Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2016

Về bài thơ của bà Từ Cung gởi vua Bảo Đại

This entry was posted on Tháng Mười Một 24, 2016, in Lịch sử Việt Nam and tagged , , . Bookmark the permalink. Để lại bình luận

tu-cung
Gia đình vua Bảo Đại với Đức Từ Cung, mẹ của vua
Võ Hương An
           Trong khi lang thang trên cái không gian bao la của thế giới ảo, tôi đã bắt gặp một bài thơ lạ, lạ là vì tác giả của nó có một thân phận khác thường, lạ vì văn chương vốn không phải là nơi quen thuộc của tác giả. Xin mời bạn đọc thưởng thức bài thơ sau đây mà đừng vội để ý đến những lỗi về chính tả. Những dấu vết văn tự lý thú ấy sẽ được đánh dấu và bàn đến sau. Bài thơ vô đề, xin chép nguyên văn như sau:
Thương con đau ruột mẹ trăm chìu,
Thao thức canh tàng luống quạnh hiu!
Bóng xế thẩn thơ vường Thượng uyển,
Người buồn xui cảnh cũng buồn thiu!
Thương con thơ ấu đã không cha!
Du học nước người chẳng quản xa.
Thời thế phong trào đâu đã thấu,
Hai vai nặng một gánh sơn hà!
Nhớ con cách trở mấy năm trời!
Muông dặm sơn khê khó hết lời,
Dẹp nổi việc nhà vì việc nước,
Non xanh bể thẳm lúc đầy vơi!
Vắng con nào mẹ có vui chi!
Cắc ruột đau lòng nổi biệc ly,
Gác tía lầu hồng thôi cũng thế,
Thăm con cũng khó nổi mà đi!
Nhớ con xui dạ cứ bàn hoàng.
Thơ cũ đem coi lại mấy hàng.
Canh lụn chiêm bao mường tượng bóng.
Dực mình thức dậy cứ mơ màng…
Trông con lắm lúc dựa hiên ngoài,
Trước mặt hình con mượng tượng hoài…
Thua mẹ thầy Tăng khi tựa cửa,
Quạt nồng ấp lạnh ấy là ai?
Hỏi con kinh sử đã làu chưa?
Học hết chuyện nay, học chuyện xưa…
Cương vế một tay ngày một khó,
Cho bằng thiên hạ kẽo trời trưa.
Nhắn con lo học chớ làm lơ,
Trông bể văn minh thấu bợt bờ.
Bẻ cửi chuyện xưa con có biết?
Tốn hao của nước, uổng công chờ…
Dặng con ghi dạ, chớ nên nguôi,
Dẫu bực đế vương nữa cũng người,
Phải nhớ cương thường luân lý cũ,
Thương dân, thương nước, ích cho đời.
Khuyên con ngàn dặm bấy nhiêu câu,
Phật Thánh ngày đêm mẹ khẩn cầu,
Phù hộ cho con mau tấn đức,
Giữ nền xã tắc đặng bền lâu.
Nếu bạn đọc là người nhạy cảm với lịch sử thì cũng có thể đoán được tác giả là ai.
Xuất xứ bài thơ
Tôi khám phá bài thơ này nhân khi đọc tập san nghiên cứu của Trường Viễn Đông Bác Cổ — Bulletin de l’Ecole Francaise d’ Extrême-Orient, Tom XXXIII, 1933, tr.499-501 trên internet (.http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k93406q)
Tháng 9 năm 1932, sau khi hoàn tất học trình tại Pháp, vua Bảo Đại lên đường về Việt Nam trực tiếp cầm quyền, kết thúc một hành trình du học 10 năm, khởi đi từ tháng 5 năm 1922. Vào dịp này, J.Y.Claeys đã viết bài Le retour de S.M. Bảo-Đại ghi lại cuộc “ngự giá hồi loan” đó với khá nhiều chi tiết. Nhân nhắc lại một vài nét về thời du học của nhà vua trẻ tuổi, Claeys đã dẫn bài thơ trên và nói rằng đó là một trong những bài mà các bà Thái hậu (Reines-Mères) thỉnh thoảng làm rồi gởi cho vua. Bài thơ do một “ông quan trẻ đầy tương lai”(jeune mandarin de grand avenir) gởi cho Clayes cùng với bản dịch và cho phép đăng báo nhưng yêu cầu dấu tên. 
Về tác giả bài thơ
Sau khi đọc bài thơ và biết được xuất xứ của nó – và nếu tin rằng những gì mà người cung cấp tin tức và người viết bài thường thuật là đúng sự thật — tôi nghĩ rằng đây là tác phẩm của không ai khác hơn là thân mẫu vua Bảo Đại (1926—1945), người mà năm 1933 vua đã long trọng tấn tôn làm Đoan Huy Hoàng Thái hậu, và giới cung đình và người Huế thường gọi là Đức Từ hay Đức Từ Cung.
Mặc dầu vua Khải Định (1916-1925) có 12 bà vợ (1) nhưng chẳng bà nào có con, ngoại trừ bà Nhứt giai Huệ Phi Hoàng Thị Cúc (bà Từ Cung) đã sinh ra Hoàng tử Vĩnh Thụy vào tháng 10 năm 1913. Vì vậy, khi Claeys viết rằng những bài thơ loại này là do các “Reines-Mères” (các Thái hậu) viết gởi cho vua Bảo Đại là không đúng, vì một cách chính thức, vua chỉ có một bà mẹ.
Theo hệ thống cửu giai, (2) vợ vua chia làm 9 bậc. Mặc dầu lúc sinh thời, vua Khải Định đã phong hai người làm Nhất giai Phi — bà Ân Phi Hồ Thị Chỉ, con của Học bộ Thượng thư Hồ Đắc Trung và bà Huệ Phi Hoàng Thị Cúc, con nhà tầm thường – nhưng vua Bảo Đại không thể gọi bà Ân phi là mẹ vì bà này chưa phải là chính cung hoàng hậu (phải là Hoàng Quí Phi). Lại nữa, trước khi mất, các đại thần đã có hỏi vua phép đối xử sau này với hai bà Phi như thế nào thì vua chỉ thị vắn tắt rằng “Tử quí mẫu vinh”, nghĩa là ai có con ở ngôi quí trọng thì đương nhiên mẹ được vinh hiển. Đó là lý do khiến ngôi sao Huệ Phi ngày càng sáng còn ngôi sao Ân Phi ngày càng mờ nhạt rồi đi vào quên lãng của mọi người.(3) Mặt khác, chỉ có người mẹ rứt ruột đẻ ra mới có một tình cảm thắm thiết đền thế để tỏ bày với con, chứ một người mẹ hờ thì không thể có một tình cảm lai láng như vậy.
Thời điểm sáng tác
Thái tử Vĩnh Thụy lên đường sang Pháp du học vào ngày 15/5/1922. Lúc đó ông hoàng con mới được 8 tuổi rưỡi. Tháng 8/1924, Thái tử về nước để dự lễ mừng “thọ” 40 tuổi của phụ hoàng (Tứ tuần đại khánh), và tháng 12 năm sau, 1925, lại về nước lần nữa để dự tang lễ vua cha và lên nối ngôi, làm vua Bảo Đại. Khoảng 1922-1925 không phải là thời gian để bài thơ ra đời, vì thời gian xa cách tuy có nhưng chưa đủ chín muồi để có một bài thơ như thế. Vả chăng, trong bài, ở khổ thứ 2 có một câu rất hữu ích giúp xác định thời gian sáng tác, ấy là:
Thương con thơ ấu đã không cha!
Vậy thì bài thơ phải được sáng tác sau khi vua khải Định băng hà, nghĩa là sau 1925 (vua Khải Định mất 5/11/1925, vua Bảo Đại lên nối ngôi ngày 8/1/1926). Nói rõ hơn, bài thơ này phải được sáng tác trong khoảng 1927-1931, một thời gian sau khi vua Khải Định qua đời và một hai năm trước khi vua Bảo Đại về nước. Vì sao không phải 1926? Vì sau đám tang vào tháng 1/1926, vua Bảo Đại còn ở lại 4 tháng nữa rồi mới trở qua Pháp tiếp tục việc học. Vì sao 1931 mà không phải 1932 ? Vì cuối năm 1932 thì “ngài hồi loan”, “Ả” (4) nghe vậy cũng đã phấn khởi trong lòng, còn nhớ thương chi nữa! Ở khổ thứ 7 có câu “ Hỏi con kinh sử đã làu chưa?” cho biết học trình còn dang dở và thời gian chờ đợi còn dài, nên càng trông càng nhớ càng thương.

Nhớ đến Khuê phụ thán của Thượng Tân Thị
Mặc dầu bài thơ được công bố trên một tập san nghiên cứu và mặc dầu tác giả bài viết đã nói rõ đấy là tác phẩm của Reines-Mères , nhưng điều này vẫn có thể không ngăn được sự nghi ngờ của mọi người, điển hình, khi tôi đem chuyện khám phá bài thơ kể cho cụ Trần Trọng Phúc — một nhân sĩ Huế lão thành ở Mountain View – nghe, ông cụ đã cười và hỏi tôi có biết bài Khuê Phụ thán của Thượng Tân Thị không? Biết đâu đây là một trường hợp Thượng Tân Thị khác?.
Xin nhắc lại chuyện xưa một chút. Khoảng 1919-1920, 10 bài Khuê phụ thán, làm theo thể
liên hoàn xuất hiện trên tạp chí Nam Phong xuất bản ở Hà Nội, ký tên Nguyễn Thị Phi, do Phan Sơn Đại sao lục. Bài thứ nhất như sau:
Chồng hỡi chồng! Con hỡi con!
Cùng nhau chia cách mấy năm tròn.
Bên trời góc biển lơi chim cá
Dạn gió dày sương tủi nước non.
Mộng điệp khéo vì ai lẽo đẽo.
Hồn quyên luống để thiếp thon von.
Ngày qua tháng lại trông đăm đắm.
Muôn đặm xa xa mắt đã mòn.
Việc hai vua Thành Thái và Duy Tân vì nghĩa nước mà bị lưu đày nơi viễn xứ đã để lại một
ấn tượng thương cảm sâu xa trong lòng người dân Việt, và vì vậy, khi đọc Khuê phụ thán, người ta liên tưởng ngay rằng người khuê phụ có số phận bi thảm đó không ai khác hơn là vợ vua Thành Thái, vì chỉ người trong cuộc mới có lời thơ thống thiết đến thế. Chính Sở Cuồng Lê Dư đã đưa ra thuyết này và được nhiều người tin theo. Khuê phụ thán đã được đón nhận, truyền tụng như một ngưỡng mộ. Thế nhưng sau đó, người ta biết rằng tác giả của nó không phải là bà vợ vua Thành Thái mà là của cụ Phan Quốc Cang ở Vĩnh Long.
Khi nhắc lại chuyện xưa, Cụ Phúc đã có hảo ý cảnh giác tôi một vụ Khuê phụ thán thứ hai; xin đa tạ hảo ý.
Vì sao người ta có thể nghi ngờ ?
Có nhiều lý do để nghi ngờ rằng bà Từ Cung không phải là tác giả của bài thơ này. Thứ nhất, chưa ai nghe nói “Đức Từ làm thơ”, thứ hai, xuất thân của Đức Từ không làm cho người ta tin tưởng ở khả năng thi phú của bà.
Mặc dầu qua hai bài ký trong Huế của một thời (5) tôi có nói qua về thời hàn vi của bà Từ Cung nhưng nay xin mời bạn đọc nghe những tiếng nói khác. Chẳng hạn, theo Nguyễn Lý Tưởng, bà Cúc (bà Từ Cung) “nguyên không phải là cung phi hay cung tần mà chỉ là một gái hầu của Ngọc Lâm Công Chúa (con vua Đồng Khánh), xuất thân từ gia đình bình dân.” (6) TheoTrần Gia Phụng, “Khi mới đến Huế, bà Cúc buôn bán nhỏ ở chợ An Cựu, gặp mẹ ruột của hoàng thân Bửu Đảo (sau này là vua Khải Định) là bà Tiên Cung (vợ vua Đồng Khánh), người không cùng làng nhưng cùng huyện Phú Lộc… Bà Tiên Cung nhận bà Cúc vào làm việc trong dinh của ông hoàng Bửu Đảo ở An Cựu (sau này xây thành An Định cung). Từ đó bà Cúc mới quen biết ông hoàng” (7) Dẫu rằng hai bên có nói khác nhau về chi tiết nhưng căn bản vẫn là một quãng đời vắng bóng học đường.
Chính vì xuất thân từ tầng lớp bình dân nên bà Hoàng Thị Cúc đã phải chịu cảnh lép vế ngay từ khi theo chồng bước vào cung cấm. Bà sanh cho ông hoàng Phụng Hóa (vua Khải Định) một con trai từ tháng 10/1913 nhưng khi vào cung, bà chỉ được phong làm Tam giai Huệ Tân vào năm 1917, trong khi tháng 12/1917, vua Khải Định chính thức đi cưới cô Hồ Thị Chỉ, nữ sinh xuất sắc của trường Đồng Khánh, ái nữ của quan Học bộ Thượng thư Hồ Đắc Trung, và phong ngay làm Nhất giai Ân phi, một đẳng cấp mà mãi đến năm 1923 bà Cúc mới leo tới.
Quả thật thời thơ ấu dân dã của Bà Từ Cung rất dễ gây cho người hiểu biết một sự nghi ngờ về khả năng làm thơ của bà. Nhưng điều này, theo tôi, không ngăn cản bà làm thơ nếu bà có thi hứng, có xúc động. Cả một kho tàng ca dao của ta há chẳng phải là nguồn thi hứng của giới chân lấm tay bùn một chữ không biết đó sao? Huống nữa, một khi đã bước chân vào cung cấm, tất cả đều phải học – học để nâng cao kiến thức, học để biết phép tắc, lễ nghi của nề nếp cung đình, bởi không phải chỉ cần có sắc đẹp và được vua yêu là đủ. Bà Từ Cung không đi ra ngoài khuôn khổ đó, nghĩa là phải học. Ai đã có dịp tiếp xúc với bà Từ Cung đều công nhận rằng trong cung cách ứng xử, bà rất đáng bậc mẫu nghi. Trong điều kiện bắt buộc phải nâng cấp và đầy đủ điều kiện thuận lợi để nâng cấp như thế, cộng thêm với tình thương và nỗi nhớ con ở phương xa, bà Từ Cung có đối cảnh sinh tình để làm thơ cũng không phải là chuyện không thể có.
Vì sao có thể tin Thái hậu là tác giả?
Tôi có 3 lý do để tin như thế:
1) Những người làm việc tại trường Viễn Đông Bác Cổ là những chuyên viên đầy khả năng và thận trọng về mặt nghiên cứu, biên khảo, nghĩa là họ làm việc một cách có phương pháp, chứ không tùy tiện. Khi tiếp nhận bài thơ và bản dịch từ ông quan trẻ, hẳn J.Y Claeys cũng đã có một xác tín nào đó về xuất xứ và tác giả nên mới công bố trong bài báo. Thêm vào đó, khi tiếp nhận nguyên bản tiếng Việt từ tay Claeys, hẳn học giả Trần Văn Giáp cũng nắm vững xuất xứ và tác giả nên mới dịch lại bài thơ cho sát hơn, đúng hơn, và mặc dầu thấy rõ khuyết điểm nhưng vẫn tôn trọng nguyên bản nên không có một sửa chữa nào.
2) Mặc dầu “ông quan trẻ tuổi đầy tương lai” đã trao cho J.Y Claeys bài thơ có kèm theo bản dịch với một ít chú thích nhưng Claeys vẫn phải đưa nguyên văn tiếng Việt cho Phụ tá trường Viễn Đông Bác Cổ là học giả Trần Văn Giáp giải thích thêm. Học giả họ Trần sau đó đã cung cấp cho Clayes một bản dịch thứ hai có nhiều điểm khác với bản dịch đầu tiên. Ông cũng phê bình rằng bài thơ có hai chỗ bị khổ độc trong câu 2 của khổ thơ thứ 2 và trong câu 2 của khổ thứ 9.
Bài thơ vô đề này, mới nhìn, cứ tưởng là thơ mới, làm theo kiểu một khổ 4 câu, nhưng thật ra là 10 bài Đường thi tứ tuyệt, luật bằng vần bằng, công thức như sau (B=bằng; T= trắc):
B B T T T B B
T T B B T T B
T T B B B T T
B B T T T B B
Hai khổ (phải gọi bài mới đúng) có chữ bị khổ độc là : chữ nước trong câu 2 khổ thứ 2 
Thương con thơ ấu đã không cha!
Du học nước người chẳng quản xa.
Thời thế phong trào đâu đã thấu,
Hai vai nặng một gánh sơn hà!
Và chữ đế trong câu 2 khổ thứ 9:
Dặng con ghi dạ, chớ nên nguôi,
Dẫu bực đế vương nữa cũng người,
Phải nhớ cương thường luân lý cũ,
Thương dân, thương nước, ích cho đời.
Theo luật thơ Đường, các chữ thứ 1, 3, 5 không cần phải tuân theo bằng, trắc (nhất, tam, ngũ bất luận) Tuy nhiên, nếu chữ thứ 3 trong câu 2 mà đổi bằng thành trắc thì khó đọc khó nghe, nghĩa là phạm khổ độc. Sở dĩ tôi phải dài dòng về điểm này vì đây là một chi tiết lý thú và hữu ích.
Thật vậy, bên cạnh lỗi về thi pháp như Trần Văn Giáp đã phê bình, những chữ viết sai về chính tả như đã đánh dấu ở trên (vường Thượng uyển, Muông dặm sơn khê, Cắcruột, nỗibiệc li, bàn hoàng, Dực mình, Dặng con ghi dạ) cho ta hiểu được điều gì? Nó giúp ta hiểu được rằng tác giả của bài thơ quả có được học hành nhưng chưa phải tới nơi tới chốn, không phải được đào tạo tại trường lớp có bài bản đàng hoàng, mà là một kiểu học ngang, học tắt. Điều này rất phù hợp với hoàn cảnh của bà Từ Cung. Nếu đem so sánh bài thơ này với 10 bài Khuê phụ thán, ta thấy rõ Khuê phụ thán thật là chải chuốt văn chương chứ không “thật thà” cả hình thức lẫn nội dung như bài thơ vô đề gởi thăm con này. Phải cảm ơn J.Y.Claeys và Trần Văn Giáp đã không vì “ngứa mắt” mà sửa chữa những lỗi hình thức, nhờ đó giúp thêm yếu tố xác quyết về tác giả.
3) Một yếu tố khác nữa không thể bỏ qua là cái ngôn ngữ Huế trong thơ. Trên niên san Tiếng Sông Hương (Dallas, Texas, 1993) tác giả Nguyễn Đặng có kể rằng trong một lần tiếp kiến viên Toàn quyền Đông Dương, bà Từ Cung có nói, “Tôi tra rồi, ăn nói tào lao xịt bộp..” làm cho viên quan đi theo mặc dầu rất giỏi tiếng Pháp nhưng không biết làm sao để phiên dịch cho đúng cái thành ngữ Huế rặt đó. Cái bản chất Huế rặt này thể hiện rất rõ trong bài thơ, dù tác giả quả tình muốn chải chuốt ít nhiều. Chẳng hạn:
– Thương con đau ruột mẹ trăm chìu.
Các nơi khác, quen nói là chiều. Người Huế khi nói chữ này thường bỏ mất âm ê, Ví dụ :
Chiều chiều ra đứng ngõ sau,
Ngó về quê mẹ ruột đau chín chìu.
– Canh lụn chiêm bao mường tượng bóng
– Trước mặt hình con mượng tượng hoài.
Khi nhớ mang máng về một điều gì hay một hình ảnh nào đó, người ta dùng từ mường tượng và từ này, người Huế cũng nói thành mượng tượng. Tác giả đã lợi dụng sự biến âm này để làm cho câu thơ hợp với niêm luật hơn, kể cũng khéo.
– Dực mình thức giấc cứ mơ màng.
– Dẫu bực đế vương nữa cũng người
Khi bắt gặp chữ dực và bực này, tôi không khỏi vỗ đùi hứng thú. Nó gợi trong tôi tiếng nói thuở nào của mệ ngoại, của mẹ già! Người miền khác đọc là giật (giật mình) và bậc, nhưng Huế thì quen biến âm â thành ư, bởi thế mới có giựt (viết sai thành dực) thay chogiật, bựcthay cho bậc.
Đã thế, khi phát âm lại không cần phân biệt c và tgi và dgi và nh. Do đó mới xuất hiện cái
chữ Dực mình không giống ai. Tương tự, ở dưới ta sẽ bắt gặp chữ dặngtrong câu Dặng con ghi dạ, chớ nên nguôi.
oOo
Xin nhớ rằng bài thơ đã được viết bằng quốc ngữ trước 1930, nghĩa là loại quốc ngữ chưa mấy hoàn chỉnh, chẳng hạn, người ta viết quấc gia, quấc ngữ là thường. Nếu không khắc khe quá về mặt hình thức ( chữ quốc ngữ viết chưa chỉnh, hai câu bị khổ độc), thì bài thơ của Đoan Huy Hoàng Thái hậu đáng kể là một bài thơ dễ thương, dễ cảm động lòng người. Theo truyền thống văn chương cổ điển, điển cố cũng được đưa vào (8) một cách chừng mực, chứng tỏ có đọc sách, ngoài ra không có gì là làm dáng thái quá. Nội dung bài thơ khai triển quanh mấy chữ: nhớ, thương, và dặn dò. Phần thương chiếm hai khổ đầu, phần nhớ chiếm 4 khổ giữa, và 3 khổ gần cuối dành cho dặn dò, khổ cuối cùng dành cho phần kết. Đó là một bố cục hợp lý và cân đối, phải chăng. Ngoài chuyện dặn con ráng chăm học như mọi bà mẹ khác, khổ thứ 9 khá cảm động:
Dặng con ghi dạ chớ nên nguôi,
Dẫu bực đế vương nữa cũng người,
Phải nhớ cương thường luân lý cũ,
Thương dân thương nước, ích cho đời.
Đây không phải là thơ khẩu khí. Đây là tấm lòng của một bà mẹ vua xuất thân dân dã nhưng thấm nhuần đạo nghĩa vì nước vì dân. Đoan Huy Hoàng Thái hậu làm thơ không phải để phổ biến, để khoe tài. Bà chỉ làm thơ vì con, vì vậy, bài thơ quí ở tâm tình trung thực.

Tài liệu tham khảo:
J.Y. Claeys, Le retour de S.M. Bảo-Đại, Bulletin de l’Ecole Francaise d’ Extrême-Orient, Tom XXXIII, 1933, tr.499-501 (.http://gallica.bnf.fr/ark:/12148/bpt6k93406q)
TRẦN GIA PHỤNG, Tuổi thơ của Cựu Hoàng Bảo Đại, Tuyển tập Nhớ Huế, Số 17, California, 2006.
NGUYỄN LÝ TƯỞNG, Thuyền ai đợi bến Văn Lâu, tác giả xuất bản, California, 2001.
Chú thích:
(1)  Bảo Đại, Le Dragon d’ Annam, Plon, Paris, 1990, tr.16
(2)  Nhất giai Phi, Nhị giai Phi, Tam giai Tần, Tứ giai Tần, Ngũ giai Tần, Lục giai Tiệp dư, Thất giai Quí nhân, Bát giai Mỹ nhân, Cửu giai Tài nhân.
(3)  Xin đón xem Vua Khải Định, hình ảnh và sự kiện, của cùng tác giả, sắp xuất bản.
(4)  Vua Bảo Đại gọi Đức Từ bằng Ả. Thưa với mẹ thì « Tâu Ả »
(5)  Võ Hương An, Huế của một thời, Nam Việt, California, 2006 (bài Mệ ngoại và Chuyện cung đình nghe kể lại)
(6)  Nguyễn Lý Tưởng, tr. 394
(7) Trần Gia Phụng, tr.106
(8) Mẹ thầy Tăng khi tựa cửa: Tăng Tử rất có hiếu với mẹ. Nhà có khách, mẹ tựa cửa trông cho con về, bèn cắn ngón tay, Tăng Tử cảm nhận được tín hiệu, bèn về ngay cho mẹ khỏi mong.
     Quạt nồng ấp lạnh là chuyện Hoàng Hương quạt mát cho cha mẹ khi mùa hè và ủ chăn cho ấm để cha mẹ ngủ vào mùa đông.
     Bẻ cửi chuyện xưa : là chuyện mẹ Mạnh Tử thấy con nhác học bèn bẻ khung cửi đang dệt để dạy cho con phải biết kiên trì, chăm chỉ học hành thì mới thành công.

Gửi phản hồi

Cần xử lý ông Nguyễn Minh Mẫn; QUYỀN VỤ TRƯỞNG VỤ III NGUYỄN MINH MẪN NÓI GÌ?; Phát ngôn của ông Mẫn và bầy sâu trong làng báo

 24/11/2016

24-11-2016
Nguyễn Minh Mẫn, vụ trưởng Thanh tra Chính phủ. Ảnh: internet
Nguyễn Minh Mẫn, vụ trưởng Thanh tra Chính phủ. Ảnh: internet
Nguyễn Minh Mẫn, ông thân là cán bộ lãnh đạo của Thanh tra Chính phủ, hiện giữ chức quyền Vụ trưởng Vụ Thanh tra khối văn hoá xã hội. Lẽ ra, khi phát hiện ra những công trình vụ việc vi phạm của các tổ chức, cá nhân, mà những vụ việc ấy có thể gây hoang mang dư luận, gây xói mòn niềm tin trong nhân dân, gây tổn hại uy tín của thể chế, gây thiệt hại cho ngân sách, kìm hãm sự phát triển của xã hội, ông phải nhanh chóng công bố để nhân dân giám sát thông qua báo chí, để lãnh đạo nắm rõ vụ việc nhằm có hướng xử lý thích đáng.
Nhưng, theo một clip 10 phút ghi lại lời phát biểu được cho là của ông tại buổi công bố thanh tra Đại học Quốc giaTP.HCM mới đây, thì ông lại dạy cho các đối tượng thanh tra cách che giấu, bưng bít thông tin và thoả thuận với nhau. Ông không xứng đáng một công dân chứ đừng nói là một cán bộ Đảng viên.
Tôi nghĩ rằng ông nên từ chức. Còn nếu vẫn bất chấp sĩ diện, bám lì lấy cái ghế ấy thì ông Phan Văn Sáu, Tổng Thanh tra Chính phủ nên có hành động phù hợp để xử lý thành phần đang phá hoại uy tín của tổ chức này.
Tôi nghĩ, đây là lúc Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có thể minh chứng bằng hành động cho thông điệp mà Thủ tướng đã gửi đến nhân dân: “Không có vùng cấm trong công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng”.
Thưa Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, để không có vùng cấm, nhân dân phải được quyền giám sát. Nhân dân giám sát thông qua báo chí. Thanh tra Chính phủ là lực lượng xung kích trong công tác chống tham nhũng. Vậy mà, lãnh đạo cấp vụ của đơn vị này đang coi thường quyền được biết của nhân dân, bưng bít thông tin, bịt miệng dư luận, che đạy cái xấu.
Thủ tướng hãy xem một cán bộ phát biểu như đoạn trích dưới đây có xứng đáng đứng trong bộ máy công quyền nữa hay không. Bởi loại cán bộ này, tôi nghĩ rằng nhân dân chẳng còn hi vọng gì được nữa.
“Lần này, thưa với các đồng chí, tôi với đồng chí Huẩn đã thống nhất cả hai đoàn thanh tra, trong đó một đoàn đang ở đây, riêng lĩnh vực cơ bản vẫn phải làm, nhưng làm trên tinh thần để giúp các đồng chí có được những công trình làm chưa tốt thì yêu cầu nhà thầu phải khắc phục.
Những công trình tiếp theo, các đồng chí là chủ đầu tư, các đồng chí rút ra được bài học kinh nghiệm, để khi đấu thầu với bên B để xây dựng để các thầy cô và các em sinh viên có những nhà kiên cố và chất lượng lâu dài. Mục đích là thế, chứ không… Còn tôi nói rõ là, sau khi giữa đoàn thanh tra và nhà trường phát hiện ra điều đó thì chúng ta sẽ hội ý và trao đổi, trao đổi mật.
Hôm nay tôi nói rõ các đồng chí biết. Bất kì đoàn viên đoàn thanh tra nào, kể cả từ trưởng đoàn thanh tra trở xuống mà tiết lộ công trình này bị yếu kém, hoặc là ăn bớt vật tư ra ngoài để báo chí biết thì người đó chịu trách nhiệm trước pháp luật. Hôm nay tôi nói rõ luôn. Đây toàn là các thầy các cô đại diện cho các trường thành viên của Đại học Quốc gia TP.HCM thế thôi. Các thầy các cô cũng phải… Xấu xa thì ta phải đạy lại. Không có dại gì chúng ta đi vạch áo cho người xem lưng.
Báo chí, tôi nói thật với anh Đạt và các anh lãnh đạo, Báo chí lúc này nhiều quá, hơn 20.000 nhà báo, mà nó xâu xia vào… Nhất là TP.HCM này 15 triệu người kể cả người vô gia cư, mà báo chí nó nhảy vào thì thầy không có lịch mà tiếp đâu.
Đấy, nên là tôi đề nghị là, thông tin báo chí, trong quá trình đoàn thanh tra làm việc các đồng chí không tiếp khách, trừ báo Đảng vào tuyên truyền giúp đỡ nhà trường trong dịp Tết, như anh Đạt báo Nhân dân vào thì anh tiếp thôi.
Còn lại tất cả tôi đề nghị các đồng chí không tiếp, không có làm gì được đâu. Thế còn tôi nói rõ là bất kì đồng chí nào bị báo chí quấy nhiễu các đồng chí, các đồng chí cứ điện trực tiếp cho tôi. Tôi nói thật, nhiều đồng chí Bí thư, Chủ tịch các tỉnh, Bộ trưởng… đã điện trực tiếp cho tôi, tôi đuổi, tôi sẵn sàng phối kết hợp đuổi, đuổi đấy. Đuổi nhà báo ngay, chúng tôi chả ngại gì. Đấy! Bởi vì trong quá trình báo chí nó nhiễu thì rất là nhục. Đấy báo cáo với các đồng chí, phải khắc phục ngay từ đầu, không tiếp đón gì cả”.
—–
Nói thêm, ổng mạt sát báo chí kệ cha ổng. Sự nguy hiểm ở đây là ổng bưng bít thông tin, che giấu nếu có sai phạm, coi thường quyền được biết của nhân dân và nỗ lực minh bạch của Chính phủ! Đó mới là bản chất của câu chuyện này.

____
Mời xem lại: VỤ TRƯỞNG NGUYỄN MINH MẪN LẤY QUYỀN GÌ ĐỂ MẠT SÁT BÁO CHÍ? (BS). Và video clip, ông Mẫn mạt sát các nhà báo:



“Sau đó Thanh tra Chính phủ sẽ có thông tin đầy đủ về vụ việc theo quy định” - ông Khánh nói.
Gọi ngoài giờ, coi lại Luật Báo chí đi (?!)
Chiều tối cùng ngày, trao đổi với Pháp Luật TP.HCM qua điện thoại về các phát ngôn liên quan đến việc bưng bít thông tin đối với báo chí, ông Nguyễn Minh Mẫn, Quyền Vụ trưởng Vụ III, nói: “Tôi đang là trưởng đoàn thanh tra nên tôi không nói gì. Tôi cũng không trả lời qua điện thoại. Tôi không biết anh có phải là nhà báo chân chính hay không. Anh gọi tôi giờ này là không còn giờ làm việc nhá, anh coi lại Luật Báo chí đi”. (PV gọi nhiều lần trong ngày nhưng máy ông Mẫn bận, đến 18 giờ 14 phút cùng ngày mới gọi được ông Mẫn.)
Ông Mẫn nói thêm: “Tổng Biên tập của báo Pháp Luật là cậu tôi đó. Anh muốn hỏi gì cứ hỏi tổng biên tập”. Khi PV giải thích là công tác ở Pháp Luật TP.HCM, ông Mẫn nói: “Vậy báo anh là cơ quan nào chủ quản?”. PV trả lời là Sở Tư pháp TP.HCM, ông Mẫn nói tiếp: “Vậy anh cứ hỏi giám đốc Sở sẽ biết tôi là ai”. Khi PV muốn liên hệ gặp ông Mẫn tại cơ quan để phỏng vấn, ông Mẫn nói: “Tôi đang là trưởng đoàn thanh tra nên tôi không tiếp nhà báo. Còn các thông tin trên mạng là bịa đặt”.
“Tôi đuổi nhà báo ngay chứ chả ngại gì”
Trước đó, trong clip dài hơn 10 phút trên mạng xã hội Facebook ghi lại lời được cho là của ông Nguyễn Minh Mẫn, Quyền Vụ trưởng Vụ III - Thanh tra Chính phủ, trong buổi công bố quyết định thanh tra ở Đh Quốc gia TP.HCM vào ngày 28-9.
Theo clip, người được cho là ông Mẫn nói: “Lần này, thưa với các đồng chí, tôi với đồng chí Huẩn đã thống nhất cả hai đoàn thanh tra, trong đó một đoàn đang ở đây, riêng lĩnh vực cơ bản vẫn phải làm. Nhưng làm trên tinh thần để giúp các đồng chí có được những công trình làm chưa tốt thì yêu cầu nhà thầu phải khắc phục...
… Thanh tra này là thanh tra định kỳ, không phải là thanh tra theo nghĩa dấu hiệu vi phạm, sai phạm quyết liệt gì cả… Tôi nói rõ là sau khi giữa đoàn thanh tra và nhà trường phát hiện ra điều đó thì chúng ta sẽ hội ý và trao đổi, trao đổi mật…
…Tôi nói rõ bất kỳ đoàn viên đoàn thanh tra nào tiết lộ công trình này bị yếu kém hoặc là ăn bớt vật tư ra ngoài để báo chí biết thì người đó chịu trách nhiệm trước pháp luật… Đây toàn là các thầy, các cô đại diện cho các trường thành viên của ĐH Quốc gia TP.HCM... xấu xa thì ta phải đậy lại. Không có dại gì chúng ta đi vạch áo cho người xem lưng…
… Tôi nói thật với anh Đạt và các anh lãnh đạo, báo chí lúc này nhiều quá, hơn 20.000 nhà báo mà nó xâu xia vào... thì không có lịch mà tiếp đâu nên tôi đề nghị trong quá trình đoàn thanh tra làm việc các đồng chí không tiếp, trừ báo Đảng vào tuyên truyền giúp đỡ nhà trường trong dịp tết. Còn lại tất cả, tôi đề nghị các đồng chí không tiếp… Bất kỳ đồng chí nào bị báo chí quấy nhiễu thì điện trực tiếp cho tôi. Tôi nói thật, nhiều đồng chí bí thư, chủ tịch các tỉnh, bộ trưởng... đã điện trực tiếp cho tôi. Tôi đuổi, tôi sẵn sàng phối kết hợp đuổi, đuổi đấy. Đuổi nhà báo ngay, chúng tôi chả ngại gì. Đấy! Bởi vì trong quá trình (thanh tra) báo chí nó nhiễu thì rất là nhục…”.
Trong buổi công bố quyết định thanh tra ĐH Quốc gia TP.HCM còn có ông Đặng Công Huẩn, Phó Tổng Thanh tra Chính phủ. Trao đổi với PV, ông Huẩn cho biết hôm đó (28-9) ông có tham dự nhưng đã rời phòng ngay sau đó và không nghe được đoạn ông Mẫn nói. Hiện ông Mẫn cũng chưa có báo cáo chính thức bằng văn bản về việc này. “Tôi đã giao cho Vụ Kế hoạch rà soát và báo cáo lại” - ông Huẩn thông tin.
NGUYỄN ĐỨC - ĐẶNG TRUNG

Phát ngôn của ông Mẫn và bầy sâu trong làng báo


Mấy ngày qua, dư luận xôn xao về một clip được cho là của một quan chức ngành Thanh tra với những lời lẽ nhằm cấm cửa báo chí; “dạy" cách bưng bít thông tin, đối phó với báo chí trong quá trình thanh tra. 
Ông ấy “khuyên" thế này: “Kể cả trong quá trình thanh tra, không tiếp khách, không tiếp báo chí (trừ báo Đảng). Tôi nói rõ bất kỳ nhà báo nào vào quấy nhiễu, các đồng chí cứ điện trực tiếp cho tôi.…”.
Sao trong thời đại này mà vẫn có tư duy cấm cửa báo chí nhỉ? Thật ra chỉ khi nào sai, có “lợi ích” khác với dân với nước, người ta mới phải “sợ” đến mức như vậy. 
Tôi còn nhớ Tổng bí thư Nguyễn Phú Trong từng nói về báo chí thế này: luôn đi đầu bám sát thực tiễn sinh động chủ động đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, trì trệ, tham nhũng, lãng phí; đấu tranh bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc; tham gia phản bác các luận điệu thù địch, xuyên tạc; bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng”.
Phát ngôn của ông Mẫn và bầy sâu trong làng báo
Xem ra bưng bít thông tin, cấm cửa nhà báo là đi ngược sự phát triển tự nhiên. 
Tuy nhiên khi xem lại clip của vị quan nọ một cách bình tĩnh, và dám đặt câu hỏi nghiêm túc: Vì sao ông ấy, và nhiều người khác đang ghét báo chí  cực đoan như vậy?
Nói thẳng luôn, cũng như nhiều ngành nghề khác, nghề báo cũng có người tử tế, nghiêm túc và cũng có cả những con sâu đã lợi dụng những kẽ hở trong chính sách len lỏi vào. 
Chúng ta đều biết, cả xã hội cũng biết, những con sâu này không làm báo, họ làm tiền. Đây đó người ta đã nói về chuyện những nhà báo tiếp tay cho các nhóm lợi ích. Đây đó người ta đã nói về chuyện những nhà báo nhận đồng tiền từ các tập đoàn cá mập để đưa tin một chiều hoặc chọn cách im lặng. Và còn vô khối những câu chuyện khác. 
Thi thoảng trên báo lại có cái tin về chuyện một nhà báo tham gia “tống tiền doanh nghiệp”. Đã có những con sâu trong làng báo bị lôi ra ánh sáng, bị khởi tố, bị điều tiếng để đời do có các hành vi không đúng tôn chỉ của nghề báo. Hãy thử vào google gõ cụm từ “nhà báo tống tiền doanh nghiệp”. Trong tích tắc, có tới  146.000 kết quả.
Tôi biết, cả xã hội cũng biết, có những tòa soạn thực hiện “khoán” cho nhân viên, phóng viên thực hiện ký hợp đồng với doanh nghiệp. Năng lực, hiệu quả công việc được đánh giá trên số tiền ký được. 
Thủ đoạn “gây sự cố gặt hợp đồng” đã trở thành nỗi ám ảnh đối với các doanh nghiệp, các địa phương. 
Bởi thế mới đây thôi, khi nói về mối quan hệ mờ ám giữa một số con sâu trong làng báo và những nhóm lợi ích, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn đã gọi thẳng đó là “truyền thông bất lương”. 
Nhận diện nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong lĩnh vực báo chí và một số giải pháp khắc phục”, người đứng đầu Bộ Thông tin- Truyền thông nghiêm khắc chỉ ra: 
Một số tờ báo, trang tin câu kết với một bộ phận doanh nghiệp và một số cán bộ, công chức để lũng đoạn chính sách, thực hiện chiến dịch truyền thông tạo lợi thế để một số doanh nghiệp làm ăn bất chính, gây bất lợi cho doanh nghiệp khác.
Thực tế cho thấy, một số doanh nghiệp, đơn vị sản xuất được một số tờ báo ca ngợi, biến thành địa chỉ kinh doanh lành mạnh, phát đạt, đáng tin cậy,... nhằm thu hút đầu tư, tăng hấp dẫn để bán sản phẩm; tô vẽ thành tích cho một số cá nhân để biến họ thành người thành đạt, kinh doanh giỏi,... 
Sau một thời gian, tất cả vỡ lở, doanh nghiệp hoặc đơn vị sản xuất được ca ngợi chỉ là nơi làm ăn thua lỗ, tài sản của Nhà nước thất thoát nghiêm trọng; cá nhân được tô vẽ thì bị phát hiện là lừa đảo, tham nhũng, có người phải nhận án tù”…
Đồng thời ông cũng lưu ý, đừng vì một bộ phận tha hóa, một con sâu đó mà lại cấm cửa các nhà báo, không công khai minh bạch, bưng bít thông tin… Vì đó là ngăn cản sự phát triển của xã hội, là đi ngược lại chủ trương của Đảng và Nhà nước.
Xem ra, chủ trương qui hoạch báo chí cùng với việc xây dựng lại, sớm ban hành Qui định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam là một bước đi quan trọng, nhằm loại bỏ và ngăn chặn những con sâu, lấy lại uy danh cho nghề báo. 
Nguyễn Đăng Tấn

Tình hình đất nước hôm nay và ngày mai ra sao qua suy tư của một trí thức Việt Nam ở Nhật Bản

 24/11/2016

Trần Phong Vũ
24-11-2016
GS Trần Văn Thọ. Ảnh: internet
GS Trần Văn Thọ. Ảnh: internet
Một người bà con vừa chuyển cho tôi bài viết có tiêu đểViệt Nam: Giấc mơ thành quốc gia thượng đẳng do giáo sư Trần Đình Thọ hiện giảng dạy tại đại học Waseda, Nhật Bản chấp bút.
Sau khi nêu lên chi tiết đứa bé Việt Nam thứ 90 triệu ra đời tháng 11 năm 2013 với dự kiến 10 năm nữa dân số nước ta sẽ đạt tới con số ngót trăm triệu, tác giả nhắc tới nét đặc thù thống nhất về ngôn ngữ, văn hóa của dân Việt trong khi đất nước lại nằm giữa một vùng phát triển năng động và nêu lên câu hỏi: “Với tiềm năng như vậy, chúng ta có thể hy vọng đất nước mình vươn lên thành một quốc gia giàu mạnh không?”
Ông tự trả lời: “Chắc chắn tuyệt đại đa số người Việt Nam đều có mong ước đó”.
Để mong ước đó trở thành hiện thực, từ xứ Phù Tang nhìn về đất nước, GS Thọ nêu lên những điều kiện tất yếu gói ghém trong một loạt những từ “Lẽ ra”:
– Lẽ ra trong nước phải dấy lên một phong trào bàn luận sôi nổi về vị trí của Việt Nam hiện nay và triển vọng về một tương lai dài hạn.
– Lẽ ra lãnh đạo trong nước phải kêu gọi trí thức trong và ngoài nước nghiên cứu, bàn luận để đưa ra được tầm nhìn có căn cứ khoa học về tương lai.
– Lẽ ra lãnh đạo phải tạo sự tin tưởng cho dân chúng, khuyến khích người dân nỗ lực hướng vào mục tiêu được xã hội đồng thuận. 
Thực tế sau hơn 40 năm xua quân xâm chiếm miền nam, gọi là để thông nhất đất nước, “những kẻ thắng cuộc” chỉ khư khư bám lấy chủ nghĩa cộng sản lỗi thời, hoang tưởng, không hề làm bất cứ điều gì mà lẽ ra một chính quyền của dân, do dân và vì dân phải làm như mong ước của tác giả bài viết trên đây.
Cùng chung cảnh ngộ, các lân bang đã làm gì cho nước họ?
GS Trần Đình Thọ viết:
Nhìn quanh thế giới, xưa cũng như nay, nước nào có lãnh đạo và trí thức quan tâm về tương lai đất nước và đưa ra được mục tiêu có căn cứ khoa học và hợp với giấc mơ của tuyệt đại đa số dân chúng thì sau đó phát triển nhanh, chuyển hoán hẳn vị trí của đất nước mình trên bản đồ thế giới.”
Nói có sách mách có chứng, tác giả đan cử trường hợp những quốc gia trong vùng như Nhật Bản, Hàn Quốc, Nam Dương v.v… Nhờ thể chế chính trị thông thoáng, tự do, chỉ trong một thời gian tương đối ngắn, tất cả nhân dân và giới lãnh đạo các quốc gia này  đã đưa đất nước và dân tộc họ từ vị trí chiến bại (như Nhật Bản) hoặc yếu kém, chậm phát triển (như Nam Hàn, Nam Dương) trở thành những quốc gia tiên tiến về mọi phương diện. Tất cả những nước này đều nhất trí học tập và cải cách đất nước họ dựa theo văn hóa, văn minh Phương Tây[1] trong khi vẫn duy trì truyền thống dân tộc mình.
Đề cập Hàn Quốc, một đất nước từng bị chiến tranh tàn phá và cùng trong cảnh ngộ bị chia đôi như Việt Nam, tác giả nhận định.
“Lãnh đạo Hàn Quốc vào đầu thập niên 1960, với tinh thần dân tộc cao độ, đã đưa ra quyết tâm thoát khỏi vị trí thấp kém của đất nước, đặt ra phương châm học tập Nhật, Mỹ, trọng dụng nhân tài, tổ chức bộ máy hiệu suất để vạch ra chiến lược và thực hiện chiến lược phát triển. Và họ đã thành công”.
Giáo sư Thọ cho rằng cung cách biểu thị ý chí, tinh thần tự hào dân tộc của nhân dân và giới lãnh đạo Hàn Quốc thể hiện qua dịp đăng cai tổ chức Hội Nghị G20 gồm 20 nước có vị trí quan trọng nhất thế giới vào năm 2011 bằng việc vận động dân chúng ý thức hơn nữa khả năng của dân tộc mình, quyết tâm vươn lên ngang hàng các nước tiên tiến.Họ đưa ra các mục tiêu như “đồng hành cùng thế giới để trở thành quốc gia được thế giới kính trọng”, “tiến vào trung tâm của thế giới”.
Nhờ vậy, ngày nay Nam Hàn đã nghiễm nhiên trở thành một trong 7 nước tiến bộ và giàu mạnh nhất thế giới. Riêng với Á Châu, Hàn Quốc chỉ đứng sau Nhật Bản.
Còn Việt Nam hiện nay và tương lai ra sao?
Nhìn về đất nước chúng ta, GS họ Trần nêu câu hỏi.
“Việt Nam hiện nay đang ở đâu trên bản đồ kinh tế thế giới?”
Qua tài liệu có được trong tầm tay, ông cho hay: Về dân số Việt Nam xếp thứ 13. Về trình độ phát triển, theo tác giả, phải xét trên nhiều tiêu chí khác nhau. Tiêu chí tổng hợp nhất là thu nhập đầu người. Về tiêu chí nầy, tuy đã đạt được một vài tiến bộ, nhìn chung, dưới chế độ cộng sản, nước ta vẫn còn nhiều hạn chế. Vào năm 2012, thu nhập (GDP) đầu người của Việt Nam là 1.750 USD, xếp thứ 140 trong gần 200 nước lớn nhỏ trên thế giới. Vì dân số tương đối đông nên vị trí của GDP (năm 2012 là 157 tỉ USD) cao hơn nhưng cũng chỉ ở hạng 58. Tại vùng Đông Á hiện nay, GDP đầu người của Việt Nam được coi là quá khiêm tốn, chỉ cao hơn Cambodia, Lào và Myanmar (Miến Điện). 
Nhìn sâu vào những nét đặc thù khác, tác giả không giấu được tâm trạng buồn phiền, bi quan khi nêu lên con số 90 ngàn người Việt Nam có mặt ở Hàn Quốc, trong số khoảng 30 ngàn là phụ nữ ở dạng cô dâu, còn lại 60 ngàn là lao động theo dạng xuất khẩu và vài ngàn sinh viên. Trong khi ấy, tại Việt Nam người Hàn Quốc cũng có con số tương đương phỏng trên dưới 9 chục ngàn. Tuy nhiên, sự hiện diện của họ hoàn toàn khác hẳn. Hấu hết họ là những chuyên gia, trí thức qua Việt Nam chủ yếu làm quản lý, làm chủ doanh nghiệp, hành nghề y sĩ hoặc thuộc thành phần giáo sư đại học.
Nói chung đây là sự giao lưu về lao động giữa hai nước đang có sự nghịch thường, bất tương xứng mà ông cho rằng “không mấy danh dự cho người Việt Nam”.
Tác giả nêu câu hỏi cho giới lãnh đạo trong nước là không hiểu họ có cảm thấy động tâm, có băn khoăn thao thức về hiện tượng đáng xấu hổ này không? Và họ sẽ trả lời ra sao cho dân chúng về câu hỏi là bao giờ Việt Nam sẽ theo kịp Hàn Quốc để xóa đi sự bất bình đẳng trong quan hệ lao động không tương xứng hiện nay? 
Nhìn lại thời gian từ khi đất nước thống nhất đến nay đã 40 năm, GS Trần Đình Thọ nhận đĩnh: Nếu so với tình trạng thiếu ăn trong khoảng 10 năm đầu và còn tới 70% dân số thuộc hộ nghèo vào cuối thập niên 1980 thì tình hình hiện nay tương đối đã cải thiện. Nhưng để có được sự cải thiện đó Việt Nam đã mất quá nhiều thời gian, và như ta đã thấy vị trí hiện nay của nước ta trên vũ đài thế giới vẫn còn quá thấp. So với Hàn Quốc lúc chấm dứt chiến tranh năm 1953 vẫn còn là một trong những nước nghèo nhất thế giới, nhiều người dân phải gọt vỏ thông luộc ăn cho đỡ đói. Nhưng chỉ 43 năm sau họ phát triển thành nước thu nhập cao và với những cố gắng không ngừng, không bao lâu đất nước này đã trở thành hội viên của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), thường được mệnh danh là câu lạc bộ của các nước giàu.
Nhìn về tương lai, Việt Nam sẽ ra sao?
Căn cứ vào dự kiến qua các thống kê, GS họ Trần cho hay, từ nay đến năm 2030, Việt Nam phát triển trung bình 7,2%, và GDP vào năm 2030 là 416 tỉ USD. Tuy thế vẫn chỉ bằng 40% GDP của nước láng giềng Thái Lan, 17% của Indonesia nhỏ hơn Malaysia và Philippines và dĩ nhiên thua xa Hàn Quốc. Dự báo nầy dựa trên tiền đề là Việt Nam vẫn giữ nguyên thể chế, vẫn tiếp tục xếp hàng quy phục đàn anh cộng sản Bắc Kinh. Nêu lên chi tiết này, tuy không nói ra nhưng rõ ràng tác giả ngầm hy vọng giới lãnh đạo cộng sản Việt Nam sẽ sáng mắt thấy được vấn đề để dám can đảm thay đổi thế chế, nếu không đất nước sẽ không bao giờ tìm được lối ra để thênh thang bước theo các quốc gia trong vùng sánh vai cùng thế giới
Vài suy nghĩ của người viết
Trên đây là tóm lược nhận định của GS Trần Đình Thọ hiện giảng dạy tại đại học Waseda, Nhật Bản trong bài viết bàn về hiện tại và dự phóng tương lai Việt Nam. Điều cần ghi nhận là ông viết bài này từ năm 2014. Và như thế cho thấy niềm thao thức và khát vọng của ông gửi vào bài viết không tạo được một ảnh hưởng nào đối với hệ thống cầm quyền cộng sản trong nước suốt hai năm qua. Mọi sự chỉ càng ngày càng tệ hơn!
Cho dẫu trên thực tế cái gọi là chủ nghĩa Mác-xít/Lê-nin-nít đã biến dạng thành một thứ chủ nghĩa tư bản hoang dã trên quê hương ta, nhưng tập đoàn Ba Đình vẫn tiếp tục dương cao khẩu hiệu kiên trì trung thành với tư tưởng Hồ/Mao, vẫn quyết tâm xử dụng lực lượng vũ trang trong quân đội, cảnh sát, an ninh vào việc bảo vệ đảng và hệ thống cầm quyền, tiếp tục đàn áp, khủng bố những người yêu nước, thay vì chiến đấu bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và an sinh cho nhân dân.
Nói cách khác, họ vẫn duy trì một chế độ độc tài, chuyên chính sắt máu, coi nhân dân như cỏ rác, coi chuyện nước non nằm trong bàn tay vo tròn, bóp méo của đảng. Trong điều kiện như thế làm sao dân tộc, đất nước có thể tiến bước theo đà phát triển chung của các quốc gia ngay tại vùng Đông Nam Á Châu, nói chi đến thế giới văn minh!
Điều tác giả trông đợi là giới lãnh đạo trong nước nhận ra tình trạng trì trệ, lạc hậu của đất nước đưới sự thống trị của họ, can đảm vứt bỏ thứ chủ nghĩa lạc hậu, không tưởng cộng sản để mở đường cho giới trí thức tham gia vào những công trình nghiên cứu sâu rộng, minh bạch để tìm hiểu căn nguyện sự tiến bộ của các quốc gia trong vùng như Nhật Bản, Nam Dương, Tân Gia Ba, Hàn Quốc… Nhưng đáng tiếc là tất cả đều bị cho rơi vào khoảng không. Đấy là bi kịch Việt Nam hôm nay.
Điều đáng buồn hơn hết là do chủ trương ngu dân của tập đoàn lãnh đạo, rất nhiều người Việt Nam ở trong cũng như ngoài nước đã có những đánh giá sai lệnh về mức phát triển của Việt Nam. Vì thiếu kiến thức và cũng vì ảnh hưởng guồng máy tuyên truyền, bóp méo sự thật của truyền thông nhà nước, một số không nhỏ chỉ căn cứ vào một vài công trình vật chất như các building, hệ thống cầu đường, các thương xá, các khu du lịch để đánh giá sự phát triển tại Việt Nam. Chuyện gần nhất tuồng như người ta cũng không nhìn thấy để nêu câu hỏi là những công trình tạm coi là lớn lao ấy do đâu mà có? Mức độ bền vững của những kiến trúc này ra sao? Nó được thực hiện từ tài nguyên, vốn liếng, kỹ thuật của người Việt Nam hay chỉ là những công trình vay mượn của nước ngoài?  Và nếu đến từ nước ngoài thì một hệ lụy khác lại xảy ra là đất nước sẽ gánh thêm nợ nần để chồng chất lên đầu lên cổ các thế hệ mai sau phải trang trải?
Xa hơn, vì kiến thức hạn hẹp, và cũng vì chỉ quanh quẩn nơi xó nhà, trước năm 1975 cũng như gần đây chưa có dịp du lịch qua các quốc gia Thái Lan, Tân Gia Ba, Đài Loan, Hàn Quốc. Do đó họ không có điều kiện để so sánh mức phát triển của Việt Nam Cộng Hòa trước khi bị cộng sản miền bắc thôn tính so với những quốc gia này cùng thời gian. Trong khi ấy họ cũng không hề có một ý niệm nào về mức phát triển của Việt Nam thống nhất bắc nam sau 75 dưới thời cộng sản thống trị nếu so với Thái, Tân Gia Ba, Đài Loan hay Hàn Quốc.
Việt Nam là một quốc gia có dân số đứng hàng thứ 13 trên thế giới, lại là một đất nước giầu tài nguyên thiên nhiên sát cạnh Thái Bình Dương, và với một dân tộc cần cù nhiều sáng kiến, chịu học hỏi.  Như thế, theo cách nhìn của GS Trần Đình Thọ, đất nước, dân tộc ta có rất nhiều tiềm năng và triển vọng tiến rất xa không thua kém bất cứ quốc gia nào trong vùng nếu không còn chế độ cộng sản.
Trong điều kiện ấy, nếu Hà Nội vẫn ngoan cố ngồi lỳ, không chịu tự giải thể trả lại quyền điều hành đất nước cho nhân dân, thì chỉ còn một phương cách duy nhất lả toàn dân phải nhất tề đứng dậy, quyết liệt đấu tranh lật đổ tập đoàn cộng sản, khai mở một lộ trình tự do, khoáng đãng hơn cho Việt tộc đi vào một vận hội mới.
Ngày Lễ Tạ Ơn 2016
____
[1] Trong tác phẩm Chính Đề Việt Nam được ông Ngô Đình Nhu thai nghén trong nhiều năm cho đến ngày bị nhóm phản tướng đảo chính sát hại, tác giả luôn chủ trương Việt Nam phải Tây Phương Hóa triệt để, coi đấy như con đường duy nhất để phát triển đất nước và dân tộc. Tác giả cũng đoan quyết ngày nào chế độ Cộng Hòa miền Nam còn đứng vững, tham vọng xâm chiếm nước ta của Bắc Kinh sẽ không bao giờ thực hiện được. Trái lại, nếu miền Nam bị mất thì kết quả bi thảm này sẽ chỉ còn là vấn đề thời gian.

Trung Quốc sắp khánh thành bảo tàng Biển Đông

24.11.2016
Hình minh họa - Một chiếc bình cổ từ thời Nam Tống của Trung Quốc.
Hình minh họa - Một chiếc bình cổ từ thời Nam Tống của Trung Quốc.
Một viện bảo tàng quốc gia về Biển Đông được lên kế hoạch mở cửa vào tháng Ba sang năm, với nhiều cổ vật được sưu tầm tại Trung Quốc và hải ngoại, văn phòng chuẩn bị cho viện bảo tàng ở tỉnh Hải Nam cho biết hôm thứ Tư.
Hai công ty Trung Quốc đã mua lại 10 sản phẩm gốm sứ có giá trị tại buổi đấu giá ở New York hồi tháng 9 và hiến tặng cho viện bảo tàng hôm thứ Tư.
Các sản phẩm gốm sứ, bao gồm những bình hoa sang trọng, đế cắm hương, bình nước, bát đĩa, bộ chén đĩa từ thời nhà Minh và nhà Thanh (1368-1911), đã được sưu tầm tại Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan trước khi được mua lại bởi Tập đoàn Hải Nam Trung Thị và Tập đoàn Du lịch Hằng Đại.
Nhà thẩm định đồ cổ Lữ Thành Long và Bảo tàng Cung điện của Bắc Kinh cho biết các sản phẩm gốm có giá trị nghệ thuật cao. Ông Lữ nói: “Chúng là những sản phẩm có giá trị cao để trưng bày ở Bảo tàng Biển Đông”.
Ngoài ra, văn phòng chuẩn bị cho viện bảo tàng đã nhận được 832 cổ vật được các ngư dân địa phương nơi xây dựng viện bảo tàng hiến tặng.
Trong số những cổ vật được hiến tặng này có những la bàn cổ, nhật ký hàng hải và đồ gốm sứ từ các thời khác nhau được như dân tìm được ở Biển Đông.
Những sản phẩm mới nhất đều hơn 100 năm tuổi và cổ nhất có từ thời Nam Bắc Triều (420 – 589), Tạ Hải Sơn, một nhà thẩm định ở Quảng Đông cho biết.
Ông nói thêm, hầu hết những cổ vật đều được sản xuất ở Trung Quốc và một số khác đến từ Đông Nam Á và châu Âu.
Những cổ vật này cung cấp những manh mối giá trị cho các nhà nghiên cứu về trao đổi thương mại và văn hóa dọc theo hải lộ cổ có tên Con đường Tơ lụa, Trương Kiến Bình, một quan chức ở văn phòng chuẩn bị cho viện bảo tàng cho biết.
Người đứng đầu Sở Văn hóa của tỉnh Hải Nam Đinh Huy cho biết, viện bảo tàng rộng 10ha sẽ trưng bày các hiện vật về lịch sử, văn hóa và các tài nguyên thiên nhiên của Biển Đông, làm nổi bật chủ quyền của Trung Quốc trên Biển Đông và bảo vệ di sản văn hóa.

Ngoài Trung Quốc, một số quốc gia châu Á khác như Việt Nam và Philippines cũng có tuyên bố chủ quyền ở biển Đông.
Theo Xinhua, IndianExpress

Thứ Năm, 24 tháng 11, 2016

Công bố Kết luận thanh tra sai phạm tại Nhà máy xơ sợi Đình Vũ; Đề nghị điều tra các siêu dự án của PVN


(TTXVN/VIETNAM+) 


Nhà máy sản xuất xơ sợi polyester Đình Vũ có diện tích 15ha nằm tại Khu Công nghiệp Đình Vũ. (Nguồn: Báo ảnh Việt Nam)

Ngày 24/11, Thanh tra Chính phủ công bố Kết luận thanh tra việc đầu tư xây dựng dự án Nhà máy sản xuất xơ sợi Polyeste Đình Vũ.

Dự án Nhà máy sản xuất xơ sợi Polyeste Đình Vũ để thua lỗ hơn 1.400 tỷ đồng

Theo kết luận thanh tra, dự án Nhà máy xơ sợi Polyeste Đình Vũ (PVTex) do Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và Tập đoàn Dệt may (Vinatex) hợp tác đầu tư với quy mô lớn, giá trị nghiệm thu tại thời điểm thanh tra lên tới 363.528.263,03 USD.

Sau khi hoàn thành và đi vào sản xuất kinh doanh, dự án đã để thua lỗ hơn 1.400 tỷ đồng.

Nguyên nhân thua lỗ được Thanh tra Chính phủ chỉ ra là do PVTex, PVN, Vinatex, các đơn vị, tổ chức và cá nhân liên quan đã để xảy ra nhiều khuyết điểm, vi phạm trong quá trình thực hiện đầu tư, xây dựng dự án.

Theo kết luận thanh tra, Vinatex là tập đoàn lớn trong lĩnh vực dệt may, đã thiếu trách trách nhiệm trong việc góp vốn điều lệ; không thực hiện trách nhiệm của cổ đông mà ủy quyền cho PVN làm chủ đầu tư dự án.

PVN là tập đoàn có vốn chi phối tại PVTex, nhưng trong quá trình điều hành, giám sát còn nhiều vi phạm, thiếu sót, chưa thực hiện hết trách nhiệm trong việc đôn đốc, giám sát người đại diện vốn của PVN tại PVTex để đảm bảo việc thực hiện dự án theo đúng quy định của pháp luật.

Việc nhận chuyển nhượng vốn từ Vinatex và Tổng Công ty Cổ phần Phong Phú không đúng quy định, dẫn đến phải chịu toàn bộ lỗ của dự án là 1.472.802 triệu đồng.

Bộ Công Thương với chức năng quản lý Nhà nước, trách nhiệm của chủ sở hữu vốn Nhà nước tại PVN, Vinatex đã thiếu thường xuyên kiểm tra giám sát trong việc thực hiện những mục tiêu chiến lược ngành dầu khí; trong hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch và chuyển nhượng vốn của Vinatex và Tổng Công ty Cổ phần Phong Phú cho PVN. Những thiếu sót, vi phạm trên trách nhiệm thuộc Bộ Công Thương, Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc của PVN, Vinatex thời kỳ từ năm 2007 đến nay.

Về việc thực hiện đầu tư xây dựng dự án Nhà máy sản xuất xơ sợi Đình Vũ, kết luận thanh tra nêu rõ: sai phạm của chủ đầu tư PVTex trong quá trình quyết định dự án đầu tư, phê duyệt tổng mức đầu tư, kế hoạch đấu thầu, nội dung hồ sơ mời thầu giai đoạn 1 và 2 của gói thầu EPC, kết quả đấu thầu gói thầu EPC, đều có liên quan đến chỉ đạo điều hành của PVN.

Ngoài ra, việc chỉ đạo điều hành thông qua kiểm tra, đôn đốc, giám sát người đại diện vốn của PVN tại PVTex trong việc thực hiện dự án còn thiếu thường xuyên, dẫn đến quá trình thực hiện có nhiều sai phạm, dự án không hiệu quả.

Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc PVTex phê duyệt dự án, thiết kế cơ sở, thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, tổng mức đầu tư khi không tổ chức thẩm định; nội dung dự án không đảm bảo phù hợp, đồng bộ với thiết kế kỹ thuật tổng thể; phê duyệt tổng mức đầu tư thiếu chi phí vốn lưu động, tăng sai một số khoản chi phí trị giá 38.742.310 USD.

Trách nhiệm liên quan trực tiếp đến các vi phạm trên thuộc Tổng giám đốc, Hội đồng quản trị PVTex.

Cũng theo kết luận của Thanh tra Chính phủ, Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc PVTex không tổ chức thẩm định trước khi phê duyệt kế hoạch đấu thầu, phân chia dự án thành các gói thầu thiếu cơ sở; sơ tuyển nhà thầu trước khi dự án được phê duyệt và trước khi phê duyệt kế hoạch đấu thầu; hồ sơ mời thầu không yêu cầu các tiêu chuẩn cơ bản về năng lực kỹ thuật và kinh nghiệm trong xây dựng Nhà máy xơ sợi đối với nhà thầu là một điều kiện quan trọng có tính quyết định đến sự thành công và hiệu quả dự án. Trách nhiệm thuộc Hội đồng quản trị, Tống giám đốc PVTex và đơn vị tư vấn lập hồ sơ mời thầu.

Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc PVTex phê duyệt hồ sơ mời thầu nhưng không tổ chức thẩm định và có Báo cáo thẩm định; thư mời thầu thiếu thông báo thời điểm đóng thầu và mở thầu; nội dung hồ sơ mời thầu chưa phù hợp quy định; các chi phí trong nước không sử dụng bằng đồng tiền Việt Nam làm tăng chi phí chênh lệch tỷ giá ngoại tệ 46.835.207.983 đồng khi thanh toán; nghiệm thu tăng sai, trùng lắp khối lượng so với hồ sơ hoàn công một số hạng mục công trình với giá trị 23.046,6 USD và 8.091.364.419 đồng.

Trách nhiệm thuộc Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc PVTex, Tổ xét thầu, Tổ đàm phán ký kết họp đồng, Tư vấn quản lý dự án, Tư vấn giám sát và nhà thầu.

Hậu quả, sau 2 năm đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dự án không đạt hiệu quả, kết quả kinh doanh thua lỗ 1.472.802 triệu đồng.

Thanh tra Chính phủ kiến nghị Bộ Công an điều tra, xử lý sai phạm tại nhà máy xơ sợi Đình Vũ 

Căn cứ kết quả thanh tra, Tổng Thanh tra Chính phủ kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Công Thương yêu cầu PVN đánh giá toàn diện thực trạng dự án, đề xuất phương án xử lý phù hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét quyết định.

Về xử lý trách nhiệm hành chính, Thanh tra Chính phủ đề nghị Bộ Công Thương chỉ đạo và thực hiện kiểm điểm, xử lý trách nhiệm đối với tổ chức và cá nhân tại Bộ Công Thương, PVN, Vinatex thuộc thẩm quyền có liên quan đến các khuyết điểm, sai phạm được phát hiện qua thanh tra như đã nêu trên.

Đối với PVN, Vinatex, các đơn vị góp vốn và PVTex, cần chỉ đạo và tổ chức thực hiện kiểm điểm, xử lý trách nhiệm theo quy định đối với người đại diện vốn tại PVTex và các đơn vị, cá nhân thuộc thẩm quyền có liên quan đến các khuyết điểm, sai phạm đã nêu trong kết luận thanh tra.

Đặc biệt, kết quả thanh tra cho thấy quá trình thực hiện đầu tư dự án Nhà máy sản xuất xơ sợi Polyeste Đình Vũ đã có dấu hiệu cố ý làm trái hoặc thiếu trách nhiệm trong việc phê duyệt dự án, lựa chọn nhà thầu, ký kết, thực hiện hợp đồng với nhà thầu gây thất thoát, lãng phí lớn vốn đầu tư.

Vì vậy, Thanh tra Chính phủ kiến nghị Bộ Công an tiếp nhận hồ sơ để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật./.

Đề nghị điều tra các siêu dự án của PVN


24/11/2016 22:45

Hai dự án về nhiên liệu sinh học và Nhà máy Sản xuất xơ sợi Polyester Đình Vũ có sự tham gia của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam PVN đều làm thua lỗ hàng ngàn tỉ đồng

Thanh tra Chính phủ (TTCP) ngày 24-11 đã công bố kết luận thanh tra việc đầu tư các dự án nhiên liệu sinh học có vốn góp của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) và các đơn vị thành viên; kết luận thanh tra việc đầu tư xây dựng Dự án Nhà máy Sản xuất xơ sợi Polyester Đình Vũ.
2 năm, lỗ gần 1.500 tỉ đồng
Dự án Nhà máy Sản xuất xơ sợi Polyester Đình Vũ do Công ty CP Hóa dầu và Xơ sợi Dầu khí (PVTex) làm chủ đầu tư. Năm 2007, PVN ký thỏa thuận hợp tác với Tập đoàn Dệt may Việt Nam (Vinatex) để thực hiện dự án xơ sợi Đình Vũ tại Khu Kinh tế Đình Vũ (Hải Phòng). PVTex là một pháp nhân được 2 bên lập ra để quản lý dự án, đồng thời làm chủ đầu tư. Dự án có tổng mức đầu tư 325 triệu USD, tương đương khoảng hơn 5.400 tỉ đồng (tính theo tỉ giá năm 2008), với 30% là vốn chủ sở hữu, còn lại đi vay.

Dự án Nhà máy Sản xuất xơ sợi Polyester Đình Vũ tại Hải Phòng Ảnh: TRỌNG ĐỨC
Dự án Nhà máy Sản xuất xơ sợi Polyester Đình Vũ tại Hải Phòng Ảnh: TRỌNG ĐỨC
Trong quá trình thực hiện, Vinatex đã thiếu kiểm tra giám sát. HĐQT và tổng giám đốc PVTex phê duyệt dự án, thiết kế cơ sở, thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, tổng mức đầu tư khi không tổ chức thẩm định; nội dung dự án không bảo đảm phù hợp, đồng bộ với thiết kế tổng thể; phê duyệt tổng mức đầu tư thiếu chi phí vốn lưu động, tăng sai một số khoản chi phí trị giá 38,7 triệu USD.
HĐQT và tổng giám đốc PVTex phê duyệt hồ sơ mời thầu nhưng không tổ chức thẩm định và có báo cáo thẩm định; các chi phí trong nước không sử dụng bằng đồng tiền Việt Nam làm tăng chi phí chênh lệch tỉ giá ngoại tệ khi thanh toán; nghiệm thu tăng sai, trùng lắp khối lượng so với hồ sơ hoàn công một số hạng mục công trình... Sau 2 năm đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dự án không đạt hiệu quả, kết quả kinh doanh thua lỗ 1.472 tỉ đồng.
TTCP chỉ ra PVN, Vinatex là đại diện chủ sở hữu vốn tại PVTex đã chưa kịp thời xử lý những thay đổi phát sinh, còn nhiều thiếu sót và vi phạm trong chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, giám sát… TTCP đề nghị Bộ Công Thương chỉ đạo và thực hiện kiểm điểm, xử lý trách nhiệm đối với tổ chức và cá nhân tại Bộ Công Thương, PVN, Vinatex thuộc thẩm quyền có liên quan đến các khuyết điểm, sai phạm như đã nêu.
Liên tục đội vốn vẫn thua lỗ
Đối với 3 dự án nhiên liệu sinh học của PVN tại Bình Phước, Quảng Ngãi và Phú Thọ, TTCP cũng chỉ rõ những dự án này đã được đầu tư hơn 5.400 tỉ đồng nhưng đến nay vẫn thua lỗ, hoạt động cầm chừng.
Tại dự án ethanol Dung Quất (Quảng Ngãi), tổng mức đầu tư được phê duyệt là hơn 1.800 tỉ đồng nhưng đã bị đội vốn lên hơn 2.100 tỉ đồng. Năm 2014, dự án này lỗ khoảng 164 tỉ đồng. Dự án ethanol Bình Phước có tổng mức đầu tư gần 1.500 tỉ đồng, sau đó đã bị đội vốn lên hơn 1.700 tỉ đồng. Từ tháng 4-2013 đến nay, nhà máy này hầu như không vận hành thương mại, dự tính mỗi năm lỗ khoảng 200 tỉ đồng.
Đáng chú ý, dự án ethanol Phú Thọ, nhà thầu là Tổng Công ty CP Xây lắp Dầu khí (PVC). Dự án có tổng mức đầu tư hơn 1.300 tỉ đồng sau đó bị đội lên thành gần 2.500 tỉ đồng. Mặc dù dự án đã tạm dừng thi công nhưng vẫn mất hàng trăm tỉ đồng để trả lãi vay và quản lý.
Có dấu hiệu cố ý làm trái
TTCP chỉ rõ kết quả thanh tra cho thấy quá trình thực hiện đầu tư dự án Nhà máy Sản xuất xơ sợi Polyester Đình Vũ đã có dấu hiệu cố ý làm trái hoặc thiếu trách nhiệm trong việc phê duyệt dự án; lựa chọn nhà thầu; ký kết, thực hiện hợp đồng với nhà thầu gây thất thoát, lãng phí lớn vốn đầu tư. Vì vậy, TTCP kiến nghị Bộ Công an tiếp nhận hồ sơ để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật. TTCP cũng kiến nghị chuyển hồ sơ sang Bộ Công an để điều tra đối với các sai phạm trong quá trình đầu tư xây dựng dự án nhiên liệu sinh học Phú Thọ, Dung Quất có dấu hiệu cố ý làm trái, thiếu tinh thần trách nhiệm trong chỉ định thầu và thực hiện các hợp đồng gây hậu quả nghiêm trọng.
NGUYỄN QUYẾT