÂN
“Trước làm sai đã cách chức hết rồi, chức vụ hiện tại là chưa sai” - Ảnh 1.
"Các chức vụ trước làm sai đã cách chức hết rồi. Chức vụ hiện tại là làm Chủ tịch liên minh hợp tác xã Việt Nam của ông Võ Kim Cự chưa sai". Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân trả lời cử tri thành phố Cần Thơ như vậy và cho biết Quốc hội sẽ làm thủ tục cho thôi nhiệm vụ đại biểu Quốc hội và Chính phủ làm thủ tục cho nghỉ hưu đối với ông Võ Kim Cự.
"Khuyết điểm của tôi là ký tuyển dụng đặc cách ông Nguyễn Văn Cảnh"
Ông LÊ HỮU LỘC - nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định
“Trước làm sai đã cách chức hết rồi, chức vụ hiện tại là chưa sai” - Ảnh 2.
"Khuyết điểm của tôi là đã ký đồng ý tuyển dụng đặc cách vào công chức không qua thi tuyển đối với ông Nguyễn Văn Cảnh mà không thành lập hội đồng sát hạch, không báo cáo Bộ Nội vụ theo quy định". Nguyên chủ tịch UBND tỉnh Bình ĐịnhLê Hữu Lộc chia sẻ sau khi ông bị Ủy ban Kiểm tra Trung ương khiển trách do tuyển dụng ông Nguyễn Văn Cảnh làm chuyên viên văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội và HĐND tỉnh Bình Định.
"Tôi e sẽ lại đi vào lối mòn cũ, phân luồng, hướng nghiệp thất bại"
Giáo sư PHẠM MINH HẠC - nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục.
“Trước làm sai đã cách chức hết rồi, chức vụ hiện tại là chưa sai” - Ảnh 3.
"Tôi e sẽ lại đi vào lối mòn cũ, phân luồng, hướng nghiệp thất bại", giáo sư Phạm Minh Hạc - nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo dục nhận định về dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể. Bởi đây là nhiệm vụ mà ngành GD-ĐT đã loay hoay trong hơn 30 năm qua, bao gồm cả thời ông làm Bộ trưởng Bộ Giáo dục nhưng không thực hiện được như mong đợi.
Mời quý độc giả theo dõi các chương trình đã phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam tại TV Online!

Mỹ dọa cấm vận Trung Quốc nếu Bắc Kinh không tuân thủ lệnh trừng phạt Triều Tiên

VnMedia  1 liên quan

Mỹ khiến Trung Quốc không khỏi choáng váng và lo lắng khi bất ngờ tung ra một cảnh báo sắc lạnh liên quan đến cuộc khủng hoảng đang nóng lên từng ngày trên bán đảo Triều Tiên.
My khien Trung Quoc soc vi loi canh bao bat ngo va day sac lanh - Anh 1
Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin
Mỹ có thể sẽ áp đặt các biện pháp trừng phạt về kinh tế đối với Trung Quốc nếu nước này không thực thi nghiêm túc các biện pháp trừng phạt nhằm vào Triều Tiên, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin đã cảnh báo như vậy. Theo ông Mnuchin, các biện pháp trừng phạt có thể bao gồm việc chặn khả năng tiếp cận của Bắc Kinh đối với hệ thống tài chính của Mỹ.
“Chiến tranh kinh tế với Triều Tiên đang có hiệu quả. Chúng tôi đã phát đi thông điệp cảnh báo rằng, nếu có bất kỳ ai muốn làm ăn giao dịch với Triều Tiên thì chúng tôi có thể hiểu là họ không muốn làm ăn, giao dịch với chúng tôi”, Bộ trưởng Mnuchin hôm qua (12/9) đã tuyên bố như vậy.
Bộ trưởng Tài chính Mỹ cũng chia sẻ quan điểm của Đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc Nikki Haley, miêu tả gói biện pháp trừng phạt mới nhằm vào Bình Nhưỡng là “mang tính lịch sử”. Bộ trưởng Mnuchin nói thêm rằng, “nếu Trung Quốc không thực thi các biện pháp trừng phạt này, chúng tôi sẽ áp đặt thêm các biện pháp trừng phạt khác nhằm vào họ và ngăn không cho họ tiếp cận với hệ thống USD của Mỹ cũng như của quốc tế”.
Washington gần đây đã bắt đầu thể hiện sự bất mãn, khó chịu trước việc Trung Quốc không gây áp lực đủ lớn đối với đồng minh Triều Tiên để buộc nước này phải lùi bước trong vấn đề hạt nhân và tên lửa. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này, Mỹ vẫn miễn cưỡng chưa muốn áp dụng các biện pháp trừng phạt về kinh tế nhằm vào Trung Quốc vì lo ngại những biện pháp đáp trả từ Bắc Kinh cũng như lo ngại về hậu quả thảm khốc có thể xảy ra đối với nền kinh tế toàn cầu. Mỹ và Trung Quốc vốn là hai nền kinh tế lớn nhất thế giới và có sự liên quan chặt chẽ đến nhau.
Washington đang phải chịu 350 tỉ USD thâm hụt thương mại hàng năm với Bắc Kinh. Trung Quốc cũng là chủ của khoản nợ lên tới 1 nghìn tỉ USD của Mỹ.
Tuy vậy, giới nghị sĩ Mỹ vẫn đang ngày càng ủng hộ cho xu hướng gây áp lực nhiều hơn lên Bắc Kinh và các nước khác đang có giao dịch làm ăn với Bình Nhưỡng trong bối cảnh có nhiều lời kêu gọi trong nội bộ nước Mỹ về việc tung ra phản ứng “siêu mạnh” đối với vụ thử hạt nhân của Triều Tiên, trong đó có việc áp dụng một loạt biện pháp trừng phạt nhằm vào các công ty đến từ Trung Quốc và bất kỳ nước nào khác có quan hệ làm ăn với Triều Tiên.
“Tôi tin rằng, phản ứng từ Mỹ và các nước đồng minh của chúng ta nên được tăng cường”, ông Ed Royce – Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ, đã nói như vậy trong cuộc điều trần diễn ra ngày hôm qua.
“Chúng ta cần phải sử dụng mọi đòn bẩy có thể để gây áp lực tối đa lên chính quyền đó (chính quyền Triều Tiên)”, ông Royce cho biết đồng thời nói thêm rằng “thời gian đang sắp hết”. Ông Royce cũng kêu gọi Washington nhằm mục tiêu vào các ngân hàng lớn của Trung Quốc, trong đó có Ngân hàng Nông nghiệp Trung Quốc và Ngân hàng Thương mại Trung Quốc vì có các giao dịch với Bình Nhưỡng.
Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Hạ viện Mỹ cho rằng, Trung Quốc rõ ràng đang miễn cưỡng thực thi các biện pháp trừng phạt được Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông qua nhằm vào Triều Tiên.
Ông Royce nhấn mạnh, Mỹ có thể cho các ngân hàng và công ty Trung Quốc “một sự lựa chọn, đó là chọn giữa việc làm ăn với Triều Tiên hay với Mỹ”. Vị quan chức Mỹ thêm rằng, Mỹ cũng nên “xử lý những ngân hàng và công ty ở các nước khác đang có giao dịch làm ăn với Triều Tiên theo cách tương tự”.
Giới chức Mỹ rõ ràng đang khó chịu và bất an trước thực tế rằng dù những biện pháp trừng phạt được áp đặt lên Triều Tiên đang ngày càng hà khác và quyết liệt nhưng đến nay chúng vẫn không có hiệu quả trong việc ngăn chặn Bình Nhưỡng phát triển chương trình vũ khí hạt nhân và tên lửa.
“Chúng ta đã bị gia đình ông Kim đùa giỡn trong nhiều năm”, Nghị sĩ của Đảng Cộng hòa – ông Ted Poe phát biểu, ám chỉ đến Chủ tịch Kim Jong Un và những người tiền nhiệm của ông này.
Kiệt Linh (tổng hợp)

NHỮNG CÂU NÓI ĐỂ ĐỜI CỦA TS NGUYỄN ĐỨC KIÊN

Trong hình ảnh có thể có: 2 người, mọi người đang cười, văn bản

NÉN NHANG CỦA TRẦN MẠNH HẢO THẮP CHO NHÀ THƠ THANH TÙNG ĐƯỢC VIẾT CÁCH ĐÂY 16 NĂM...


Tran Manh Hao
3 giờ· 
Ảnh đại diện của Tran Manh Hao, Trong hình ảnh có thể có: 1 người, đang cười, cận cảnh

Vĩnh biệt nhà thơ Thanh Tùng – Trần Mạnh Hảo xin in lại bài viết về thơ ông cách nay 16 năm, như một nén nhang đưa tiễn nhà thơ đồng hương Nam Định về cõi vĩnh hằng . 
Thanh Tùng là nhà thơ viết hay nhất về Hải Phòng. Tôi tin, sau khi trăm tuổi, tên ông sẽ được lấy để đặt cho một con đường của thành phố biển Hải Phòng :
THANH TÙNG – XANH MÃI THỜI HOA ĐỎ
Trần Mạnh Hảo
( Bài đã in trên báo “Văn Nghệ” số 50 ra ngày 15-12-2001)
Trong hình ảnh có thể có: 3 người, mọi người đang cười, mọi người đang đứng
Ngót 40 năm làm thơ, đầu xuân 2001 này, lần đầu tiên Thanh Tùng mới có tập thơ trình làng : “ Thời hoa đỏ” do NXB Văn học ấn hành. Sinh năm 1935, vị chi nhà thơ đã 66 tuổi mà dáng dấp bên ngoài còn bùng nổ như thể cả cửa biển Hải Phòng chợt đứng lên biến thành người đàn ông cường tráng.
Thanh Tùng được trời ban cho một bản năng sống phi thường, một trái tim đập nhịp búa tạ, một sức khỏe có thể vật được cả kiến lẫn voi. Với thơ, sự mê sảng tột độ ấy vừa là lợi thế, vừa là nỗi phải dè chừng. Tưởng ông chỉ sinh ra để yêu như vỡ đê, uống rượu như nước và làm thơ như lên đồng.
Thanh Tùng, con nhà địa chủ phản động ( ghi chú của TMH : đoạn này bị cắt khi in báo) nên sau năm 1954, anh bị cấm đi học, phải làm hàng chục nghề kiếm sống như phu khuân vác, thợ quai búa, áp tải bảo vệ hàng hóa, võ sĩ chống trộm cướp, đọc thơ ứng tác trong quán rượu hay biên tập báo chí…
Ba thứ ông yêu : đàn bà, rượu và thơ; nhưng cả ba món này đã hành hạ ông vô cùng tận. Ít ai có thể viết được câu thơ về rượu hay như Thanh Tùng :
“ Không có tôi rượu sẽ bơ vơ”
Ngay cả trong mắt của những em gái quê hương, Thanh Tùng cũng đọc lên được linh hồn men rượu xưa :
“ Những em gái thập thò sau khung cửa
Ánh mắt như màu rượu đã lâu ngày”
Có lẽ, khi đọc tập thơ này của Thanh Tùng, ta đôi khi cũng cần phải có “Ánh mắt như màu rượu đã lâu ngày” chăng ?
Thơ sống được nhờ câu, sau đó mới đến bài, trừ bài thơ có tứ độc đáo. Ngay cả những tập thơ được xếp hạng nhất Việt Nam, thì không hẳn bài nào cũng hay, câu nào cũng tuyệt.
Thanh Tùng, thi sĩ của nỗi thất tình, đã viết được những câu thơ hay kinh ngạc :
“ Biển vật vã như đang đau đớn
Giống ngày nào em bỏ tôi 
Thế ai bỏ biển đi mà biển vậy ?”
Ngày ông bị người tình vĩnh cửu bỏ lại bơ vơ giữa thế gian này chính là ngày thi sĩ. Câu thơ này của Thanh Tùng hay đến phải bái phục ông :
“Mỗi chiếc hôn cũng làm biển động”
Ông làm ta giật thót mình khi viết :
“ Tôi sục tay vào túi thủng
Những tia nắng cuối cùng”
Kẻ đi tìm chính mình chợt sục tay vào túi chỉ thấy khoảng không với tia nắng cuối tưởng chẳng ăn nhập gì với nhau ; nhưng khi chúng được huy động vào để diễn tả cảm giác hụt hẫng, đáy vực, cạn đường, chợt tạo nên một rung động thơ rất mạnh, như hai cực âm dương làm cho dây bóng đèn điện phát sáng. Xin nghe thêm hai câu thơ vào loại thiên tài của Thanh Tùng :
“Sương mặt sông chập chờn đổ vỡ
Khóc đầm đìa trên những cột buồm cao”
Chao ôi, có một thứ “ sương chập chờn đổ vỡ” trên mặt sông trang giấy, quả là thứ sương riêng của Thanh Tùng : sương thủy tinh chợt đầm đìa ứa lệ cột buồm cao. Huy Cận từng rất hay khi viết : “mưa xuân tươi tốt cả cây buồm”. Nhưng Thanh Tùng không chỉ hay mà còn lạ khi ông dựng lên nhấp nhô trong thơ mình những cột buồm khóc vỡ lệ thủy tinh sương.
Hải Phòng hình như là niềm thơ riêng của Thanh Tùng. Nắng gió Hải Phòng, mùi Hải Phòng len lỏi vào tận cùng chữ nghĩa của ông. Trước Thanh Tùng, có hai ông quê Nam Định khác là Văn Cao và Nguyên Hồng đã Hải Phòng hóa tâm hồn mình thành những kiệt tác : “ Trường ca cửa biển”- Văn Cao và “ Bỉ vỏ” tiểu thuyết hay nhất thời tiền chiến của Nguyên Hồng viết về Hải Phòng).
Khi định cư ở Sài Gòn, thơ Thanh Tùng vẫn còn thở dưỡng khi cửa biển, uống cạn những ngõ phố hun hút như một chai rượu không đáy Hải Phòng.Ngay cả nỗi cô đơn của Thanh Tùng cũng là nỗi cô đơn rất ngáo ngổ Hải Phòng :
“ Ai bỏ tôi đi thế này ?
Tôi bỏ ai đi thế này ?
Kẻ nào đã nuốt hết gió ?
Cho buồm chẳng thể xa khơi !”
Giọt nước mắt nhớ quê hương ướt má Sài Gòn vẫn chỉ là những dây xích neo con tàu vào cảng thơ Thanh Tùng :
“ Những giọt nước mắt móc vào nhau thành sợi xích 
Ghì con về miền hoang lạnh xa xôi”
Xa Hải Phòng, Thanh Tùng mượn gió mà rơi lệ trong câu thơ làm tôi nổi da gà vì lạ lùng cảm thương khôn xiết :
“ Mai tôi đi rồi
Tôi có khóc đâu mà gió ướt ?”
Thanh Tùng ra đi, để tuổi thơ mình trong tuổi thơ hai con, bởi cái không thể mang đi nổi là tuổi thơ của chúng :
“ Chúng ta đã chuyển đi tất cả
Chỉ tuổi thơ không làm sao chuyển nổi”
Tuổi thơ ấy, chính là quê hương thơ ông – người đã viết những bài thơ, câu thơ hay nhất về Hải Phòng. Tận cùng phương Nam Thanh Tùng vẫn thả những câu thơ hay về phố biển, những câu thơ ông ném lên trời thành những sợi – dây – chim :
“ Những đàn hải âu
Như bao khúc dây mềm
Gió ném lên trời xanh”
Thanh Tùng còn bạt ngàn câu thơ hay nằm án binh bất động trong các góc tối chữ, chỉ xin trích ra một số câu rất thi sĩ, dấu hiệu của tài năng lớn thi ca miễn bình vì khuôn khổ của bài báo không cho phép :
“ Ta lại về bờ gió ấy thổi sang nhau
Cỏ vẫn vẽ những đường dại dột”
“Một mặt lá mùa hè còn níu ở
Mặt kia thoắt đã thu đầy”
“Đã gần lắm tưởng giơ tay là với được
Nỗi bàng hoàng rơi xuống tự trời cao”
“ Nắng nghẹn mình đầu ngõ
Qủa đeo buồn lưng cây”
“ Những vòm liễu nhúng chiều vào đáy nước”
“ Em đạp lên tất cả
Rồi ngã vào anh theo cách ngã của mùa thu”
“ Gặp về không ngủ nổi
Hóa ra tình cũ rót vào nhau”
“ Thoát ra chạy thi cùng trăm ngả”
“Không còn ánh đêm cho mình nương tựa
Không còn ánh ngày cho mình gặp gỡ”
….
Thanh Tùng còn có một số bài thơ toàn bích trong tập này. Ví như bài “ Đôi nạng” hay vì tứ thơ khái quát, tính tư tưởng cao mà rất cảm động :
“Ngày khai trường
Cha mua cho con đủ thứ
Nào sách bút, nào áo quần
Lại cả đồ chơi nữa
Nhưng cha ơi
Cha quên sắm cho con đôi nạng mới
Vì hai năm từ khi con bị bom
Chiếc nạng cũ chẳng chịu lớn cùng con, cha ạ”
Bài “Thất tình” của Thanh Tùng cũng là bài thơ hay toàn bích, có thể chưa có bài thơ thất tình nào sánh được bài thơ này của ông :
“ Em để lại trong tim tôi một mũi dao
Thỉnh thoảng lại nhấn sâu thêm một chút
Tôi mang nó suốt đời còn em thì không biết
Những mùa thu ướt đẫm vẫn đi về
Bây giờ mọi thứ thuốc đều vô hiệu
Tôi chữa bằng rượu thôi
Hết rượu rồi tôi uống cả mùa thu
Cả những chiều đông lướt thướt
Xong, lại tự nhấn sâu thêm nữa
Mũi dao ngày xưa
Nhưng có sao khi trái tim tôi đã thành bình rượu
Cả mũi dao cũng đã say mềm”
Thanh Tùng chừng chết đuối trong mùa thu đẫm rượu. Xuyên qua mùa thu trong vắt Nguyễn Khuyến, mùa thu chết của Apollinaire, Thanh Tùng là cả mùa thu nửa vàng nửa xanh, nửa sống nửa chết, nửa câm nín, nửa thét gào, ngân giọng thơ cuồng nhiệt đến nức nở, đến đứt hơi, mê sảng nơi bài thơ “ Mùa thu” , xin trích :
“ tôi rỗng ra
như chiếc chai đêm qua còn lăn lóc trên bàn
tôi van đấy mảnh giậu nghiêng trước cửa
đừng sắc thế
cứ xước lên mình của gió
tôi van đấy mắt em đừng qua nữa
cứ giày vò tôi cũ những mùa xưa
tôi rối rít những đường lá rụng
rồi có ai ở tận đâu xa
thong thả thít từng nấc một
đến lịm dần trong men lá thu”
Những bài thơ : “ Chuyển mùa”, “ Em và thu”, “ Bây giờ”, “ Mười lăm năm”…là những bài hay trọn vẹn.
Thanh Tùng, nhà thơ tài năng bậc nhất của Hải Phòng, cùng với Thi Hoàng, sẽ là hai tên đường của thành phố biển khi hai ông trăm tuổi.
“Thời hoa đỏ” là một tập thơ hay hiếm có ! Tuy nhiên nó đã bị ông Hữu Thỉnh dìm và không cho tác phẩm này giải thưởng của Hội Nhà Văn trong năm 2002 vì sợ Thanh Tùng làm át thơ ông chủ tịch hội ( Câu văn này mới viết thêm vào khi tác giả đánh máy lại bài viết đã in báo Văn Nghệ 16 năm trước).
Thơ Thanh Tùng vẫn rừng rực như đuốc phượng vĩ cháy thành phố biển mùa hạ.
Tôi xin kết thúc bài viết này bằng câu thơ hay vào loại thiên tài của Thanh Tùng :
“ Nối bao gió thu cho tôi tới được em”
Thanh Tùng đang có trong tay ngọn gió thu ấy, đã đang và sẽ nối với tâm hồn mọi người bằng dưỡng khi thi ca sẽ đi vào vĩnh cửu.,.
Sài Gòn ngày 14-11-2001
T.M.H.


ảnh : Thanh Tùng & TMH

Những dự án đưa bà Châu Thị Thu Nga “rơi” vào vòng lao lý

(Pháp luật) - Từng được biết đến như một doanh nhân thành đạt, bà Châu Thị Thu Nga vướng vòng lao lý khi đang là ĐBQH. Mọi sự đều xuất phát từ việc bán nhà trên giấy….
Ngày 2/10 tới, Tòa án nhân dân TP Hà Nội sẽ mở phiên hình sự sơ thẩm tòa xét xử bị cáo Châu Thị Thu Nga (52 tuổi), nguyên Đại biểu Quốc hội, Chủ tịch HĐQT, cựu Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Tập đoàn đầu tư xây dựng Nhà đất (Housing Group).
Bị cáo Châu Thị Thu Nga cùng 9 đồng phạm khác bị Viện KSND tối cao truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Điều 139, khoản 4, điểm a – Bộ luật Hình sự.
9 đồng phạm cùng hầu tòa với bị cáo Châu Thị Thu Nga, gồm: 4 bị cáo nguyên là Phó Tổng Giám đốc Housing Group: Nguyễn Trường Sơn, Lê Hồng Cương, Nguyễn Vũ Hùng, Phan Thanh Tuyên; 2 bị cáo nguyên là Giám đốc Sàn giao dịch bất động sản Housing là: Nguyễn Thị Tình và Lưu Thị Thúy và các bị cáo Phạm Thị Thu Hạnh (nguyên Kế toán trưởng Housing Group), Đinh Phúc Tiếu (nguyên Phó Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng Housing Group), Đoàn Thanh Thủy (nguyên quyền Kế toán trưởng Housing Group).
Bà Châu Thị Thu Nga nổi danh nhờ bất động sản và cũng vướng vào vòng lao lý từ chính các dự án bất động sản….
Từ một doanh nhân…
Sinh năm 1965, quê ở Thừa Thiên Huế, Bà Châu Thị Thu Nga có trình độ chuyên môn là Tiến sĩ Quản trị Kinh doanh.
Cuối năm 2000, Công ty Cổ phần Đầu tư xây dựng nhà đất (Housing Group) được thành lập. Bà Nga bắt đầu được giới kinh doanh biết đến với tư cách là thầu phụ cung cấp vật liệu xây dựng, đầu tư bất động sản.
Giai đoạn năm 2006-2010 bà Châu Thị Thu Nga bắt đầu nổi lên nhanh nhờ bất động sản.
Cùng với đó, bà Nga cũng thăng tiến không ngừng trên con đường chính trị. Năm 2011, bà Nga là đại biểu Quốc hội khóa 13 (nhiệm kỳ 2011-2016).
Trong khoảng thời gian là đại biểu Quốc hội, bà Châu Thị Thu Nga tham gia và đứng vào hàng loạt chức danh như: Ủy viên thường vụ BCH hiệp hội Bất động sản Việt Nam, Phó Trưởng ban điều hành mạng các sàn giao dịch BĐS VN khu vực miền Bắc, Chủ tịch CLB Vườn ươm doanh nhân, Chủ tịch HĐQT Housing Group..
Housing Group cũng liên tục công bố việc đầu tư vào các dự án bất động sản như: Chung cư B5 – Cầu Diễn, Thượng Đình Plaza, Khu nhà ở kinh doanh Phú Thượng – Tây Hồ, khu nhà ở 25 Vũ Ngọc Phan, Trung tâm Dịch vụ hỗn hợp phường Phương Mai, Trung tâm thương mại vật liệu xây dựng Housing Group, Trung tâm chiếu phim và dịch vụ văn hóa thể thao (Quốc Oai)…
… đến vòng lao lý
Trong số hàng loạt các dự án của Housing Group, mới chỉ có dự án 25 Vũ Ngọc Phan được đưa vào hoạt động từ năm 2007. Các dự án còn lại thì chỉ sau lễ khởi công rầm rộ cho đến nay vẫn chỉ là bãi đất trống hoặc chỉ xong móng, khoan cọc nhồi….
Tại dự án B5 Cầu Diễn, bà Châu Thị Thu Nga cùng các bị can được bà ủy quyền đã ký hơn 700 hợp đồng góp vốn, thu hơn 377 tỉ đồng của khách hàng nhưng sau đó chiếm đoạt, sử dụng vào mục đích cá nhân. Ảnh: Minh Thư
Một trong những dự án dẫn đến việc bà Nga bị bắt là chung cư B5 Cầu Diễn. Trên thực tế, dự án B5 Cầu Diễn là dự án không thuộc diện kinh doanh nhà ở thương mại. Dự án này có tên chính thức là dự án phát triển giao thông đô thị Hà Nội (CT5) được sử dụng vào quỹ nhà ở tái định cư của thành phố. Dự án được Sở Quy hoạch – kiến trúc Hà Nội phê duyệt với 4 tòa nhà có số tầng từ 11-21 tầng.
Tuy nhiên, năm 2009, bà Nga cùng với ông Nguyễn Văn Tuẫn khi ấy là Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV XNK & ĐTXD phát triển Hà Nội (HAIC) đã vẽ ra dự án trên giấy với quy mô 6 tòa chung cư thương mại cao 28-32 tầng và 36 nhà vườn rồi rao bán, thu hàng trăm tỉ đồng.
Chính vì hành vi trái pháp luật như vậy, nên tháng 10/2013, CQĐT Bộ Công an đã khởi tố bị can và bắt giam đối với ông Nguyễn Văn Tuẫn, để điều tra về hành vi cố ý làm trái nguyên tắc quản lý kinh tế của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng với tổng số tiền hơn 100 tỉ đồng.
Tương tự, tại dự án nhà ở tái định cư và kinh doanh trên địa bàn phường Phú Thượng (quận Tây Hồ, Hà Nội), Housing Group cũng đã “vẽ” ra tòa chung cư 12 tầng với tổng diện tích sàn lên tới 9.232m2 và 7 lô nhà liền kề để rao bán và thu về hàng trăm tỉ đồng của hàng trăm người dân.
Khách hàng mua nhà tại dự án Khu nhà ở kinh doanh tại Phú Thượng (Tây Hồ, Hà Nội) căng băng rôn đòi quyền lợi thời điểm tháng 5/2014. Ảnh: Minh Thư
Trước những phi vụ bán nhà trên giấy này, tối 7/1/2015, Cơ quan cảnh sát điều tra (Bộ Công an) đã thực hiện lệnh bắt giam bà Châu Thị Thu Nga về hành vi lừa đảo, chiếm đoạt tài sản theo điều 139 Bộ luật Hình sự.
Gần đây nhất, ngày 28/7/2017, Viện KSND tối cao ban hành cáo trạng truy tố 10 bị can trong vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại Housing Group.
Theo cáo trạng, từ năm 2009 đến tháng 11/2010, dự án B5 Cầu Diễn chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch và cấp phép xây dựng. Vì thế, theo quy định, chủ đầu tư chưa được phép huy động vốn của khách hàng.
Tuy nhiên, bà Nga đã chỉ đạo cấp dưới đưa lên cổng thông tin điện tử của Housing Group và liên danh Công ty Housing Group và HAIC nhiều thông tin sai sự thật về tình trạng pháp lý, tiến độ dự án B5 Cầu Diễn. Bà Châu Thị Thu Nga cũng thuê lập mô hình dự án B5 Cầu Diễn để tại sảnh Housing Group, chỉ đạo thi công khoan cọc nhồi tại khu đất để khách hàng tin tưởng, nộp tiền mua căn hộ hình thành trong tương lai.
Từ năm 2009 – 2013, bà Nga cùng các bị can được bà ủy quyền đã ký hơn 700 hợp đồng góp vốn, thu hơn 377 tỉ đồng của khách hàng nhưng sau đó chiếm đoạt, sử dụng vào mục đích cá nhân. Trong số tiền đã thu, bà Nga đã trả lại hơn 28,7 tỉ đồng cho 43 khách hàng, còn lại 348,5 tỉ đồng không còn khả năng thu hồi.
Các cơ quan tố tụng xác định, bị can Châu Thị Thu Nga là kẻ chủ mưu, hưởng lợi toàn bộ số tiền chiếm đoạt, 9 bị can còn lại là đồng phạm giúp sức nhưng chỉ là người làm công ăn lương không được hưởng lợi.
Bị can Châu Thị Thu Nga khai đã chi khoảng 219 tỉ đồng vào các hoạt động đầu tư triển khai một số dự án và trả lại cho một số khách hàng. Khoản tiền hơn 157 tỉ đồng còn lại được bị can này khai đã chi (không có chứng từ) khoảng 66 tỉ đồng cho một số cán bộ của Housing Group để “chi phí việc giải quyết thủ tục đầu tư dự án được thuận lợi”.
Cùng với đó, bị can Châu Thị Thu Nga cũng khai đã chi khoảng 47,5 tỉ đồng để chạy dự án và để được ứng cử đại biểu Quốc hội…, song những người có liên quan khi được Cơ quan CSĐT Bộ Công an triệu tập đều không thừa nhận.
Quá trình đối chất giữa hai bên, bị can Châu Thị Thu Nga và những người liên quan vẫn giữ nguyên lời khai của mình. Do thời hạn điều tra đã hết, nên Cơ quan CSĐT Bộ Công an đã tách các nội dung này để tiếp tục điều tra.
Được biết, Housing Group và ban đại diện khách hàng cũng đã có đơn gửi đến cơ quan chức năng xin được tiếp tục thực hiện dự án B5 Cầu Diễn để khắc phục hậu quả.
(Theo Infonet)

CIA đã dùng Phật giáo để chống lại Chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Nam Á như thế nào?

Hoa Kỳ nhận thức được sức mạnh của chiếc cà sa tại Đông Nam Á. Ảnh: ferrebeekeeper

Quỳnh Vi

Luật Khoa tạp chí lược dịch từ bài viết When the U.S. government tried to fight Communism with Buddhism của nhà báo tự do Joe Freeman đăng trên Tạp chí Politico ngày 10/9/2017.

*

Phật giáo Myanmar (Miến Điện) một lần nữa trở thành tâm điểm của các trang tin quốc tế khi hàng loạt tin tức về những vụ đàn áp đẫm máu người Hồi giáo thiểu số Rohingya đều đặn được đăng tải trong những ngày vừa qua.

Thế nhưng, chúng ta cần nhớ rằng, yếu tố tôn giáo vốn luôn là một nguyên tố mang nhiều tính biến động trong lịch sử chính trị Đông Nam Á.

Tuy tầm ảnh hưởng của chủ thuyết dân tộc chủ nghĩa Phật giáo (Buddhist nationalism) ở Myanmar đang được cơ cấu thành một hiện tượng gì đó hoàn toàn mới mẻ ngay lúc này, nhưng thực chất, Phật giáo vốn đứng đằng sau rất nhiều sự kiện ở tại những thời điểm càng biến động và hỗn loạn hơn trước đây trong khu vực.

Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Đông Nam Á là điểm nóng của sự giao tranh giữa những tư tưởng và tầm nhìn đối nghịch nhau. Mà Phật giáo, đã từng là tâm điểm của tất cả.

Năm 1953, một vài tháng sau khi Tổng thống Dwight D. Eisenhower nhậm chức, Phó Tổng thống Richard M. Nixon đã cùng vợ, bà Pat, trải qua một chuyến công du đầy bão táp ở Châu Á. Họ đã dừng chân tại Burma (ND: Kể từ năm 1989, Burma mới chính thức đổi tên thành Myanmar.), Cambodia, Laos, và Việt Nam.

Người Pháp đã mang Nixon đến những tuyến đầu của Cuộc chiến Đông Dương lần thứ Nhất (First Indochina war), để tận mắt chứng kiến cuộc đối đầu quật cường của những người Việt Minh.

Tuy rất có ấn tượng với những gì ông ta nhìn thấy, nhưng Nixon vẫn cảm thấy khá lấn cấn. Ông không thích cái kiểu gia trưởng của người Pháp – là đồng minh nhận được sự ủng hộ của người Mỹ trong cuộc chiến này để chống lại quân cộng sản – trong việc họ đối xử với quân đội của Quốc gia Việt Nam, một đồng minh khác của Hoa Kỳ.

Vì người Pháp đã kết luận rằng, người Việt Quốc gia đã thất bại trong việc tìm kiếm một đại tự sự có đủ sức quyến rũ và có thể đáp trả lại ngọn cờ giải phóng dân tộc đang rất được lòng dân của phe bên kia.

Chuyến công du đó là một kinh nghiệm mang ý nghĩa định hướng đối với Nixon. Một năm sau đó, trong một lá thư gửi đến Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Walter Bedell Smith, Nixon đã viết, “Như ngài đã biết, tôi vẫn luôn mang trong mình một mối quan tâm sâu sắc đến những người dân Đông Nam Á. Vì khác hẳn với giai cấp lãnh đạo, lý tưởng và tâm nguyện của những người dân nơi ấy thật ra rất gần gũi và tương đồng với chúng ta.”

Sự thương cảm của Nixon mang dáng vẻ khá buồn cười vài năm sau đó, khi chính ông ta đã ra lệnh dội bom xuống Cambodia trong cương vị tổng thống Mỹ.

Thế nhưng, những gì Nixon viết vẫn có lý lẽ riêng của nó. Trong cùng một bức thư, Nixon đã có thêm một đoạn về phương pháp giải quyết vấn đề cho thế tiến thoái lưỡng nan của người Pháp ở Đông Nam Á. Ông viết, “Tôi tin rằng đề nghị của mình sẽ giúp ích cho việc tìm kiếm một phương pháp mang đến sự thấu hiểu chung”.

Đề nghị mà Nixon nhắc đến có nguồn gốc từ một nhóm khá bí ẩn với tên gọi Quỹ Hành động Tôn giáo (Foundation for Religious Action – FFRA). FFRA kêu gọi thành lập một “Sự phản công Tín ngưỡng ở Đông Nam Á” (Spiritual Counteroffensive in Southeast Asia).

Kế hoạch này bao gồm việc chính phủ Mỹ sẽ bỏ tiền vào những tu viện Phật giáo với hy vọng rằng, niềm tin tôn giáo sẽ chiến thắng sức mạnh của thế lực thù địch vô thần đến từ Liên Xô, Trung Quốc, cũng như chủ nghĩa cộng sản toàn cầu. Họ – người Mỹ – sẽ dựng nên một Bức màn Cà sa (Saffron Curtain).

Các quan chức Mỹ vốn đã bị Phật giáo hấp dẫn trong nhiều năm. Trong bóng mờ của Cuộc Thế chiến thứ Hai cùng với việc người Pháp bại trận tại Điện Biên Phủ năm 1954, Hoa Kỳ ngộ ra rằng, chỉ dùng vũ lực vốn không đủ thích đáng để chống lại sự lan tỏa của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á. Họ cần thu phục nhân tâm, nói cách khác, họ cần có được sự ủng hộ của đền đài và chùa miếu tại đây.

Đó cũng chính là câu chuyện mà Eugene Ford sẽ kể trong cuốn sách sắp phát hành, Những vị tăng sư của Chiến tranh Lạnh: Phật giáo và Chiến lược bí mật của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á (Cold War Monks: Buddhism and America’s Secret Strategy in Southeast Asia).

Một câu chuyện về nỗi đam mê ngắn ngủi của nước Mỹ đối với Phật giáo như là một thế lực chính trị. Một câu chuyện về những nỗ lực âm thầm của Hoa Kỳ nhằm gia tăng vị thế của các tu viện Phật giáo trong khu vực này, vào một thời điểm mà các tư tưởng và ý thức hệ có thể xoay chuyển hàng triệu con người.

“Tôn giáo là một đòn bẩy mà người Mỹ có thể dùng để tạo ra ảnh hưởng qua việc sử dụng sức mạnh tâm lý và phi quân sự”, Ford đã viết như thế. “Đặc biệt bằng cách nhấn mạnh với các cộng đồng tại đó về một mối đe dọa có thể đến từ những người cộng sản đối với các tu viện tôn giáo.” Và người dân rồi cũng biết, những mối đe dọa đó là có thật.

Đắm chìm trong những bộ phim hành động và gián điệp chia rẽ hai cực Đông và Tây, chúng ta thường bỏ quên những lời hùng biện về tôn giáo mang hơi hướm của các cuộc thánh chiến trong thời kỳ đó.

Năm 1950, Thuợng nghị sĩ Mỹ Edward Martin đã phát biểu rằng, Hoa Kỳ cần phải chiến đấu “với một quả bom nguyên tử trong tay này và một cây thánh giá trong tay kia”. Chủ nghĩa cộng sản là “vô thần”. Tôn giáo, vì thế là một vũ khí mạnh mẽ để chống lại nó. Trong câu chữ của một đại diện cho cơ quan nhà nước Hoa Kỳ, niềm tin tôn giáo là một phương tiện mang tính chủ lực trong Chiến tranh Lạnh.

Nhưng nỗ lực dùng tôn giáo để chống lại chủ nghĩa cộng sản không chỉ giới hạn trong Phật Giáo. Từ năm 1946, Tổng thống Harry S. Truman đã kêu gọi tất cả các tín ngưỡng hãy cùng nhau hồi sinh niềm tin tôn giáo và tâm linh tại Mỹ.

Sử gia Dianne Kirby đã ghi nhận rằng, hai từ “dưới Thượng Đế” (under God) được thêm vào Lời Tuyên thệ Trung thành (Pledge of Allegiance) ở Hoa Kỳ vào năm 1954, và “cả một vòng phòng ngự của những tuyên truyền chống chủ nghĩa cộng sản, chống Sô Viết đã thống lĩnh hầu hết tư tưởng của các nhà lãnh đạo tôn giáo Thiên Chúa giáo, cũng như các cộng đồng giáo dân của họ”.

Con số những người tham gia các buổi lễ ở các giáo đường tăng vọt. Chính phủ Truman thiết lập một mối quan hệ thân cận với Tòa thánh Vatican để có thể chia sẻ thông tin tình báo về các hoạt động của người cộng sản tại Châu Âu. Eugene Ford cũng nhắc đến một kế hoạch – tuy không đủ tính thuyết phục – nhưng mang đầy vẻ quyến rũ về một mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và các tổ chức Hồi giáo ở nước ngoài.

Riêng với Phật Giáo, thì thời kỳ nước Mỹ bị mê hoặc với việc sử dụng tôn giáo làm vũ khí chống lại chủ nghĩa cộng sản trong Chiến tranh Lạnh, cũng ngẫu nhiên trùng khớp với dịp các Phật tử tưng bừng kỷ niệm 2.500 năm ngày mất của Phật tổ và lần hội nghị đầu tiên những đệ tử của Đức Phật tổ chức để cùng tìm hiểu về những lời Phật dạy.

Trong giữa thập niên 1950, một làn sóng mới muốn tìm hiểu về Phật giáo đã diễn ra, và kết quả là Tổ chức Liên hữu Phật giáo Thế giới (World Fellowship of Buddhists – WFB) đã được thành lập. Ngày 25/5/1950, WFB tổ chức hội nghị lần thứ nhất tại Ceylon, nay là Sri Lanka.

“Bỏ mặc là tốt hay xấu, thì một tổ chức tôn giáo-chính trị với mạng lưới liên kết toàn cầu với sức ảnh hưởng rộng lớn đến đại bộ phận người dân Đông Nam Á, đã được ra đời.” Một quan chức Hoa Kỳ đã ghi nhận về hội nghị WFB như thế.

Các chính phủ Đông Nam Á cũng hiểu rất rõ sức ảnh hưởng của Phật giáo. Họ cũng lo sợ về việc những giá trị truyền thống Phật giáo sẽ bị băng hoại khi chủ nghĩa cộng sản bắt đầu trở nên được ưa chuộng.

Một bản ký lục của cơ quan tình báo CIA năm 1951 đã xác định xu hướng này tại Burma, cũng như các nơi khác ở Đông Nam Á, khi những lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản bắt đầu được người dân chú ý đến.

“Nếu người cộng sản làm chủ được tình hình Burma, thì đó sẽ là một nước cờ mang tính chiến lược đầy thuận lợi cho Cộng sản Trung Quốc và Liên Xô. Điều này sẽ thọc một mũi chia rẽ giữa hai khu vực, Ấn Độ – Pakistan và Đông Nam Á, giúp cho việc chủ nghĩa Cộng sản tiến sâu vào Đông Dương và những quốc gia khác ở phía Nam và Đông Nam Châu Á. Để họ có thể – bằng một đòn tâm lý chiến – tuyên bố rằng Chủ nghĩa Cộng sản ở Châu Á là chân lý không gì có thể ngăn cản nổi”, bản ký lục này đã nhận định như thế.

Cảnh giác với chiến thắng của Mao Zedong (Mao Trạch Đông) ở Trung Quốc và nhận thấy tình hình có vẻ ngày càng bất lợi khi các đoàn quân Quốc dân đảng (Kuamintang) liên tục trốn chạy qua biên giới, một số các nhà lãnh đạo Đông Nam Á quyết định sẽ tự mình hành động.

Trong thời kỳ đầu của thập niên 1950, các quan chức Thailand đã tuyển mộ các vị sư ở các vùng nông thôn để tiến hành “giảng dạy người dân phải tôn trọng cha mẹ, nhà Vua, và chính phủ, cũng như làm rõ sự khác biệt giữa chủ thuyết cộng sản và Phật giáo”

Một trong những sự kiện nổi bật là phát biểu năm 1950 của Thủ tướng Burma, U Nu, sau khi nước này dành đợc độc lập. Ông U Nu, một Phật tử sùng đạo đã nói, tất cả những tư tưởng của Karl Marx “vốn dĩ không bằng một phần mười hạt bụi nằm dưới chân Đức Phật của chúng ta”.

Và vì thế, yếu tố thời điểm trở nên hết sức thuận lợi cho Hoa Kỳ thâm nhập. Vào lúc mà Nixon gửi lá thư của mình đến Walter Bedell Smith thì các nhân viên tình báo CIA đã rất bận rộn với những hoạt động cùng những nhóm Phật tử khắp cả khu vực.

Cơ quan CIA đã thu thập tình báo tại những tu viện của các vị tu hành gốc Việt ở Bangkok từ những năm 1948, với mục đích theo dõi những hoạt động của các đường dây ngầm của người cộng sản.

Nhưng CIA không thể hoạt động công khai, và vì thế họ phải sử dụng các tổ chức tư nhân để làm việc cho mình. CIA tiến hành tài trợ phía sau Ủy ban Vì một Châu Á Tự do (Committee for a Free Asia) vừa mới được thành lập – sau năm 1954 họ được biết đến với tên gọi Quỹ Châu Á (Asia Foundation).

CIA đã thông qua Ủy ban Quốc gia Vì một Châu Âu tự do (National Committee for a Free Europe), là tổ chức quản lý Đài Âu Châu Tự do (Radio Free Europe) vào thời điểm đó, để tiến hành.

CIA tiếp tục việc tài trợ ngầm cho đến khi họ chấm dứt các mối quan hệ với Quỹ Châu Á, sau khi các hoạt động của họ và các tổ chức này bắt đầu bị phanh phui trong những năm cuối thập niên 1960

Người Mỹ bắt đầu xuất hiện tại Burma, nơi mà Eugene Ford đã miêu tả là một phòng thí nghiệm chonhững hoạt động ngầm núp bóng Phật giáo của CIA (Thủ tướng U Nu của Burma, như chúng ta thấy ở trên, là một tín đồ Phật giáo hết sức sùng đạo).

Năm 1952, Ủy ban Vì một Châu Á Tự do đến Burma và bắt đầu tài trợ cho Đại hội Phật tử kỳ 1954-1956. Đại hội này được xem là kỳ thứ sáu, kể từ lần đầu tiên được tiến hành vào hai thiên niên kỷ rưỡi trước, ngay sau khi Đức Phật qua đời.

Thủ tướng U Nu đã yêu cầu Hoa Kỳ giúp đỡ để Burma có thể tổ chức đại hội có tên gọi là Synod lần thứ sáu này. Các giai đoạn chuẩn bị cho kỳ đại hội Synod có thể khiến chính phủ Burma phải tiêu tốn sáu triệu Mỹ kim, vì họ cần tái dựng lại khung cảnh của kỳ đại hội đầu tiên bằng việc xây dựng một hang động. Hang động này vẫn còn tồn tại ở Yangon, thủ đô của Burma hiện nay, và là một địa điểm du lịch nổi tiếng ngay bên cạnh một trường đại học Phật giáo.

Đến năm 1962, Ủy ban Vì một Châu Á Tự do và tổ chức kế nhiệm, Quỹ Châu Á, đã đóng góp hơn 300.000 đô la cho các thiết bị in ấn và trợ giúp về kỹ thuật để giúp cho Nhà in Buddha Sasana của Burma trở thành nhà in Phật giáo “lớn nhất và tối tân nhất” trên toàn thế giới.

Quỹ Châu Á cùng lúc đó đã mở rộng hoạt động của họ đến các nước láng giềng, bao gồm Thailand, Cambodia, và Laos. Điều này đã giúp cho chính quyền Washington có được một diễn đàn trong khu vực và một mạng lưới của riêng mình trong cộng đồng Phật tử toàn thế giới.

Ngoài Burma, Hoa Kỳ cũng sử dụng cùng một phương pháp thầm lặng như thế ở các nước khác trong khu vực, bằng việc trợ cấp cho các chương trình giáo dục Phật giáo và các nhóm phát triển, phát tán các tài liệu tuyên truyền chống chủ nghĩa cộng sản, có mặt tại các hội thảo Phật giáo và tài trợ các chuyến viếng thăm những danh lam thắng cảnh Hoa Kỳ – như tòa nhà Empire State – của các thành viên cao cấp Sangha, các tăng lữ.

Ý đồ của Mỹ, theo cách nói của một quan chức, là làm thế nào để “có thể khiến cho mọi người có được một cái nhìn chung về một nguy cơ trên bình diện rộng, đến từ những bất cập giữa chủ thuyết cộng sản và quyền tự do tôn giáo của mọi tín ngưỡng.”

Các quan chức Hoa Kỳ đương nhiên phải tự cảnh giác, là việc họ làm có thể bị người khác xem là hành vi lợi dụng Phật giáo.

Một bản dự thảo chính sách về tôn giáo năm 1957 đã giải thích rằng, “tất cả những việc chúng ta làm không nên tỏ vẻ với các lãnh đạo Phật giáo đó là một ‘chương trình’ gì đó của chính phủ Mỹ, mà nên là những cử chỉ thân thiện để bày tỏ sự giúp đỡ lẫn nhau giữa người Phật tử và các nhóm tôn giáo Hoa Kỳ”.

Tuy nhiên, các quan chức Hoa Kỳ vẫn nhấn mạnh, tình hình đã rất nguy cấp vì Cộng sản Trung Quốc cũng đang rất bận rộn mở rộng quan hệ với những nhóm tôn giáo, ngay tại các buổi hội thảo và gặp mặt mà người Mỹ đã tham gia.

Năm 1956, các chuyên gia của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ còn đi xa hơn một bước và thành lập “Ủy ban Phật giáo”. Mặt khác, các quan chức Hoa Kỳ cũng bắt đầu học hiểu được rằng, Phật giáo không phải là một tôn giáo nguyên nhất, mà ngược lại, có rất nhiều hệ phái.

Và cho dù là ở những quốc gia láng giềng có cùng tôn giáo và một số tập quán khá tương đồng như Thailand và Burma đi nữa, thì những quốc gia đó cũng có lịch sử và quá khứ mang đầy các sự kiện đầy bi thảm bởi các cuộc chiến giữa họ từ hàng trăm năm trước.

Còn đối với Laos, một bản điều tra dân số được thực hiện vào năm 1958 đã cho thấy, chỉ phân nửa dân số Laos là theo Phật giáo. Và như thế, những kế hoạch dùng việc giảng dạy Phật giáo để có thể mang ảnh hưởng đến số đông quần chúng có vẻ là một việc làm vô ích đối với nhiều người.

Nhìn lại những nỗ lực thiết lập quan hệ với các lãnh đạo Phật giáo của Hoa Kỳ, thì chúng có phần mềm mỏng hơn nếu mang so sánh với sự can thiệp quân sự của Mỹ tại Đông Nam Á và các quốc gia khác trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

Hình ảnh của người Mỹ ở đây hoàn toàn không giống với kiểu “người Mỹ xấu xí” chạy loanh quanh ở những nơi mà anh ta không thuộc về, mà cũng chẳng hiểu rõ chúng.

Eugene Ford đã kết luận rằng, “Không hề có âm mưu nham hiểm gì trong thái độ chuyên tâm gia tăng năng lực dân sự, và lòng chân thành cũng như kỹ năng chuyên môn sâu của những người Mỹ thực hiện các chương trình này tại các địa phương, và họ hoàn toàn không mang hình ảnh của những kẻ cao ngạo chuyên đi chỏ mũi vào chuyện người khác”.

Mặc dù là như thế, cuộc tình lãng mạn giữa người Mỹ và Phật giáo lại rất ngắn ngủi và cũng không có kết thúc mỹ mãn.

Cho dù Hoa Kỳ đã hỗ trợ về cả quân sự lẫn mặt trận tôn giáo, các chính thể cộng sản vẫn trở thành kẻ nắm quyền tại Việt Nam, Laos, và Cambodia – nơi mà Khmer Đỏ đã tàn sát hàng loạt các tăng lữ thâm niên và bỏ tù những vị khác ở các trại cải tạo sau đó.

Tại Burma, sau khi chế độ quân phiệt truất phế Thủ tướng U Nu năm 1962, quân đội Burma quyết định sẽ chiến đấu với quân cộng sản bằng phương pháp “truyền thống” hơn, đó là bằng súng ống.

Với sự hậu thuẫn ngầm của Hoa Kỳ, chính quyền Thailand tự tổ chức các cuộc đàn áp người cộng sản và phe cánh tả bằng một cách hết sức tàn nhẫn, đủ khiến cho những công việc của Quỹ Châu Á trở nên chẳng quan trọng gì nữa.

*

Tôi mang phần lịch sử này ra kể lại hôm nay, vì muốn nhắc nhở tất cả chúng ta về những góc khác của Phật giáo. Sự cuồng nhiệt của Phương Tây đối với các phẩm chất tinh thần đầy bí ẩn của Phật giáo đã che khuất một phần quá khứ đầy chính trị và đôi khi mang cả một chút bạo lực của tôn giáo này.

Chúng ta vốn không nắm rõ được những gì mà các tăng sĩ Phật giáo Thiền tông của Nhật Bản đã cổ súy, để các hoàng đế của đế quốc này tiến vào Trung Quốc như một cuộc thánh chiến.

Chúng ta cũng không bỏ thêm thời gian để suy nghĩ về những vị sư Sri Lanka, những người đã chúc lành cho các quân nhân trước khi ra mặt trận để chiến đấu với phe phiến quân Hổ Tamil (Tamil Tiger).

Để rồi chúng ta cảm thấy bị bất ngờ trước những gì đang xảy ra ngay hôm nay ở Myanmar, khi các vị tăng sư dùng chủ nghĩa dân tộc để thổi bùng lên những cuộc bạo động tôn giáo và ủng hộ việc tàn sát người Hồi giáo.

Bài học ở đây không phải là Phật giáo có những căn tính bạo lực – Phật giáo vốn không hề có. Thế nhưng, cũng như tất cả các tôn giáo khác, thì ngay cả những tôn giáo ôn hòa nhất cũng có thể bị kẻ khác làm biến dạng để sử dụng cho những mục đích chính trị, mà đôi khi là rất tàn ác.

Liệu có phải chính Chiến tranh Lạnh đã tiếp nhiên liệu cho tính chiến đấu của một số những người Phật tử, như nó đã từng bơm năng lượng cho các quân cảm tử (mujahid) ở Afghanistan hay không?

Đó là một câu hỏi mà Eugene Ford đã để lửng trong câu chuyện của mình, và cũng là câu hỏi mà không ai có thể trả lời được. Thế nhưng, những căng thẳng của thời kỳ Chiến tranh Lạnh chắc chắn đã khiến cho Phật giáo bị chính trị hóa nặng nề hơn.

Một trong những ví dụ về những nhà sư đã bị chính trị hóa mà Eugene Ford kể trong sách của ông là một vị người Thái có tên, Kittivudho.

Kittivudho đã được nhiều người biết đến khi so sánh giết cá với tàn sát người cộng sản:

“Sát sinh loài cá đương nhiên không được kính trọng, nhưng nếu chúng ta bỏ nó vào một cái bát dùng để khất thực của một vị sư, thì việc ta làm lại trở thành vô cùng có đức hạnh”.

Nguồn: Luật Khoa tạp chí

800 tỉ đồng của dầu khí 'bốc hơi' thế nào?

13/09/2017 09:25 GMT+7

TTO - Trong đại án xảy ra tại Ngân hàng TMCP Đại Dương - OecanBank, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) tham gia với tư cách nguyên đơn dân sự, được xác định đã mất 800 tỉ đồng trong vụ án này.

TÂM LỤA - VIỆT THÁI