Thứ Hai, 2 tháng 1, 2017

Phạm Quang Long - Lỗi của ai?

Xem thêm: 

Tuần trước, trong một hội nghị về giáo dục, một ông hiệu trưởng trường tư thục bảo rằng chuyện 200.000 cử nhân và thạc sĩ thất nghiệp không phải lỗi do ngành giáo dục.

Tuần này bàn về giải quyết ách tắc giao thông, một ông to khác phán tắc đường do ý thức người tham gia giao thông kém (tivi đưa thế, chả biết có cắt xén gì không?).

Lại một vị cũng làm to nữa ở Bộ Giáo dục - Đào tạo thông tin: từ năm tới, sẽ tổ chức thi đại học chung và bỏ điểm sàn khi tuyển. Ông không nói ra các phương án trước đây mắc lỗi ở đâu mà chỉ bảo lúc này các phương án ấy không thích hợp nữa. Chả biết tôi có cưỡng từ đoạt lý (của ông ấy) không nhưng về bản chất là ổng đã thừa nhận mấy phương án kia sai rồi.

Tôi nghe các vị ấy tổng kết cứ thấy gờn gợn thế nào. Xin lạm bàn như sau:

Kết quả hình ảnh cho lỗi tại aiCái cách chối bỏ trách nhiệm như thế rất không sòng phẳng. Đành rằng người thất nghiệp không chỉ do ngành giáo dục nhưng mở trường ồ ạt thế, đào tạo nhiều thế, chất lượng kém thế... không do ngành thì do ai? Có cả ngành và những chính sách do ngành đề nghị và được phê duyệt. Chả thế mà bây giờ phải rà soát lại cơ cấu trường, ngành, nội dung đào tạo... (tôi cũng tham gia vào việc tạo ra nạn thất nghiệp này nên không dám chối bỏ trách nhiệm). Giải pháp bỏ điểm sàn được nhiều vị hỉ hả vì như thế các trường vốn khó tuyển sinh có cơ hội lấy điểm thấp vì đã phân cấp rồi. Ở trong ngành, tôi biết, sinh viên không có năng lực nhận thức thì không có phép thánh nào biến họ thành giỏi được. Tôi tin rằng ai cũng có quyền học nhưng không phải ai cũng có đủ năng lực tư duy để trở thành trí thức. Không có bột, không ai có thể gột nên hồ. Tôi sợ sẽ lại có những tiền đề để chất lượng đào tạo xuống nữa sau khi bỏ điểm sàn. Tôi chỉ bàn chuyện chất lượng chứ không bàn những chuyện khác.

Tôi đồng ý là trong các nguyên nhân làm tắc đường có lý do từ ý thức tham gia giao thông của người dân kém. Nhưng nguyên nhân chính nằm ở chỗ khác. Đường sá đô thị có thế thôi, mở thêm nữa không thấm vào đâu vì gần đây ở trung tâm thành phố, cạnh các con đường huyết mạch cứ xây hết khu đô thị này đến các khu chung cư khác. Mỗi khu hàng vạn căn hộ lại thiếu hạ tầng đô thị như nhà trường, bệnh viện, cửa hàng. Các khu đó chủ yếu xây nhà ở, nghĩa là chỉ xây chỗ để ngủ để bán vì làm thế lãi lớn nhất, thủ tục dễ nhất (mới chỉ có vài khu mới xây trường học thôi). Thế là cư dân ở đó ngày mấy buổi phải đi về nơi làm việc, đưa đón con cái đến trường, đi ngược nhau, đi từ bên này sang bên kia thành phố. Nghe nói khu triển lãm Giảng Võ đã bán cho một đại gia nào đó để xây hàng chục cao ốc. Tôi mạo muội khuyên đừng xây nữa, xây xong không bán được hàng đâu vì xung quanh chỉ có mấy con đường nhỏ thế, giờ đã tắc rồi, nay mai nhà cao tầng chồng lên thì cứ đứng mà nhìn nhau, đi lại sao được. Nghe ông Bí thư thành phố than phiền không có kinh phí, nhìn thấy trước thảm họa mà chịu bó tay, buồn quá.

Xin có ngu ý thế này: thành phố Hà Nội cũng như những thành phố khác nên cho dừng ngay việc xây các khu chung cư trong trung tâm. Điều này không tốn quá nhiều tiền mà lại tránh được thảm họa. Không tin cứ cho Viện Nghiên cứu xã hội của thành phố đi lấy ý kiến người dân xem, họ sẽ đồng tình ngay. Thà bây giờ bỏ tiền ra đền cho doanh nghiệp vì đã trót cho họ xây dựng rồi, yêu cầu họ chuyển đổi mục đích sử dụng đất còn đỡ tốn hơn sau này phải phá nhà để làm đường.

Tôi cho rằng các chuyện trên, các ông bà có trách nhiệm biết cả. Vì sao ư? Vì các ông bà đều là những người sáng láng, lại nhiều thông tin. Còn vì cái gì mà các ông bà biết lại không làm hoặc làm khác đi, thì chỉ các ông bà là người biết rõ nhất.

Chả lẽ lại học cụ Tú Xương "bồng bế nhau lên, tớ ở non" để tránh thảm hoạ? Nhưng người khôn của khó, lúc ấy non cũng hết thì chỉ còn nước thăng thiên thôi.

Phạm Quang Long

(PGS-TS, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa - Thể thao - Du lịch Hà Nội, cựu sinh viên khóa 14 Văn khoa, Tổng hợp HN)

(Blog Nguyễn Thông)

Cơn ác mộng Trung Hoa vì đâu mà thành?

thumbnail-mv
Văn hóa cổ xưa Trung Hoa biểu hiện ở sự huy hoàng của bách gia trăm họ, triều đại nhà Tần, thơ Đường, Tống tự. Tứ đại phát minh: Hoá học, toán học, thiên văn và thuật luyện kim; dệt vải, gốm sứ và một số kỹ thuật thực dụng; Trí huệ khoan dung, nhẫn nhường, hoà hợp, thiện lương, tôn sư trọng đạo, tự cường bất tức, hậu đức tải vật (lấy sự cần cù, kiên định để vươn lên, lấy đức độ của lòng người mà bao dung mọi vật)… đây là những mỹ đức của dân tộc Trung Hoa xưa.
Nhưng tiếc thay, những điều tốt đẹp là mỹ đức, thành tựu kể trên giờ chỉ là… quá khứ. Người Trung Quốc ngày này có gì đáng để tự hào không? Như lời của một vị tướng quân người Đức nói: “Tôi kính phục đức độ người Trung Quốc, nhưng đó là người Trung Quốc cổ xưa.”
Ngày nay, văn hóa Trung Quốc trong xã hội hiện đại đầy rẫy những biến dị, người Trung Quốc đi du lịch khắp nơi thế giới thì thường để lại ấn tượng khiến dân bản địa không thể nào có thiện cảm tốt được, cơn ác mộng Trung Hoa ấy vì đâu mà thành?
trung quoc mong
trung quoc mong
Nguyên nhân sản sinh của những hiện tượng biến dị trong xã hội, có thể đưa ra nhiều lý do, nhiều phương diện: Thể chế, giám sát, tu dưỡng, giáo dục… Trên thực tế, chúng ta thường bỏ sót một nguyên nhân quan trong nhất, đó chính là sự biến dị của văn hoá tín ngưỡng, người Trung Quốc hiện nay đã mất đi sự tôn kính của mình đối với Thần Phật.
Vào thời Tam Quốc, con trai của Tôn Quyền là Tôn Hòa đã vô tình thấy một tượng Phật nhỏ bằng vàng trong khu vườn sau nhà. Đó là cổ vật của vua Ấn Độ A Yu, từng được đặt trong cung điện để bảo an. Nhưng vì sao bức tượng này lại có mặt ở đây, và vì sao nó lại được chôn dưới đất? Không ai có thể giải thích điều này.
Tôn Hòa vốn không tin Phật giáo, vì thế ông ta đã đem bức tượng bỏ vào một nơi dơ bẩn và đổ những thứ nhơ uế lên đó. Không lâu sau, cơ thể ông ta trở nên sưng tấy và đau đớn, đến độ ông ta đã la khóc kêu than.
a0f3a28f43fe5065ba5ac5a2af389b04
a0f3a28f43fe5065ba5ac5a2af389b04
Người tì nữ này rất tin vào giáo lý nhà Phật. (Ảnh minh hoạ: mingxinh)
Có một tì nữ trong cung điện của Tôn Hòa tin vào Phật pháp, cô nói: “Thưa ngài, ngài nên đến bên tượng Phật và cầu nguyện chăng?”
Ông ta hỏi: “Phật là một vị Thần phải không?”
Tì nữ trả lời: “Vâng, đúng như vậy.”
Rồi Tôn Hòa nhận ra những gì mình đã làm và kể cho tì nữ nghe. Tì nữ lập tức mang tượng Phật vào đại sảnh và chùi rửa nhiều lần với nước sạch. Rồi cô đốt hương và khấn nguyện. Tôn Hòa cũng quỳ thú tội và cầu xin được tha thứ. Sau một hồi, ông không còn cảm thấy đau đớn nữa.
Sau đó, Tôn Hòa cho gọi một hòa thượng đến giảng giải Phật Pháp. Lão hòa thượng cũng giải thích Pháp là gì một cách chi tiết với Tôn Hòa, đồng thời đọc các kinh sách cho ông nghe. Sau 10 ngày, Tôn Hòa hoàn toàn bình phục và đã ra lệnh trang hoàng ngôi chùa. Ông ta cũng yêu cầu tất cả mọi người trong cung phải tôn kính Phật Pháp.
163301_242646475865873_1723643187_n
163301_242646475865873_1723643187_n
Sự tôn kính của một con người phải được dành cho Thần Phật, thì nay, thay vào đó người ta sùng bái những trào lưu văn hoá biến dị, bại hoại của con người.
Tôn kính Thần Phật, đó là tố chất tối căn bản của một người, cũng là tố chất tốt đẹp nhất của một dân tộc. Không có tín ngưỡng sẽ không có sự tôn kính. Người dân Trung Quốc hiện nay sùng bái học thuyết vô thần luân – ca ngợi sự “vô Thần”, phủ định niềm tin kính ngưỡng vào Thần Phật – vốn là cội nguồn của những giá trị đạo đức tốt đẹp.
Con người không còn sự kính trọng đối với Thần cũng đồng nghĩa không có bất cứ thứ gì chế ước bản thân. Càng ngày càng phóng túng bản thân, đua nhau theo đuổi chủ nghĩa lợi ích vật chất. Hơn nữa, còn không chừa bất cứ thủ đoạn nào để có được thứ mình muốn, chạy theo cái mà họ gọi là “bản năng”, “bản năng” xa rời nhân tính. Tham ô, lừa gạt. hủ bại trở thành trào lưu. Khiêm nhường, lương thiện, khoan dùng, cần liêm, giúp đỡ người khác, kính lão yêu trẻ… thành chuyện hoang đường xa xỉ, quan hệ giữa người với người ngày càng trở lên lãnh đạm thờ ơ.
Một con người không còn lòng tin vào Thần Phật, sẽ không tin có Nhân Quả và không việc ác nào không dám làm, vì danh lợi mà không từ một thủ đoạn nào cả.
Thế nên mới có những chuyện như Thảm sát kinh hoàng ở quảng trường Thiên An Môn, dìm hàng chục ngàn sinh viên trí thức yêu nước trong bể máu, mới có những kẻ như Giang Trạch Dân dám gây ra tội ác khiến cả thế giới kinh hoàng: sát hại hàng triệu học viên Pháp Luân Công vô tội vì niềm tin kính ngưỡng của họ đối với Thần Phật, những người tin rằng Chân – Thiện – Nhẫn là đạo lý quan trọng nhất để làm người.
1510170319551454-600x4002
Chỉ vì muốn làm người tốt theo nguyên lý Chân Thiện Nhẫn, họ đã phải chịu đựng những thống khổ tột cùng để bảo vệ đức tin của mình. (Ảnh: Falunart)
Những tội ác man rợ không thể tưởng tượng được như thế tồn tại chính là bởi vì con người không còn niềm tin kính ngưỡng đối với Thần Phật. Xã hội cổ xưa, tại sao người dân sống, ban đêm không cần đóng cửa, cũng không tồn tại thứ bại hoại, đạo đức tha hoá như ngày này, đó là vì người xưa, họ biết thiên lý tồn tại, họ biết điều gọi là: “Thiên lý bất dung”. Người xưa tin rằng: “Người đang làm, Trời đang nhìn”, nên không cần luật pháp họ cũng tự ước chế bản thân không làm điều xấu, bởi vì họ tin tưởng chắc chắn vào một thứ cao hơn luật Pháp, đó là Thiên lý.
Cơn ác mộng Trung Hoa bắt đầu chính từ sự phủ nhận những giá trị truyền thống, phỉ báng vào niềm tin Thần Phật. Thế giới đang chứng kiến một Trung Quốc tràn ngập những điều bại hoại, bất lương, bất thiện, những tội ác đi xa hơn cả tưởng tượng đến nỗi người dân thế giới còn không thể tin là có thật.

Untitled-2
Giang Trạch Dân, kẻ gây ra đại hoạ Trung Quốc, bức hại quần thể hơn 100 triệu người tốt làm chấn động thế giới, đẩy đạo đức dân tộc này xuống tận đáy.
Chỉ có trong sự trở về với niềm kính ngưỡng chân thành sâu sắc với Thần Phật, vào Thiên Lý, Nhân Đạo, thì con người mới có thể trở lại với những giá trị thuần thiện, chân chính và tốt đẹp ban sơ. Và thế giới này mới có thể trở về với sự văn minh huy hoàng của nhân loại.
Vũ Lam Liên
Xem thêm:

Người Việt đầu thế kỉ 20 trong hồi ký của một vị Toàn quyền Đông Dương

1 day trước 5,789 lượt xem

Nhằm cung cấp thêm một tài liệu về người Việt trong giai đoạn thế kì 19, đầu thế kỉ 20, dưới đây là một vài trích đoạn trong quyển “Xứ Đông Dương” để bạn đọc có thể tham khảo thêm góc nhìn khác từ một viên chức cao cấp của Pháp.
Những cuốn sách viết về lịch sử Việt Nam của người Trung Quốc, người Pháp, người Mỹ… xưa nay không ít. Lẽ dĩ nhiên, là sách của người nước ngoài nên cách nhìn bao giờ cũng đối nghịch ít nhiều với quan điểm của chúng ta. Nhưng nếu ta biết “gạn đục khơi trong”, phê phán có chọn lọc thì đó sẽ là một nguồn tài liệu đáng quý, giúp ta nhìn nhận sự việc được khách quan hơn.

Đôi nét về Paul Doumer

Paul Doumer từng giữ chức Toàn quyền Đông Dương từ 1897 đến 1902
Paul Doumer từng giữ chức Toàn quyền Đông Dương từ 1897 đến 1902
Paul Doumer là một chính khách người Pháp, sinh năm 1857. Ông làm Toàn quyền Đông Dương từ 1897-1902. Cuốn hồi ký “Xứ Đông Dương” là một tài liệu quý viết riêng về hành trình, nhận định và trải nghiệm của ông trong giai đoạn 5 năm ở Đông Dương, mà phần lớn là ở Việt Nam (thời đó gọi là An Nam).
Về con người của Paul Doumer, ông là người có kiến thức nhiều lĩnh vực, là Bộ trưởng tài chính Pháp trước khi sang Đông Dương nhận chức Toàn quyền. Sau này ông còn làm Tổng thống Pháp từ 1931-1932. Quyển “Xứ Đông Dương” ghi lại nhiều nhận định của ông về nhiều mặt: địa lý, kinh tế, hành chính, con người, văn hóa… ở những nơi ông đi qua.
Để phục vụ nước Pháp hết mình, Doumer đã ra sức chấn chỉnh bộ máy quản lý ở các xứ thuộc địa, đồng thời xây dựng nhiều cơ sở hạ tầng tại Việt Nam, đáng chú ý như: cầu Doumer (sau đổi tên thành cầu Long Biên) – được coi là một kỳ quan của Đông Dương thời ấy, cầu Thành Thái (tức cầu Tràng Tiền) bắc qua sông Hương ở Huế và cầu Bình Lợi bắc qua sông Sài Gòn.
Ông cũng chính là người đã ủng hộ và hậu thuẫn công việc nghiên cứu của Yersin, đồng ý xây dựng thành phố Đà Lạt và đưa cây cao su vào trồng. Dưới thời cai trị của Paul Doumer, Hà Nội là thành phố châu Á đầu tiên có điện.
Paul Doumer hành động hoàn toàn vì lợi ích của nước Pháp. Nhưng ông là một nhà kinh tế có tài và có tầm nhìn. Chính do vậy, người Pháp có lợi nhưng xứ thuộc địa cũng được hiện đại hóa, Tây phương hóa.

Một số trích đoạn trong “Xứ Đông Dương” nói về người Việt Nam trong giai đoạn giao thời giữa thế kỉ 19 và 20:

sach-xu_dong_duong_1
Nói về người Việt:
Người An Nam chắc chắn là tộc người ưu trội so với các dân tộc xung quanh. Người Cao Miên, Ai Lao và Xiêm La đều không thể chống lại được họ. Không một dân tộc nào trong Đế quốc các xứ Ấn Độ có những phẩm chất như họ. Phải tới tận Nhật Bản mới có tộc người có phẩm chất của người An Nam và giống như người An Nam. Người An Nam và người Nhật Bản chắc chắn có mối quan hệ thân tộc từ xa xưa. Cả hai đều thông minh, cần cù và dũng cảm. Người lính An Nam là một người lính giỏi, có kỷ luật và dũng cảm. Họ cũng là những người lao động mẫu mực, những nông phu giỏi việc đồng áng, những người thợ lành nghề, những nghệ nhân khéo léo và thông minh. So với các dân tộc khác ở châu Á, trên tư cách người thợ và người lính, người An Nam vẫn xếp cao hơn một bậc. Vả chăng, đó là một quy luật chung mà tôi đã kiểm chứng trên khoảng 20 chủng tộc của nhân loại, và tôi cũng thấy rất đúng ở châu Âu: những người dũng cảm trong lao động cũng là những người dũng cảm trong chiến tranh; nói khác đi, can đảm là một tính cách thống nhất. Nếu người nào can đảm trước sự mệt mỏi, người đó sẽ can đảm trước nguy hiểm và trước cái chết.
Về thiên nhiên Nam Kỳ:
Lớp đất trẻ, tương đối nông của Nam Kỳ đặc biệt thuận lợi cho việc trồng cấy. Rất dễ canh tác trên đất đó, và đất đặc biệt phì nhiêu. Thời vụ diễn ra rất đều đặn. Thu hoạch hằng năm, chủ yếu là lúa, có biến đổi ít nhiều do những nguyên nhân không đáng kể; sản lượng năm này có thể cao hơn hoặc thấp hơn năm khác về số lượng hoặc về chất lượng nhưng ít nhất cũng luôn luôn được đảm bảo. Sản lượng thu hoạch đó dao động quanh một mức trung bình cao và không bao giờ xuống thấp hơn mức tối thiểu, vẫn còn cao hơn nhiều mức tiêu thụ của dân Nam Kỳ. Gạo bán ra nước ngoài, tức xuất khẩu, trong những năm tệ nhất không bao giờ dưới 700.000 tấn. Gạo xuất khẩu có thể đạt đến một triệu tấn, tính ra thành tiền từ khoảng 80 đến 100 triệu phờ-răng. Hồ tiêu xuất khẩu cũng là một nguồn tài nguyên giá trị.
Gạo là nguồn tài nguyên to lớn có thể thu được không mấy khó khăn; mỗi năm nông dân ở đây chỉ làm một vụ, và công việc đồng áng chỉ tập trung trong ba hoặc bốn tháng. Cả đến vận tải cũng được thực hiện trong những điều kiện dễ dàng và cực rẻ.
Đất Nam Kỳ chằng chịt hàng nghìn con sông lớn nhỏ, kênh, rạch chạy theo mọi hướng. Nam Kỳ là nơi bằng phẳng nên thủy triều ảnh hưởng như nhau tới tất cả các tuyến đường thủy. Như thế mỗi ngày hoạt động của triều lên và triều xuống làm cho các dòng chảy cứ sáu tiếng chảy theo chiều này và sáu tiếng chảy theo chiều ngược lại. Người An Nam lợi dụng điều đó để vận tải hàng hóa mà không mất công mất sức gì nhiều. Ghe xuồng của họ xuôi dòng với sự trợ lực của buồm hoặc mái chèo vừa đủ để có thể lái được chúng. Khi thủy triều đổi hướng mà chưa tới được điểm đến thì họ bỏ neo hoặc buộc những chiếc tam bản vào bờ, bình tĩnh chờ thủy triều đưa dòng nước thuận đến, và cứ như thế cho cả chuyến đi lẫn chuyến về. Vận động thủy triều cung cấp lực miễn phí cho ngành giao thông đường thủy. Có lẽ không có quốc gia nào trên thế giới mà cư dân lại được thiên nhiên ưu đãi như Nam Kỳ.
Về thành phố Sài Gòn:
Một nhóm binh sĩ hải quân Pháp trên đường phố Sài Gòn. Hình ảnh nằm trong loạt ảnh Đông Dương năm 1901 do nhiếp ảnh gia người Pháp Jules Gervais-Courtellemont thực hiện.
Một nhóm binh sĩ hải quân Pháp trên đường phố Sài Gòn. Hình ảnh nằm trong loạt ảnh Đông Dương năm 1901 do nhiếp ảnh gia người Pháp Jules Gervais-Courtellemont thực hiện.
Ở Sài Gòn cũng có người Hoa, và nhiều là đằng khác, buôn bán to nhỏ đủ loại. Bên cạnh các cửa hiệu Pháp giống như các cửa hiệu ở tỉnh lẻ bên Pháp, tôi thấy các cửa hiệu Trung Hoa khiêm tốn hơn nhưng năng động hơn. Tất cả mọi thứ có trong cửa hiệu của thương nhân châu Âu và cả những thứ khác nữa đều có bán tại cửa hiệu của người Hoa; nơi này sản xuất thứ gì thì nơi khác cũng sản xuất thứ đó. Đây là một cuộc cạnh tranh có lợi cho người tiêu dùng. Đối với các mặt hàng rẻ tiền, đối với các công việc đơn giản, sự cạnh tranh không còn nữa vì chỉ còn lại người Hoa. Khi ta muốn có những bộ quần áo lịch sự, một chiếc đầm đi dạo hoặc ăn tối, một bộ smoking mà không cần đặt từ Pháp sang thì thay vì tìm cô thợ may người Pháp, ta cứ đặt người Hoa ở đây may những chiếc váy nhẹ, những bộ quần áo bằng vải lanh. Các dịch vụ giặt, là, mạng vá cũng là nghề của họ. Họ là những thợ khéo léo và quý hóa không từ chối một yêu cầu nào. Họ chịu làm mọi việc. Người An Nam ở Nam Kỳ không tranh việc với họ. Nam Kỳ quá giàu có, cuộc sống quá dễ dàng nên chỉ gắng sức tí chút là người ta đã tìm được việc. Người ta thấy chỉ có sự gia tăng dân số của người An Nam có thể dẫn tới việc dòng người đổ vào thành phố và đẩy lùi người Hoa. Nhưng cho đến nay, sự gia tăng đất canh tác thậm chí còn nhanh hơn sự gia tăng dân số nên hiện tượng trên không thể xảy ra.
dinh-toan-quyen
Sài Gòn là một thành phố nhiệt đới xinh đẹp, thành phố duyên dáng nhất vùng Viễn Đông. Một số công trình nghệ thuật ở Sài Gòn rất đẹp; tất cả đều có kích thước lớn; nhà cửa nói chung khá xinh xắn, đường phố rợp bóng cây, tất cả như bị ngập trong một đại dương xanh. Nhìn từ trên cao xuống, từ chòi quan sát trên nóc một con tàu hoặc từ các tháp của nhà thờ, Sài Gòn hiện ra như một công viên rộng lớn, trong đó một vài tòa nhà quá đồ sộ hoặc quá cao vượt lên khỏi những tán cây. Này là Dinh Toàn quyền, các trại lính, bệnh viện, Sở Bưu điện, Dinh Thống đốc, Sở Thuế quan…; các công thự đó không chịu thua những tán cây muốn chiếm lĩnh trời xanh, luôn luôn vươn lên và trải rộng nhờ nhựa sống của thiên nhiên hào phóng.
Về người Bắc Kỳ:
Người An Nam ở Bắc Kỳ cần cù chịu khó, còn hơn cả người Nam Kỳ. Họ vạm vỡ hơn, cường kiện hơn. Khí hậu thì khá khắc nghiệt; họ không được thiên nhiên ban tặng những điều kiện thuận tiện cho sản xuất và vận tải. Bị bó buộc trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, nơi họ sống chen chúc, dân An Nam buộc một vùng đất chật hẹp phải sản sinh ra rất nhiều sản phẩm. Công việc đồng áng làm họ mất hầu hết thời gian trong năm. Những việc vận chuyển giao thông, hộ đê, tạp dịch và những việc vặt thường nhật lấy gần hết toàn bộ thời gian còn lại. Họ làm việc tích cực không ngừng nghỉ.
Về các thợ thủ công:
Cầu Long Biên ngày nay
Cầu Long Biên ngày nay (ảnh: vnphoto.net)
Các thợ thủ công Bắc Kỳ làm việc chăm chỉ và thuần thục. Họ thành công một cách đáng ngưỡng mộ trong các công việc đòi hỏi tỉ mỉ và tinh xảo. Họ có khiếu thẩm mỹ, và một số người trong bọn họ là những nghệ nhân thực sự. Những thợ đúc đồng, thợ kim hoàn, thợ khảm men huyền, thợ thêu, thợ điêu khắc, thợ khảm đã tạo được một tiếng tăm xứng đáng. Họ không phải là những người thợ bắt chước một nền nghệ thuật ngoại quốc. Dẫu vẻ bề ngoài của những sản vật lộ rõ mối quan hệ với những đồ vật Nhật Bản và Trung Hoa, thì chúng vẫn không phải được lấy cảm hứng từ đó; những người thợ đã tạo ra một nghệ thuật An Nam, với các hình mẫu và cách trang trí của chính họ.
[…]
Các thợ thêu trên lụa làm việc với một kỹ thuật không thể sánh được. Về mặt chăm chút và hoàn thiện công việc, đồ thêu ở Bắc Kỳ được làm tinh hơn đồ của Nhật Bản và Trung Hoa. Nhưng vào năm 1897, các bức thêu mang giá trị trang trí còn rất thấp. Đó là những bức thêu cảnh sinh hoạt của người An Nam hoặc các trận chiến huyền thoại, với một đám đông những nhân vật nhỏ xíu, con giống, đồ vật mà ta có thể ngưỡng mộ các chi tiết, nhưng về toàn cảnh chẳng có gì đẹp lẫn dễ coi. Kể từ đó trở đi, các thợ thêu An Nam đã lấy từ hệ thực vật phong phú của mình những nhân tố để tạo thành tác phẩm của họ. Họ đã thành công trong việc đem lại cho những tấm lụa thêu một hiệu ứng trang trí ngang tầm với người Nhật Bản, và họ đã không đánh mất sự ưu trội về tay nghề của họ.
Đồ gỗ gia dụng An Nam do những thợ chạm gõ chế tạo, và chủ yếu gồm ghế tựa, bàn và tủ chè, có đường nét và hoa văn rất đẹp. Các bộ trường kỷ, món đồ trang trí trong những ngôi nhà truyền thống và trong đền chùa, hầu hết đều mang những nét đối xứng hài hòa; các hình chạm khắc trang trí trên đó thì đơn giản và thường rất đẹp. Nhưng sự thành công rực rỡ của người An Nam là nghệ thuật khảm trai trên gỗ. Họ đã khiến cho những bộ tủ chè và những thứ đồ gỗ nhỏ khảm trai như vậy của vùng này trở nên thực sự đáng chú ý và họ đã nổi danh ở vùng Viễn Đông. Những thợ khảm trai Trung Hoa, những người hình như đã truyền nghề của mình cho dân An Nam thì còn lâu mới sánh ngang hàng được với học trò của mình.
Về giáo dục:
Trong các trường làng, người ta dạy các chữ cơ bản. Những quyển sách tập đọc mà họ trao vào tay lũ trẻ thì đúng là những tiểu kiệt tác thực sự, trong đó thể hiện tinh thần đạo đức của Khổng Tử với một ngôn ngữ đơn giản và đẹp, khắc ghi vào trí óc trẻ thơ. Ta chuyển từ quyển thứ nhất, hết sức đơn giản, hết sức cơ bản, dạy cho ta những phép tắc lễ nghĩa đầu tiên, lên đến quyển thứ hai là những vấn đề rộng hơn, sau đó lên quyển ba và cứ tiếp tục như thế. Đa phần các trường làng thấy rằng dạy chừng từ bốn đến năm quyển là đủ. Bọn trẻ học ở đó, cùng với một lượng chữ đủ để viết và trao đổi trong những tình huống đơn giản mà họ gặp nhau, những nguyên tắc đạo đức và những quy định ứng xử sẽ theo họ trong suốt cuộc đời. Đây hiển nhiên là một nền giáo dục chưa hoàn chỉnh; tuy nhiên nó đủ để làm cho một dân tộc cần cù, gắn bó với nhiệm vụ gia đình, hạnh phúc về mọi mặt khi những vấn đề bên ngoài không khiến họ lo lắng ưu phiền.
Về tre Việt Nam:
Người dân Đông Dương dựng nhà bằng tre; mặt khác, kể cả khi một căn nhà được xây bằng gạch thì nó vẫn được bao bọc bởi một lũy tre lớn mà bản thân nó cũng đã chính là một công trình. Bờ rào, những chòi canh để trông coi hoặc để nghỉ chân khi đi săn, những cọc cừ bằng tre để ngăn sông xói mòn đất, những chiếc tời, vó và cần câu, tất cả các loại đồ dùng và dụng cụ đều được làm bằng tre. Khi đi đường, nếu cần dựng tạm lều trại, người An Nam cũng dễ dàng làm được khi có những cây tre ở ngay gần.
Đô đốc Pottier
Đô đốc Pottier (ảnh trích từ sách)
Tôi vẫn còn nhớ một ngày nọ ngài Đô đốc Pottier đã vô cùng sửng sốt thán phục khi được cây tre cứu khỏi tình huống khó khăn trên mạn thượng lưu sông Hồng. Tôi và vị Đô đốc tài giỏi này đã gặp nhau tại Lào Cai nơi chúng tôi cùng khánh thành cây cầu mà tôi đã cho xây dựng tại Nậm Thi để phục vụ cho tuyến đường sắt và đường bộ nối với Vân Nam. Lúc đó khoảng tháng Một năm 1902. Được tháp tùng bởi hai sĩ quan phụ tá và một đội lính khố đỏ hộ tống, ngài Đô đốc lúc đi xe kéo, lúc đi kiệu trên con đường bộ bên sông hoặc tuyến đường sắt đang được xây dựng. Không phải cả 200 hay 250 cầu đường sắt đều đã thi công xong, nên việc đi lại vẫn khó khăn và chậm chạp.
Lịch trình đã được sắp xếp sao cho đoàn có thể ăn trưa, hoặc ít nhất là ăn tối và nghỉ ngơi tại một ngôi làng, hoặc trong một đồn bốt. Buổi chiều hôm ấy, ngài Đô đốc đã thấm mệt và chỉ có thể tiếp tục hành trình khi đã khá muộn và không theo đúng lịch trình đã lập. Màn đêm dần buông trong khi cả đoàn vẫn còn cách khá xa bốt nghỉ, nơi đã chuẩn bị sẵn đồ ăn và chăn. Họ buộc phải tạm nghỉ, nơi dừng chân là vùng đất nguy hiểm có hổ rình rập nên họ không đi tiếp được khi mặt trời đã lặn. Làm sao có thể ăn uống và nghỉ ngơi ở một nơi hoang dã như thế? Đoàn hộ tống có một ít gạo dự trữ của lính khố đỏ và vài hộp thức ăn Âu, nhưng chẳng có đồ dùng nào khả dĩ để nấu ăn, và cũng không có gì để che chắn hay để tự vệ đề phòng sự tấn công của dã thú. Thật may là có những rặng tre mọc hai bên bờ sông Hồng, và những người lính khố đỏ thì không rời tay khỏi những thanh mã tấu, một loại kiếm nhỏ hay dao dài bản địa. Với những thứ đó, ngài Đô đốc có thể yên tâm: ông sẽ có một chỗ nghỉ ngơi và ăn uống.
Không để mất thời gian, những người lính bắt tay ngay vào công việc. Chỉ trong vài phút, một hàng rào bằng tre dài và chắc chắn đã được dựng lên tạo thành một khu trại đủ rộng. Họ đã giải quyết được vấn đề dã thú. Sau đó ba chiếc lều được dựng, một cho ngài Đô đốc, một cho những sĩ quan, cái còn lại cho binh lính hộ tống. Ngài Đô đốc và những viên sĩ quan trong hoàn cảnh này đã có thể nghỉ ngơi thoải mái với những chiếc chõng tre, cao khoảng 40 đến 60 xăng-ti-mét và đàn hồi như một tấm nệm lò xo cùng những chiếc gối tiện dụng. Một ống tre lớn còn nguyên cả mắt, vốn chứa nước rất tốt, được khéo léo cắt từng khúc thành một cái gáo, cũng có thể coi là bát, xô hay chậu. Nhờ đó, trong khi những căn lều lán được dựng lên và hoàn tất, những người lính đi kiếm và lấy nước vào những gáo tre, nhóm lửa và chuẩn bị bữa tối. Gạo và đồ hộp được nấu trong những chiếc nồi kỳ lạ làm từ những cây tre. Vậy là chẳng khó gì để có được một bữa ăn, nhưng khi Đô đốc Pottier nhìn những thanh mã tấu trong tay của những người lính đẽo gọt ra những chiếc đĩa, thìa và cả những chiếc dĩa bằng tre cũng có ba răng y như dĩa thật, ông thấy đó quả là một sự khéo léo phi thường! Rất lâu sau khi trở về Pháp, ngài Đô đốc vẫn kể lại câu chuyện và rất vui vẻ khoe một chiếc chăn kỳ diệu, vốn được làm ra cấp thời cũng như căn lều và bữa tối của ông trong một thung lũng ở thượng lưu sông Hồng. Ông ghi nhớ những kỷ niệm về một buổi tối mà ông bất ngờ trải qua như thế cũng như về sự khéo tay đến kinh ngạc của những người An Nam.
Về tệ nạn trong hệ thống quan lại và thái độ của Pháp:
Triều đình An Nam vẫn hoạt động tốt gần giống với tình trạng trước khi bị nước Pháp chinh phục. Hệ thống quan chế tại các tỉnh thành vẫn giữ nguyên; việc cai trị cũng vậy. Các quan lại sống tại những dinh thự đẹp đẽ được xây xựng theo kiểu hệ thống Vauban; họ cai trị, hành pháp và thu thuế dưới danh nghĩa triều đình. Quyền cai trị, hành pháp và thu thuế là những nguồn lợi trực tiếp của họ, là hối lộ biếu xén và mọi loại bổng lộc khác. Đương sự của các vụ kiện, những người nộp thuế và những kẻ nô dịch sẽ dâng lên tất cả những gì họ có; những viên quan to hay nhỏ đều cố gắng bòn rút tối đa từ dân, và phần được đóng vào quốc khố chỉ là phần còn lại mà bọn họ không thể ăn chặn được.
Đó là chế độ quân chủ quan liêu cũ trong đó các quan lại lạm dụng quyền hành trên mọi mặt, mà không có dáng vẻ trung thực tự tại như những quan lại xưa kia. Những khiếm khuyết và những tệ nạn trong hệ thống vẫn tiếp tục hoành hành. Sự kiểm soát từ cấp cao nhằm ngăn chặn tệ nạn này bùng phát bằng hình phạt nếu cần thiết, rốt cuộc đã bị vô hiệu hóa và tê liệt. Đây không phải là một cuộc khủng hoảng hay một vấn nạn mà chính quyền Pháp cần quan tâm, cũng không phải là cái cớ để chúng ta can thiệp. Và như thế, vị Khâm sứ của chúng ta tại Huế hài lòng với việc giám sát Đức vua và triều đình, mà không cần hợp tác với họ; và ngay cả các Công sứ Pháp của chúng ta tại sáu hoặc tám tỉnh lớn vốn có nhiệm vụ đảm bảo việc duy trì trật tự mà không cần hợp tác với quan lại cũng không có nhiệm vụ kiểm soát các hành vi của quan lại. Chúng ta chỉ giới hạn ở mức bảo hộ cơ bản và đã không quan tâm đến việc cai trị cũng như tác động của nó lên sự phát triển kinh tế.
Có thể cho đến lúc đó chúng ta chưa thể làm tốt hơn và tiến xa hơn. Nhưng dù sao đi nữa thì nhất định không thể để tình hình này kéo dài hơn nữa. Cho dù là vì lợi ích của nước Pháp hay là vì lợi ích của người dân An Nam, thì đều cần phải áp dụng những phương thức quản lý và những chính sách kinh tế của nền văn minh châu Âu vào đất nước này. Nhiệm vụ này đặc biệt thú vị, tất cả cần phải được thực hiện từ đầu và chúng ta có thời gian, chúng ta có thể phát triển một kế hoạch toàn diện và tiến hành nó một cách nhịp nhàng, có phương pháp, không hấp tấp, không phô trương.
Trích “Xứ Đông Dương”
Dịch bởi: Lưu Đình Tuân, Hiệu Constant, Lê Đình Chi, Hoàng Long, Vũ Thúy
Nguyễn Thừa Hỷ hiệu đính
Xem thêm:

Bà Thatcher ‘giục ông Bush giúp thuyền nhân Việt’ ở Hong Kong

01.01.2017
Cựu Thủ tướng Anh Margaret Thatcher.
Cựu Thủ tướng Anh Margaret Thatcher.
Thủ tướng Anh Margaret Thatcher từng kêu gọi Tổng thống Mỹ George H. W. Bush giúp giải quyết vấn đề thuyền nhân Việt ở Hong Kong hồi cuối những năm 80 vì thuộc địa của Anh này "không thể đương đầu với làn sóng người tị nạn từ Việt Nam".
Tờ Bưu Điện Hoa Nam Buổi sáng hôm 31/12 dẫn tài liệu giải mật được Cơ quan Lưu trữ Quốc gia ở London mới công bố còn cho thấy "sự lưỡng lự của cựu Thủ tướng Anh trong việc tái định cư người tị nạn Việt tại nước bà".
Theo SCMP, tài liệu cho thấy sự cân nhắc của chính phủ Anh trong khoảng thời gian từ năm 1988 tới 1989 về cách thức xử lý làn sóng người tị nạn ở Hong Kong, điểm đến của người xin tị nạn Việt.
Theo tờ nhật báo của Hong Kong, hơn 230 nghìn thuyền nhân Việt đã tới thành phố này từ những năm 70 tới năm 90, và bị giữ tại các trại để chờ được đi tái định cư ở nước khác hoặc bị trả về Việt Nam.
Bưu Điện Hoa Nam Buổi sáng dẫn tài liệu cho biết rằng bà Thatcher khi ấy không muốn nhận những người Việt vì cho rằng họ sẽ là một “gánh nặng” đối với nước Anh.
Trong bức thư gửi cho ông Bush trước một hội nghị quốc tế ở Geneva, Thụy Sĩ, năm 1989, bà Thatcher bày tỏ “nghi ngờ” về “khả năng chính quyền Hong Kong có thể đối phó” với làn sóng người tị nạn từ Việt Nam.
Thủ tướng Anh khi ấy cũng chuẩn bị sẵn sàng “trả về nước những ai bị bác quy chế tị nạn”, và kêu gọi ông Bush “thấu hiểu và ủng hộ”.
Theo SCMP, tài liệu công bố không bao gồm bức thư hồi đáp của ông Bush. Rốt cuộc, Hoa Kỳ và các nước khác cam kết giúp tái định cư cho hơn 57 nghìn người, trong khi Anh chỉ chấp nhận 1 nghìn người.
Trẻ em Việt Nam trong một trại tị nạn ở Hong Kong.
Trẻ em Việt Nam trong một trại tị nạn ở Hong Kong.
Việc tái định cư tiếp tục cho tới hết những năm 90 và trại tị nạn cuối cùng ở Hong Kong đóng cửa năm 2000, theo Bưu Điện Hoa Nam Buổi sáng.
Hong Kong từng là thuộc địa của Anh, và được trao trả cho Trung Quốc năm 1997.
Theo UPI, trong số khoảng 1,3 triệu người Việt sinh sống ở Mỹ hiện nay, khoảng 70% số đó tới Hoa Kỳ xin tị nạn từ sau năm 1975 tới năm 2000.
Những năm gần đây, nhiều người Việt tự nhận là “thuyền nhân” đã tới Australia, một trong các quốc gia có đông người gốc Việt sinh sống, để xin tị nạn, và nhiều người trong số đó đã “bị trả về nước”.
Trước tình trạng đó, Bộ trưởng Công an Việt Nam Tô Lâm và Bộ trưởng Nhập cư và Bảo vệ biên giới Australia Peter Dutton hôm 12/12 đã ký một văn bản ghi nhớ ở Canberra về việc Úc trao trả người xin tị nạn Việt.
AAP đưa tin, thỏa thuận chính thức này “sẽ tạo cơ chế chính thức cho việc đưa trở về những công dân Việt Nam không có quyền nhập cảnh hoặc ở lại Australia bất hợp pháp, bao gồm những người bị chặn lại trên biển”.

Thủ Tướng Phúc khều Ba Dũng


Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chọc giận cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng? Đúng như thế.

Có chỉ đích danh không? Không, ông Phúc không chỉ đích danh, nhưng hầu hết người đọc đều thấy là đúng là ông Phúc chọc quê Ba Dũng.

Bao giờ? Ngày 28/12/2016, ông Phúc tuyên bố vài câu, và được hiểu là tấn công nhóm lợi ích Nguyễn Tấn Dũng.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc bên hành lang phòng họp Diên Hồng, Nhà Quốc hội. Ảnh: Tuổi Trẻ

Chuyên gì? Chuyện dự án xây nhà cao tầng ở nội đô Hà Nội. Trong đó có một dự án xây nhà cao 50 tầng lầu được chấp thuận từ Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và Ủy Ban Nhân Dân Hà Nội chỉ vài ngày trước khi ông Dũng bàn giao chức Thủ Tướng cho Nguyễn Xuân Phúc.

Ông Nguyễn Xuân Phúc nhậm chức Thủ Tướng ngày 7/4/2016.

Báo Tiền Phong ngày 31 tháng 12 năm 2016 ghi ngay đoạn văn đầu:

“Phát biểu tại Hội nghị trực tuyến Chính phủ với các địa phương ngày 29/12, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chỉ rõ, việc cho xây dày đặc chung cư cao tầng trong các quận nội đô đã dẫn dến tình trạng tắc đường nghiêm trọng hiện nay tại Hà Nội, và đây là nguyên nhân không thể chối bỏ.”

Báo Dân Việt trong bản tin “Mảnh đất trống nào cũng xây cao ốc, Hà Nội sẽ ra sao?” hôm 31/12/2016 nói minh bạch hơn, quy lỗi cho các đại gia:

“Các đại gia say sưa thâu tóm các mảnh đất vàng rồi ồ ạt xây nhà, bất chấp các quy định của Chính phủ, không theo bất kỳ quy hoạch nào, không đếm xỉa đến các định hướng ưu tiên phát triển các Đề án công cộng, cây xanh, bãi đỗ xe cũng như tuân thủ các đòi hỏi khác về hạ tầng xã hội và kỹ thuật đô thị.

Đó là câu hỏi đầy cảm thán của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc tại Hội nghị giao lưu trực tuyến với các địa phương ngày 29.12. Đây có lẽ là lần đầu tiên trong nhiệm kỳ này, người đứng đầu Chính phủ đề cập trực diện đến một trong những vấn đề nhức nhối nhất của Thủ đô Hà Nội (HN): Xây tràn lan, dày đặc các cao ốc ngay giữa nội đô.”

Có nghĩa là, mọi chuyện kẹt xe ở Hà Nội và Sài Gòn là do Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng cho xây các tòa nhà hàng chục tầng lầu.

Báo Đời Sống và Pháp Luật mới có bản tin là “Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Hà Nội tuân thủ quy hoạch nhà cao tầng” trong đó ghi nhận:

“...Ngày 29/12, phát biểu kết luận tại Hội nghị trực tuyến giữa Chính phủ và các địa phương, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhấn mạnh cần chấn chỉnh công tác quản lý đô thị.

Thủ tướng yêu cầu các địa phương, đặc biệt là TP HCM và Hà Nội cần nghiêm túc rà soát lại nhằm chấn chỉnh kịp thời trước khi quá muộn. "Tôi nói các đồng chí phải hiểu rằng không vì lợi ích trước mắt, lợi ích nhóm mà quên lợi ích cộng đồng" - Thủ tướng nói.

Trước đó vào tháng 4/2016, UBND TP Hà Nội đã ban hành Quyết định về việc Ban hành Quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc công trình cao tầng trong khu vực nội đô lịch sử Hà Nội. Theo đó, khu vực này được kiểm soát chặt chẽ về quy hoạch kiến trúc, lần đầu tiên các chỉ tiêu liên quan đến không gian đô thị, quy định về chiều cao chi tiết được ban hành.

Quy chế xác định chiều cao tối đa các công trình cao tầng ở các vị trí, khu vực khá chi tiết. Nhiều tuyến phố trong khu vực phố cổ không được phép xây dựng nhà cao tầng như: Hàng Đậu, Phan Đình Phùng, một số đoạn trên đường Hoàng Hoa Thám, Đội Cấn, Lò Đúc, Pháo Đài Láng...

Các tuyến phố khu vực khác hoặc nút giao thông được phép xây dựng các tòa cao ốc dao động từ 13 tầng đến 27 tầng. Một số điểm hạn chế chiều cao như đầu đường Lê Duẩn tối đa 9 tầng, phố Hào Nam, Thái Hà, Chùa Bộc tối đa 13 tầng...”

Có nghĩa là, ông Phúc chỉ trích Ba Dũng là lợi ích nhóm?

Bản tin BBC ghi nhận, trích:

“...Phiên họp ngày 29/12 lần đầu được phát trực tuyến và được đông đảo người theo dõi.

Ông Phúc đã đề cập một số vấn đề được cho là 'nhạy cảm' với thái độ thẳng thắn.

Một trong những chủ đề đó là quy hoạch đô thị ở thủ đô Hà Nội, với việc cấp phép xây dựng hàng loạt chung cư cao tầng, dẫn đến quá tải trầm trọng về giao thông, cấp thoát nước và môi trường.

Đặc biệt, ông thủ tướng nhắc một công trình cao ốc dự tính xây ở nơi từng là Trung tâm Triển lãm Giảng Võ.

Ông Nguyễn Xuân Phúc đặt câu hỏi: "Ai cho phép xây cao ốc 50 tầng ở Giảng Võ?"

Ông nhấn mạnh: "Không có một lý thuyết quy hoạch nào mà tại Trung tâm Giảng Võ lại xây dựng chung cư 50 tầng, với mấy nghìn căn hộ, làm sao chịu được?"

"Tôi đề nghị Hà Nội ngày 15 báo cáo lên đây nhưng đến nay chưa báo cáo. Mảnh đất nào trống chúng ta cấp cao tầng hết thì Hà Nội sẽ ra sao, nguy cơ này là do chúng ta gây ra."

Hồi tháng 4/2016, Ủy ban Nhân dân TP Hà Nội ra Quyết định 11/2016/QĐ-UBND về Quy hoạch công trình cao tầng nội đô, theo đó khu vực Triển lãm Giảng Võ (số 148 Giảng Võ, quận Ba Đình, Hà Nội) là điểm nhấn đô thị, nơi được phép xây dựng 50 tầng duy nhất trong khu nội đô lịch sử.

Được biết công trình này là Tổ hợp Văn phòng, Trung tâm thương mại, Officetel và căn hộ chung cư cao cấp với diện tích 6,8ha, đã động thổ hôm 20/10/2016.

Chủ đầu tư được thông báo là Tập đoàn Vingroup cùng Tập đoàn T&T và Tập đoàn Tân Hoàng Minh.”

Thế rồi, truyền thông Việt Nam sau một thời gian đặt câu hỏi của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trong tựa đề các bài tường thuật đã nhanh chóng gỡ xuống.

Thí dụ, báo điện tử VietnamNet thay vì tựa đề: "Chung cư 50 tầng ở trung tâm, mỗi nhà giàu 2 ô tô đi đường nào?" đã đặt tựa: "Chung cư cao tầng ở trung tâm, mỗi nhà giàu 2 ô tô đi đường nào?"

Báo Người Lao động thay tựa: "Thủ tướng: Quy hoạch nào cho xây chung cư 50 tầng ở Giảng Võ?" thành "Chung cư cao tầng dày đặc gây ách tắc giao thông"...

Tuy nhiên nội dung các bài tường thuật vẫn phản ánh ý của ông Phúc trăn trở về việc các "khu chung cư cao 40-50 tầng dày đặc, từ đó gây ách tắc giao thông, quá tải trầm trọng giao thông, cấp thoát nước, môi trường. Trong khi từng chúng ta, con em, gia đình đang cần các công viên, công trình công cộng và góp phần thu hút du khách, phát triển du lịch bền vững".

Có phaỉ ông Phúc tử tế hơn ông Dũng, người từng nói khi xuống ngôi là sẽ cố gắng làm người tử tế?

Khi nào bạn kẹt xe ngoaì phố, hãy nhớ đấy nhé... có lợi ích nhóm làm kẹt xe đấy.

Cô Tư Sài Gòn

(Việt Báo)