Thứ Bảy, 3 tháng 9, 2016

“Cái gì dân muốn thì trời cũng phải thuận theo”

XUÂN DƯƠNG


  )
Xô Viết Nghệ Tĩnh - Phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân Nghệ An và Hà Tĩnh trong năm 1930 - 1931. Ảnh minh họa từ vovgiaothong.vn
(GDVN) - Không tin dân, chưa dám tin dân dẫn đến “sợ dân” chính là nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ.
Báo Nhân dân điện tử ngày 31/8/2016 đăng bài “Gánh nặng trách nhiệm trước lịch sử và tương lai” của Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.
Đảng phải “lấy lại niềm tin trước sự rộng lượng của nhân dân” là một trong các ý kiến của ông Trương Tấn Sang trong bài này.

Móng tay quyền lực to hay bé?

Trong 71 năm tồn tại của nền cộng hòa, gần 40 năm đất nước sống trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, hết đánh Pháp đến đánh Mỹ.
Cuộc chiến chống bọn diệt chủng Pol Pot và quân xâm lược Trung Quốc mãi đến cuối những năm 80 của thế kỷ trước mới tạm chấm dứt.
Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam chỉ thực sự được hưởng hòa bình chưa đầy 30 năm.
Thế nhưng cũng từng ấy năm, tính từ Đại hội Đảng lần thứ 7 (24-27/6/1991) đã xuất hiện các nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và sự nghiệp cách mạng của dân tộc, trong đó nổi bật là nguy cơ tham nhũng, sự phân hóa giàu nghèo giữa các vùng miền và các tầng lớp dân cư.
Những đảng viên Cộng sản chân chính lại phải bắt đầu một cuộc chiến mới, không chỉ với các thế lực thù địch luôn nhăm nhe nơi biên giới, hải đảo mà còn với chính đồng chí của mình, một số trường hợp với chính cấp trên của mình.
Nếu tại đại hội 7, “tham nhũng và nhóm lợi ích” mới là nguy cơ thì đến đại hội 12 nó đã là một thực tế công khai không cần giấu diếm, đã trở nên hùng hậu hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đó.
Đã hình thành ngay trong Đảng một nhóm lợi ích độc quyền về kinh tế và chính trị”, nhóm này không chỉ “chi phối” mà còn "thâu tóm, lũng đoạn"  Nhà nước, như ý kiến của nguyên Phó ban thường trực Ban tuyên giáo Trung ương Vũ Ngọc Hoàng.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh: Gần dân, tin dân, biết dựa vào sức dân để xây dựng đất nước (Ảnh: dangcongsan.vn).
Trước đây, những bài viết nhân dịp lễ lớn thường điểm lại các thành tích đã đạt, sau đó mới “tuy nhiên còn một vài tồn tại…”.
Bài viết của ông Trương Tấn Sang không theo thông lệ đó không phải vì ông không khen mà chỉ tập trung vào phân tích.
Nói gì thì nói, phần đông người Việt ngày nay không còn phải chứng kiến bữa cơm mà thành phần chính là ngô, khoai, sắn độn gạo. Gia đình nghèo cũng có cái xe máy Tàu, cái tivi màu để xem.
Nhưng như thế đã phải là một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, đã là mơ ước ngàn đời của người Việt?
Đúng như ông Trương Tấn Sang nhận định: “một cá nhân, dẫu có là một vị “vua tốt”, có khi cũng chỉ biên soạn được những bản anh hùng ca dang dở”.
Vị “vua tốt” không mấy khi bị hậu thế chê trách, tuy nhiên để lưu danh thiên cổ như một “Minh Quân” thì tốt chưa đủ.
“Tốt” có thể là “tốt” với Vua nhưng chưa đủ “tốt” với Dân.
Chính vì thế, người Việt ngày nay cần một vị “vua tài” trước khi cần vị “vua tốt”, nói theo lời ông Trương Tấn Sang: “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” tiêu chí đầu tiên là “có tài, có liêm sỉ” tiếp đó là “có khát vọng cống hiến”…
Loài người không thể thay đổi lịch sử nhưng cũng chính lịch sử cho thấy, con người luôn tìm cách bẻ cong lịch sử bởi những mưu đồ chính trị của kẻ mạnh, của tầng lớp thống trị.

Quyền lực trị quốc và vai trò Quân vương

(GDVN) - Dùng cấp dưới để hiện thực hóa ý tưởng, dựa vào thần dân để củng cố ngai vàng, chỉ có vậy quyền uy của Quân vương mới thực sự vững bền.
Những việc làm sai trái, xấu xa luôn được che đậy bởi những mớ lý luận thật giả lẫn lộn.
Các cuộc chiến tranh phi nghĩa diễn ra gần đây luôn được giải thích bằng những lý do “chính đáng” như bảo vệ nhân quyền, chống độc tài, phản kích tự vệ...
Điều cuối cũng vẫn là các quốc gia nhỏ bé như Iraq, Libya, Syria… bị tàn phá vì bom đạn của các nước lớn.
Những “quy trình” được vận dụng để giải thích cho không ít việc làm trái đạo đức, trái pháp luật phần lớn đều dẫn đến kết quả là quan chức đúng, dân sai hoặc dân không sai nhưng quan chức (hầu như) luôn đúng?
Sự kiện lịch sử không thể thay đổi nhưng chính con người, bằng nhãn quan chính trị của mình lại đánh giá nó theo các cách khác nhau, nhiều khi là đối nghịch nhau.
Người Mỹ cho rằng chiến tranh thế giới 2 kết thúc nhờ hai quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Nhật Bản, người Nga lại cho rằng nhờ Hồng quân Liên Xô giải phóng Berlin và tiêu diệt đạo quân Quan Đông của Nhật.
Thực trạng đất nước hôm nay rồi đây cũng sẽ được hậu thế đánh giá, sẽ không thể không có tiếng khen, lời chê. Điều quan trọng là ngay hôm nay, dân chúng nghĩ gì, cảm nhận thế nào về việc làm của người lãnh đạo?
Không phải chỉ những đảng viên chân chính, người dân cũng thực sự đau lòng với câu hỏi và cũng là nỗi trăn trở của nguyên Chủ tịch nước:

“Nhóm lợi ích” đang chuẩn bị để đối phó với quyết tâm của Tổng Bí thư?

Với đội ngũ hùng hậu hơn 4,5 triệu đảng viên  hiện nay, đặc biệt là trong ban lãnh đạo, ai là những người đủ dũng cảm để gột sạch những vết nhem nhuốc làm vấy bẩn đội ngũ của chúng ta?”.
Ông Trương Tấn Sang khi nêu câu hỏi cũng đã đề cập đến vấn đề mấu chốt “ai là những người đủ dũng cảm”?
Đủ dũng cảm” vẫn là chưa đủ nếu không có lực lượng ủng hộ đủ mạnh, đủ sức trấn áp bè lũ “bán nước, hại dân” đang kết bè, kéo cánh, đang "thâu tóm, lũng đoạn" Nhà nước.
Người viết cho rằng nếu chỉ dựa vào các đảng viên và “ban lãnh đạo” thì việc “gột sạch những vết nhem nhuốc làm vấy bẩn đội ngũ” sẽ vô cùng khó khăn, sẽ lại phải là một cuộc “kháng chiến trường kỳ” chưa biết lúc nào kết thúc.
Để chống lại “nhóm lợi ích” các đảng viên chân chính và “ban lãnh đạo chân chính” cũng phải tập hợp “nhóm lợi ích” của mình, đó là “nhóm lợi ích quốc gia, dân tộc”, hiểu nôm na là “nhóm lợi ích toàn dân”.
Đảng hãy tin Dân như ngày xưa sống trong lòng dân, được dân đùm bọc, che chở. Hãy để Dân giúp Đảng bởi Dân rất rộng lượng, Dân chưa mất niềm tin vào Đảng.
Không tin dân, chưa dám tin dân dẫn đến “sợ dân” chính là nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng, của chế độ.
Đại danh nhân Nguyễn Trãi  đã từng dạy: “chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân. Lật thuyền mới biết dân như nước”...
Câu nói dân gian ngày nay: “đừng nghe cán bộ nói, hãy nhìn việc cán bộ làm” phản ánh tâm tư của đa số dân chúng, tại sao lại như vậy?
Hưng Ðạo Đại vương Trần Quốc Tuấn phút lâm chung đã mượn ý người xưa “cái gì dân muốn thì trời cũng phải thuận theo” để căn dặn Ðức vua Trần Anh Tông kế sách trị quốc: “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”.
Liệu có sai không khi cho rằng “đừng sợ nhân dân nói, hãy sợ nhân dân làm”?
Điều đơn giản ấy xem ra nhiều người hiểu nhưng tiếc rằng không phải ai cũng “sợ” bởi có người đã phát biểu công khai: “không cần hỏi dân, dân biết gì mà hỏi”.
Không ít người vẫn cho rằng dân chỉ là cỏ, mà đã là cỏ thì khi hai con voi đánh nhau hay khi chúng “yêu” nhau cỏ dưới chân luôn bị dẫm nát?

“Thắng không cần làm vua, thua dân lập đền thờ”

Chính vào lúc này, những chuyển động trong lời nói và việc làm ở cấp cao là điều người dân có thể nhận thấy, tiếc rằng những gì diễn ra hàng ngày dường như lại chưa được như vậy.
Đã quá thời hạn để báo cáo về vụ Trịnh Xuân Thanh, đã quá lâu để trả lời cho dân bao giờ có thể ăn cá tại vùng biển bị Formosa đầu độc, đã quá lâu để có câu trả lời bao giờ người Việt không còn phải ăn thực phẩm bẩn, và cũng lâu lắm rồi người dân vẫn chờ câu trả lời “bao giờ mới có thể công khai tài sản quan chức”?
Dân chúng rất rộng lượng và kiên nhẫn, thế nhưng có nên để dân phải kiên nhẫn hơn nữa, rộng lượng hơn nữa?
Những điều mà dân muốn “trời cũng phải thuận theo”, vậy nên thuận theo ý dân cũng là thuận theo lẽ tự nhiên của trời đất. 
Ý dân hôm nay chính là điều ông Trương Tấn Sang đã nhắn nhủ: “ai đó cảm thấy không đảm đương được công việc hãy tự nguyện trao lại mái chèo, hoặc Đảng buộc họ phải ra đi”.
Suốt mấy chục năm qua, dân chưa thấy ai “tự nguyện trao lại mái chèo” vì đa số cán bộ ai cũng “đảm đương được công việc”. Có người dẫu đã bị Tổng Bí thư chỉ đích danh, đã bị Ủy ban Kiểm tra Trung ương xem xét nhưng người ta vẫn cố “chờ” kết luận xem may ra có thể “rút kinh nghiệm sâu sắc”?
Chờ đợi để người ta tự “cảm thấy” sẽ chỉ xảy ra khi mà các “Quý vị công bộc” thấm nhuần “văn hóa xấu hổ”, còn nếu sự “xấu hổ” khó tìm thì thôi không chờ đợi nữa, tốt nhất là “Đảng buộc họ phải ra đi”.
Đạo làm quan phải sao cho khi trở lại làm dân có thể ngẩng cao đầu, không phải lầm lũi mà đi, đó là cái phúc của gia đình, dòng tộc và cũng là cái phúc của quốc gia.
Người xưa dạy như thế, ngày nay ông Trương Tấn Sang cũng có lần nói đại ý như thế, còn bao nhiêu người khác nói như người xưa, chắc không ít nhưng chắc cũng không nhiều.
Xuân Dương
TỪ KHÓA :
chống nhóm lợi ích , dân và nước , dựa vào nhân dân , quyết tâm của Tổng bí thư , lãnh đạo
CHỦ ĐỀ : KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Nền tảng quốc gia – cơn khát giữa sa mạc?

02/09/2016

Đông Nguyễn
30-8-2016
H1
Nhật Bản sau thế chiến thứ hai, nền kinh tế rơi vào suy thoái, mỗi bữa trưa của Nghị viên Quốc hội cũng phải ăn cơm trộn khoai lang, và cái đói bao trùm khắp nước.
Lúc bấy giờ, tướng Mỹ Douglas MacArthur – Tư lệnh của quân đồng minh (bên thắng cuộc) đã đến để xây dựng nền tảng quốc gia cho Nhật Bản trong tinh thần hòa giải đoàn kết. Ông đã lập tức ra lệnh thả tù nhân chính trị và đôn đốc Quốc hội thông qua bản Hiến pháp mang đậm giá trị dân chủ phương Tây. Theo đó, Chính phủ Nhật Bản phải do toàn thể cử tri trao quyền và phải chịu trách nhiệm trước toàn thể cử tri.
Bản Hiến pháp đó cũng nhấn mạnh những quyền lợi công dân cơ bản của người Nhật, xem những quyền lợi này là “quyền lợi trời cho mà không ai có quyền tước đoạt”. Những quyền này bao gồm: Quyền bầu cử, lập hội và tự do xuất bản; không có sự tham gia của luật sư thì không được định tội; bảo đảm quyền cư trú an toàn cho dân, cấm kiểm tra và tước đoạt tài sản vô cớ…
Tiếp đó Quốc hội Nhật Bản đã thông qua một loạt các chính sách cải cách như về giáo dục, với việc chọn lựa nhà giáo, sách học và bố trí chương trình hoàn toàn do người dân tự chủ quyết định…
Từ việc xây đựng nền tảng chính trị đó, với những tiền đề tiến bộ đầu tiên này đã cơ bản giúp người Nhật bước vào con đường thênh thang của hòa bình thịnh vượng. Hơn 10 năm sau, Nhật Bản đã trở thành một cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới.
Còn đối với cường quốc số một thế giới thì sao? Nếu chúng ta biết rằng để có được nước Mỹ như ngày hôm nay, chỉ xuất phát từ những con người đã đặt nền tảng pháp luật chuẩn mực và dân chủ đầu tiên trong bản hiến pháp có hiệu lực năm 1789, thì chúng ta cũng sẽ ngỡ ngàng vì sao nền tảng ấy lại hữu hiệu đến đáng kinh ngạc như vậy.
Đơn giản vì nó được xây dựng trên tinh thần hợp nguyên (đa nguyên nhưng hợp tác), khi những con người ấy biết đặt quyền lợi của dân tộc, quốc gia lên trên mọi quyền lợi của phe đảng và cá nhân họ, từ đó tạo ra một bản hiến pháp có giá trị bất hủ được người dân phúc quyết thông qua. Bản hiến pháp đã đi tiên phong trong việc lựa chọn một thể chế chính trị phù hợp trong xu hướng tiến bộ chung của toàn nhân loại.
Theo đó học thuyết tam quyền phân lập của Montesquieu được áp dụng để xây dựng một cơ chế chính trị ràng buộc, kiểm tra và giám sát hoạt động lẫn nhau của thiết chế quyền lực nhà nước, với ba cơ quan Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp tách bạch.
Đây được xem là một mô hình quản lý nhà nước khoa học bậc nhất cho đến thời điểm hiện nay với mục tiêu kiềm chế quyền lực để hạn chế lạm quyền, bảo vệ tự do dân chủ của công dân và đảm bảo việc xây dựng, thực thi được một hệ thống pháp luật chuẩn mực. Chính điều đó mới tạo ra được một nước Mỹ hùng mạnh như ngày nay – điều mà công dân của bất kỳ quốc gia nào cũng đang khao khát.
Có thể nói một trong những nền tảng chính trị quốc gia luôn được khởi nguồn từ việc xây dựng một hệ thống pháp luật chuẩn mực với “hạt giống” đầu tiên là bản hiến pháp dân chủ và phải được người dân phúc quyết thông qua, để từ đó dân quyền mới trở nên hiện thực.
Pháp luật có chuẩn mực?
Tại Việt Nam, với một cơ chế nhà nước tập trung, các cá nhân vừa tham gia Lập pháp, vừa tham gia Hành pháp, cũng kiêm nhiệm luôn Tư pháp thì liệu có thể tách bạch và kiểm soát quyền lực của nhau được không?
Và, pháp luật liệu có phát huy hết quyền năng của nó khi luôn có những “ông vua con” đang ngày ngày “cưỡi lên đầu nhân dân còn kinh khủng hơn địa chủ, tư sản…!”.
Như vậy, chúng ta có cơ chế nào để kiểm soát quyền lực của họ đây, khi Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp cũng chỉ là họ? Và, chúng ta đã xây dựng, thực thi được hệ thống pháp luật chuẩn mực chưa khi tham nhũng, lợi ích nhóm đã và đang trở thành quốc nạn và có xu hướng ngày càng gia tăng?
Hay khi những người đang ngày ngày có trách nhiệm thực thi công lý, liệu họ có dám tự hào nói rằng mình chỉ dựa vào luật pháp và công lý mà chưa bao giờ làm theo sự chi phối hoặc chỉ đạo bởi những thế lực không phải là công lý?
Vì đã có quá nhiều bất công trong việc vận dụng pháp luật, như vụ “cướp bánh mì” của 2 thiếu niên phạm tội thì bị trừng trị với một bản án rất hà khắc, trong khi đó, vụ “14 lần vỡ ống nước sông Đà” gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội, với 5 quan chức Vinaconex đã đủ cơ sở cấu thành tội phạm thì lại khoan hồng, không truy cứu trách nhiệm hình sự.
Cũng như trong thảm họa Formosa đã hủy diệt nền kinh tế biển của bốn tỉnh miền Trung, đẩy người dân vào tột cùng của sự đói khổ, nhiều người đã bỏ mạng, nhiều người phải tha hương. Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, môi trường, kinh tế… ít nhất cũng 50 năm nữa mới thống kê hết được.
Nhưng một bản án dành cho những hành vi vi phạm đó, hay thậm chí cho những kẻ tiếp tay, cũng chỉ là sự mong mỏi vô vọng của người dân, trong khi pháp luật hình sự đã quy định rành rành về những tội ác đó.
Hay mới đây, trong vụ “đập 7 hộp sữa” xảy ra ở thành phố Vinh, người thực hiện hành vi đó đã bị bắt tạm giam và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội hủy hoại tài sản. Nhưng trong vụ “đập 7 cây cầu” ở thành phố Cần Thơ, quan chức đã xâm hại đến tài sản của toàn dân, với mức độ thiệt hại chắc chắn nghiêm trọng hơn rất nhiều lần, nhưng cuối cùng chỉ dừng lại ở mức kiểm điểm, khiển trách lấy lệ.
Nếu mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thì việc ông bố đập 7 hộp sữa có thể bị khởi tố thì hành vi hủy hoại 7 cây cầu không thể không bị truy cứu trách nhiệm.
Và, những câu chuyện như vậy đang khiến dư luận đặt rất nhiều câu hỏi về sự khác biệt trong cách thực thi luật pháp giữa người dân và những “ông quan”, khi chỗ cần nhân đạo thì không nhân đạo, trong khi kẻ cần trừng trị răn đe thì lại khoan hồng.
Dân bức xúc và mất niềm tin vào pháp luật cũng là điều tất yếu, và yêu cầu cấp bách được đặt ra là: nếu không xây dựng, vận hành một cách chuẩn mực hệ thống pháp luật để làm nền tảng và động lực cho xã hội phát triển, thì liệu có thêm nửa thế kỷ nữa chúng ta có thoát nghèo và xóa bỏ được những bất công gay gắt đang tồn tại trong lòng xã hội hay không?
Hiện nay, đã rõ ràng, đó là thất bại, thất bại của những bản án, của công tác tư pháp và một nền tảng pháp luật chuẩn mực?
Dân quyền có hiện thực?
Cũng đã gần nửa thế kỷ kể từ ngày được gọi là “giải phóng” miền Nam. Luật trưng cầu ý dân mới được xây dựng và có hiệu lực 01/7/2016.
Theo tôi nhận định đó cũng là một bước tiến về xây dựng hệ thống pháp luật của Việt Nam, tuy quá muộn màng nhưng có lẽ còn hơn là không có.
Nhưng rồi trong tương lai, quyền làm chủ của người dân thông qua việc trưng cầu dân ý này liệu có trở thành hiện thực và liệu Quốc hội có trưng cầu ý dân “Về toàn văn Hiến pháp hoặc một số nội dung quan trọng của Hiến pháp”?. Ví dụ như tại điều 53 của Hiến pháp – Đất đai là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu – có nên chuyển sang quy định đất đai thuộc đa thành phần sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân?
Vì chính quy định “khác người” này trong Hiến pháp mà biết bao nhiêu gia đình chỉ qua một đêm đã trở thành những kẻ vô gia cư hoặc phải chịu cảnh tù tội, bao nhiêu vụ án cướp đất, bao nhiêu tiêu cực liên quan đến hành chính cũng từ nó mà ra.
Và, cũng vì nó mà trong xã hội xuất hiện thêm một “giai cấp” mới – giai cấp dân oan, với một lực lượng hùng hậu đang khiếu kiện ngày càng mạnh mẽ hơn trên khắp mọi nẻo đường của đất nước. Chính điều đó đã làm xói mòn niềm tin của người dân, làm lãng phí nguồn nhân lực nông dân lao động… Vậy, liệu Quốc hội có dám trưng cầu dân ý về việc thay đổi quy định này không?
Cũng như hiện nay, có lẽ hầu hết người dân Việt Nam đều rất rõ về âm mưu bành trướng của nhà cầm quyền Trung Quốc, khi họ đã dùng vũ lực để cướp toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và một phần quần đảo Trường Sa của Việt Nam.
Không dừng ở đó, với yêu sách “đường lưỡi bò” để âm mưu độc chiếm gần trọn biển Đông, họ cấm đánh cá, bắn giết ngư dân ta một cách tàn nhẫn, hòng gieo rắc nỗi sợ hãi kinh hoàng trên toàn biển Đông.
Ngoài ra, họ luôn tìm cách thao túng, phá hoại và làm ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống kinh tế – xã hội của người dân Việt Nam.
Chính điều đó cho thấy họ đang thực hiện chủ nghĩa bá quyền Đại Hán và dùng bạo quyền để mở rộng biên giới, mở rộng vùng ảnh hưởng lên toàn Việt Nam.
Như vậy, liệu Quốc hội Việt Nam có sẽ thực hiện việc trưng cầu ý dân về vấn đề “chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại” trong việc lựa chọn đồng minh hoặc thái độ đối với nhà cầm quyền Trung Quốc?
Hay trưng cầu ý dân về “Vấn đề đặc biệt quan trọng về kinh tế – xã hội có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của đất nước”? Như thảm họa Formosa vừa rồi đã cướp đi biết bao sinh mạng của người dân, gây ra những thiệt hại khủng khiếp về mặt kinh tế và sự hủy diệt môi trường của bốn tỉnh miền Trung, cũng như sự tồn tại của dân tộc.
Như vậy, Quốc hội đã trưng cầu ý dân chưa về việc quyết định số phận của Formosa, mà Chính phủ đã vội hoàn thành việc ký kết thỏa thuận với một con số bồi thường hời cho kẻ gây thiệt hại và lại tiếp tục cho nó được tồn tại, để một ngày không xa có thể thảm họa Formasa 2, 3 lại tiếp tục giáng xuống đầu những người dân vô tội?
Hoặc riêng về quyền biểu tình, việc xây dựng Luật biểu tình là rất cần thiết để những người yêu nước có trách nhiệm với xã hội thực hiện quyền hiến định của mình. Nhưng bao nhiêu năm tháng Quốc hội vẫn chây ỳ không làm luật để tạo hành lang pháp lý thuận tiện cho người dân thực hiện quyền này.
Đó là một việc làm hạn chế quyền con người mà chính những người mang tiếng là “đại diện cho nhân dân” lại đang cố tình ngăn cản quyền cơ bản đó của nhân dân, điều đó là vi hiến. Vậy, liệu dân quyền đã hiện thực?
Dù thế nào đi chăng nữa, tôi chắc chắn một điều rằng sau gần nửa thế kỷ kể từ ngày thống nhất lãnh thổ và tồn tại song song với sự phát triển như vũ bão của nhân loại, chúng ta vẫn chỉ là một đất nước nghèo nàn, tụt hậu về mọi mặt, môi trường bị ô nhiễm, tài nguyên cạn kiệt, đạo đức đang ngày càng tha hóa suy đồi, bất công xã hội lan rộng, phân hóa sâu sắc giàu nghèo, tham nhũng bè cánh trở thành quốc nạn mà không thể nào kiểm soát được.
Có lẽ giờ đây người dân trên đất nước Việt Nam này đang khát lắm những ngụm nước mát lạnh của một nền tảng pháp luật chuẩn mực và dân chủ thật sự, để tạo tiền đề xây dựng đất nước trở thành một quốc gia hùng cường. Họ khát khao được cầm trên tay lá phiếu để thực thi quyền làm chủ của mình hay trực tiếp chọn cho mình những người lãnh đạo có thể lèo lái con thuyền quốc gia này mà họ thật sự biết rõ và tin tưởng.
Vì đơn giản là họ muốn thoát khỏi sự nghèo khổ triền miên đến cùng cực, cường quyền, những bất công, và hơn hết là họ không muốn phải bỏ lại quê hương đất nước này để tìm kiếm vùng trời tự do, hay mưu cầu sự an toàn trên những mảnh đất xa lạ khác. Cũng đơn giản vì đây là tuổi thơ, là máu thịt, và cha ông họ đã bao đời luôn gọi xứ sở này là Tổ quốc.

Về tác giả: Luật sư Đông Nguyễn thuộc Đoàn luật sư Sài Gòn và hiện đang sống và làm việc tại Sài Gòn.