12-2-2020
Chiến lược về “không gian sinh tồn” của TQ đã có từ rất sớm so với các quốc gia Châu Á, do Tưởng Giới Thạch khởi xướng. Dĩ nhiên chiến lược này “lấy hứng” từ các học thuyết “địa chính trị” của các học giả Tây phương cũng như các mô hình “đế quốc” trong lịch sử.
Tập sách “Không gian sinh tồn”, L’Espace Vital – Lebensraum, tác phẩm nghiên cứu về “địa lý chính trị” – Géopolitique – nổi tiếng của Friedrich Ratzel xuất bản năm 1902 là một thí dụ điển hình. Cốt lõi tập sách này đề cập đến sự thành hình của một đại cường quốc, đặt nền tảng trên 7 định luật:
1. Không gian (sinh tồn) của một dân tộc được mở rộng đồng thời với văn minh của dân tộc đó. Một dân tộc có nền văn minh tiến bộ sẽ đồng hóa các dân tộc kém văn minh hơn.
2. Lãnh thổ quốc gia sẽ mở rộng theo tỉ lệ thuận với sức mạnh kinh tế và đội ngũ thương buôn của quốc gia. Việc mở rộng đế quốc vì thế chỉ tùy thuộc vào ý chí và phương tiện.
3. Việc bành trướng của đế quốc được thực hiện qua phương cách “chiếm đóng” một nước nhỏ hơn, sau đó “đồng hóa” về ngôn ngữ, văn hóa… đối với dân chúng.
4. Đường biên giới quốc gia không xác định (frontière vivante). Biên giới xác định chỉ có giá trị tạm thời, chỉ để đánh dấu giữa hai giai đoạn bành trướng.
5. Trong quá trình bành trướng, lãnh thổ, tài nguyên… là mục tiêu chính.
6. Đối tượng đầu tiên của chủ nghĩa bành trướng là các quốc gia yếu kém ở kế cận. Một cường quốc không thể phát triển để trở thành “đế quốc” nếu quốc gia lân bang cũng là cường quốc.
7. Hiện tượng bành trướng có khuynh hướng lan rộng do việc tranh dành lãnh thổ giữa các quốc gia.
Hitler lấy hứng từ lý thuyết này để viết cuốn “Mein kampf” chủ trương về một “chủng tộc siêu việt”, từ đó thành lập IIIe Reich (Đức Quốc Xã), mở ra Thế chiến II.
Những nhà chiến lược hiện đại cho rằng lý thuyết “địa lý chiến lược” của Ratzel là sơ khai, lỗi thời.
Điều này đúng nếu ta xét trường hợp của các đế quốc (thuộc địa) cũ như Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hòa Lan… Lãnh thổ không còn là đối tượng chinh phục của các “đế quốc”. Nhưng trong chừng mực, ở một số điểm, lý thuyết này vẫn đúng, ngay cả cho Mỹ, vào ở thời điểm hiện tại.
Thực tế cho thấy rằng Mỹ không chấp nhận bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới này thách thức vị thế của Mỹ, ngay cả về ý thức hệ chính trị. Nói chi đến các quốc gia kế cận. Ngoại trừ Canada, tất cả các quốc gia Nam Mỹ khác đều “nghèo”. Mặc dầu các quốc gia này có dư tiềm năng để trở thành một đại cường, như Bresil, Venezuela, Argentine…
Cuba vì đối kháng ý thức hệ, đã bị Mỹ “trừng phạt” từ nhiều thập niên.
Canada là một “ngoại lệ” vì “tương đồng” với Mỹ nhiều thứ, từ nguồn gốc xuất phát của dân chúng và lịch sử thành hình quốc gia, cho tới ý thức hệ chính trị. Hai quốc gia chia sẻ chung một di sản văn hóa và văn minh, nói cùng một thứ tiếng. Canada và Mỹ có quan hệ “cộng sinh”. (Điều này chỉ thay đổi khi Canada có một đường lối ngoại giao thù nghịch với Mỹ, đồng thời có quan hệ quốc phòng thân thiết với Nga và TQ).
Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, lý thuyết này là một vấn đề thời sự cho trường hợp Trung Quốc, một cường quốc đang khẳng định tư thế của mình trong khu vực.
Tư tưởng “không gian sinh tồn” của Tưởng Giới Thạch rất đơn giản, có thể tóm lược trong một câu: Không gian sinh tồn của TQ là vùng không gian cần thiết để chủng tộc Hán sinh tồn và biên giới của không gian này được đánh dấu bằng các cột mốc của nền văn minh Trung Hoa.
Xét trên từng chữ thì không gian sinh tồn của TQ có thể mở ra vô tận. Vùng đất nào, vùng biển nào… cần thiết cho TQ thì vùng đó thuộc “không gian sinh tồn” của TQ. Dân số TQ lên đến 1 tỉ 400 triệu người. Khối dân chúng này “túa” ra tới đâu thì “ranh giới” của không gian sinh tồn của TQ được đánh dấu tới đó.
Tư tưởng của Tưởng Giới Thạch được Đặng Tiểu Bình thừa kế. Di sản này sau đó chuyển giao cho các thế hệ lãnh đạo sau này là Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào và hiện nay Tập Cận Bình.
Từ đầu năm 2010 ta nghe từ viên chức ngoại giao TQ: Biển Đông là lợi ích cốt lõi của TQ. Ý kiến này chưa bao giờ trong lịch sử TQ nhắc đến.
Bảy định luật của Ratzel đã hoàn toàn chứng nghiệm cho dân tộc Hán từ lập quốc đến ngày hôm nay.
Định luật 1: Nền văn minh Hán Tộc đã đồng hóa tất cả các dân tộc khác, kể các các dân tộc dũng mãnh đã chiếm hữu và trị vì Trung Quốc. Văn hóa các dân tộc Mãn Châu, Mông Cổ, Liêu, Kim… đã không còn dấu vết ở Trung Quốc.
Định luật 2: Hiện đang thích ứng cho tình trạng TQ hiện nay. Sự vượt trội về kinh tế, cho phép nước này hiện đại hóa quân đội. Những đòi hỏi của TQ ở biển Đông hay với Nhật qua tranh chấp Senkaku, cho thấy ý chí muốn chinh phục của nước này.
Định luật 3: Định luật này cùng với định luật 1 đã được dân tộc Hán áp dụng từ thời mới lập quốc và còn đang tiếp tục cho đến hôm nay. Dân tộc Hán luôn bành trướng và tiêu diệt (hay Hán hóa) tất cả các dân tộc khác. Hiện nay việc đồng hóa đang được thực hiện ráo riết tại Tây Tạng.
Định luật 5 cho thấy vẫn chưa lỗi thời, TQ đặt ra mục tiêu phải chinh phục Trường Sa và Senkaku. Nhưng định luật này cần cập nhật thêm vì chủ đích của việc chinh phục sẽ là vùng biển, là tài nguyên chứa đựng trong đó.
Định luật 6 phản ảnh rõ rệt thái độ bành trướng của Trung Quốc ngày hôm nay: VN và Phi, hai nước yếu, nằm trong tầm nhắm của TQ. Trung Quốc không bao giờ muốn thấy một Việt Nam giàu mạnh. Một nước Việt Nam giàu, mạnh sẽ ngăn cản sức bành trướng của Trung Quốc. Về kinh tế, ta thấy VN hiện nay phụ thuộc vào TQ. Đó cũng là một biến dạng của lý thuyết “không gian sinh tồn”, biến VN thành một chư hầu kinh tế.
Từ định luật 6, ta thấy cuộc chiến giữa TQ và các quốc gia kế cận chắc chắn sẽ xảy ra. TQ không thể trở thành đại cường nếu có các nước Nhật, Hàn, VN… hùng mạnh ở kế bên (và ngược lại).
Ở điểm này các quốc gia Nhật, Hàn (và có thể là VN sau này) được sự trợ giúp của Mỹ để phát triển. Nếu Nhật, Hàn (và VN sau này) là các quốc gia hùng mạnh, việc này sẽ cản trở sự trỗi dậy của TQ. Vấn đề là lãnh đạo Mỹ có thấy điều này hay không và nhất là lãnh đạo VN có nhận thức được điều này hay không?
Định luật 7 cho thấy có nhiều điều cần điều chỉnh lại. Đất đai không còn là mục tiêu tranh chấp mà là việc tranh giành thị trường, giành vùng ảnh hưởng, hay việc xung đột giữa các nền văn minh (theo thuyết của Samuel P. Huntington).