Chủ Nhật, 26 tháng 2, 2017

Đại án OceanBank: Một bị can đút túi hơn 200 tỷ đồng

TP - Trong thời gian được cử làm thành viên HĐQT, kiêm Tổng giám đốc OceanBank, Nguyễn Xuân Sơn, nguyên Phó tổng giám đốc PVN, hưởng lợi 246 tỷ đồng. Số tiền này bị can đã sử dụng chi tiêu cá nhân, gửi tiết kiệm, mua nhà cho bố mẹ.
Cơ quan CSĐT - Bộ Công an khám xét nhà ông Nguyễn Xuân Sơn (ảnh nhỏ) tại khu đô thị Ciputra, quận Tây Hồ, Hà Nội.Cơ quan CSĐT - Bộ Công an khám xét nhà ông Nguyễn Xuân Sơn (ảnh nhỏ) tại khu đô thị Ciputra, quận Tây Hồ, Hà Nội.
Ads by AdAsia
Đút túi hàng chục tỷ đồng từ thu phí trái quy định
Theo cáo trạng của Viện KSND Tối cao, cuối năm 2008, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam ký thoả thuận trở thành cổ đông và đối tác chiến lược với Ngân hàng TMCP Đại Dương (OceanBank) và giới thiệu Nguyễn Xân Sơn - Tổng giám đốc Cty Tài chính Dầu khí Việt Nam (PVFC) làm thành viên HĐQT kiêm Tổng giám đốc OceanBank. Đến đầu năm 2009, khi bàn bạc với Hà Văn Thắm về việc huy động vốn, Nguyễn Xuân Sơn đề nghị ngân hàng chi thêm khoản “chăm sóc khách hàng” ngoài lãi suất tiền gửi quy định trong hợp đồng và giao cho Sơn toàn quyền quyết định việc chi phí.
Để có nguồn tiền chi “chăm sóc khách hàng” theo yêu cầu của Sơn, Hà Văn Thắm đã sử dụng Cty Cổ phần BSC Việt Nam  (do Thắm thành lập) để “ép” khách hàng vay vốn tại OceanBank ký hợp động làm dịch vụ thẩm định giá bất động sản, dịch vụ đấu giá tài sản, đại lý bảo hiểm, mua bán kỳ hạn bất động sản, môi giới, đại diện thương mại, vay vốn ngân hàng… nhằm thu phí ngoài lãi suất hợp đồng tín dụng. Theo kết quả điều tra, từ 22/5/2009 tới 31/1/2013, Cty BSC thu phí được tổng cộng gần 69 tỷ đồng thông qua việc ký 721 hợp đồng dịch khống và 80 hợp đồng mua bán tài sản có kỳ hạn. Sau đó, Cty BSC chuyển nhiều lần cho Nguyễn Xuân Sơn tổng cộng 69,3 tỷ đồng để Sơn “chăm sóc khách hàng”.
Gửi tiết kiệm gần triệu đô
Đến tháng 1/2011, khi về làm Phó Tổng giám đốc PVN, Sơn nhiều lần nhờ Nguyễn Xuân Thắng, Phó giám đốc Khối khách hàng lớn và đối tác chiến lược (em con chú ruột của Sơn) đến ngân hàng để lấy tiền. Theo lời khai của Sơn, từ đầu năm 2009 tới 6/2014, tổng số tiền mà Thắng nhận từ OceanBank và Cty BSC để đưa cho Sơn khoảng 200 tỷ đồng. Trong số tiền này, Sơn chuyển cho Ninh Văn Quỳnh, kế toán trưởng PVN, khoảng 120 tỷ đồng, nhưng Quỳnh không thừa nhận đã nhận tiền từ Sơn và Thắng. 80 tỷ đồng còn lại, Sơn nhờ Nguyễn Thị Minh Phương, Giám đốc OceanBank - Chi nhánh Thăng Long giữ hộ (gửi tiết kiệm) khoảng 31 tỷ đồng và 900.000 USD, khi nào Sơn cần thì Phương rút ra và đưa lại cho Sơn. Đến đầu năm 2015, Phương đưa lại hết cho Sơn và Sơn sử dụng vào mục đích cá nhân.
Giải trình về việc đã chi tiêu số tiền trên, Sơn khai: Nhờ Thắng giữ hộ 15 tỷ đồng, sau đó dùng 10,5 tỷ đồng để mua nhà cho bố mẹ Sơn; lấy 10 tỷ đồng khác để đi mua đất cho một vị nguyên Phó tổng giám đốc PVN nhưng người này không nhận nên Sơn bán lại cho người khác và đưa tiền cho Nguyễn Thị Minh Phương quản lý hộ.
Vẫn theo lời khai của Sơn, năm 2013, bị can này dự định mua nhà tại một dự án ở TPHCM nên yêu cầu Hà Văn Thắm chuyển 20 tỷ đồng cho một người bạn của Sơn để người này mua 900.000 USD, chuyển cho Sơn mua nhà. Nhưng sau khi nhận tiền, Sơn đã chi tiêu cá nhân hết…
Theo cáo trạng, sau đó, bị can Nguyễn Xuân Sơn thay đổi lời khai, phủ nhận hoàn toàn các nội dung đã khai nhận với cơ quan công an trước đó. Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy, các lời khai và chứng cứ thu giữ được về hành vi phạm tội của Nguyễn Xuân Sơn là khách quan, phù hợp với lời khai của Sơn trước đó. Điển hình, Nguyễn Thị Minh Phương khai: Từ tháng 3/2010 tới 1/2015, Sơn nhiều lần đưa tiền, nhờ Phương gửi tiết kiệm, tổng cộng hơn 40 tỷ đồng và 440.000 USD (gồm cả tiền nhận từ Cty BSC và tiền Sơn đưa không rõ nguồn ở đâu). Lời khai của Nguyễn Việt Dũng, trợ lý của Nguyễn Xuân Sơn, cho thấy Sơn đã nhờ tài khoản cá nhân của Dũng để nhận 102.000 USD và hơn 6,6 tỷ đồng. Theo chỉ đạo của Sơn, Dũng chuyển khoảng 900 triệu đồng cho 3 giám đốc chi nhánh, còn lại đưa hết cho Sơn…
Căn cứ kết quả điều tra, cơ quan tố tụng xác định, bị can Nguyễn Xuân Sơn phải liên đới chịu trách nhiệm về số tiền OceanBank cho vượt trần hơn 544 tỷ đồng, trong đó phải chịu trách nhiệm về số tiền hưởng lợi 246 tỷ đồng.

Trương Nhân Tuấn - Đâu là nguyên nhân cuộc chiến Việt-Trung tháng hai năm 1979 ?

Như thông lệ, vào trung tuần tháng hai hàng năm, báo chí VN thường đăng tải những bài viết về chiến tranh Việt-Trung 17 tháng hai năm 1979.

Trên BBC có đăng lại bài viết của tác giả người Hung, Tiến sĩ Balazs Szalontai, tựa đề “Đàm phán biên giới Việt Trung 1974-1978”. Tác giả cho biết nguyên nhân chính đưa đến xung đột giữa VN và TQ là vấn đề “tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa” : 

“tài liệu từ văn khố Hungary đã hé lộ cho thấy nguyên nhân chính gây ra cuộc xung đột Việt Trung là một vấn đề mà Liên Bang Xô Viết chẳng có dính dáng gì tới: đó là cuộc tranh chấp về chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa.”


Không thể nào quên.Dữ kiện này (nếu có thật) thì là chuyện ngạc nhiên. Vì nó trái ngược với tất cả các tài liệu (đã được giải mã) của các bên, từ phía TQ, VN hay Hoa Kỳ… 

TQ đã mở đầu cuộc chiến khi xua quân tràn qua  biên giới ngày 17 tháng hai năm 1979. Quần đảo Hoàng Sa đã bị TQ chiếm từ tháng giêng 1974. Dĩ nhiên TQ không thể vịn vào “tranh chấp Hoàng Sa” để biện hộ cho hành vi xâm lược. Bởi vì  quần đảo này đã yên ổn trong tay họ.

Về phía Việt Nam (VNDCCH), nếu xét sâu xa ở phương diện lịch sử thành hình biên giới Việt-Trung, vấn đề Hoàng Sa cũng là chuyện “đã rồi”, ít ra trong khoản thời gian từ năm 1958 cho đến đầu thập niên 70 của thế kỷ trước. Ngay cả lúc sau này VNDCCH thay đổi lập trường, thì kết luận “tranh chấp Hoàng Sa” là nguyên nhân đưa đến cuộc chiến cũng là điều khó thuyết phục. 

Các học giả quốc tế, không ngoại lệ, đều cho rằng nguyên nhân chủ yếu đưa đến cuộc chiến “Đông Dương lần thứ ba” là yếu tố Liên Xô mà Tiến sĩ Balazs Szalontai đã loại trừ.

Cuộc chiến nhìn từ phía Trung Quốc.

Tác giả King C. Chen trong “China’s War Against Vietnam” kể lại buổi họp ngày 16 tháng hai 1979 tại Bắc Kinh do Hoa Quốc Phong chủ trì, 17 tiếng đồng hồ trước khi lệnh nổ súng ban ra. Đặng Tiểu Bình có bài thuyết trình cho các lãnh đạo CSTQ về bản chất và mục tiêu cuộc chiến.
Theo họ Đặng bản chất cuộc chiến là “hoàn kích tự vệ”. Cuộc chiến được “giới hạn” về thời gian, không gian cũng như về qui mô. Mục tiêu là dạy cho Việt Nam một “bài học”. 

Gọi “hoàn kích tự vệ chiến”, tức đánh trả để tự vệ, bởi vì VN đã “trục xuất kiều dân người Hoa” cũng như bộ đội VN nhiều lần mở các cuộc tấn công vào lãnh thổ TQ, chiếm đất của TQ cũng như gây nhiều thiệt hại về nhân mạng.

Mục tiêu “cho VN một bài học”, bởi vì “VN cực kỳ ngạo mạn”, xâm lược Campuchia, khoa trương thế lực là “cường quốc thứ ba trên thế giới”. 
Học giả TQ, Xiaoming Zhang, trong “China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment”, dẫn Nayan Chanda của Tạp Chí Kinh Tế Viễn Đông, rằng cấp lãnh đạo Trung Quốc, trong một cuộc họp Bộ Chính Trị hàng tuần vào đầu tháng Bảy năm 1978, đã ra quyết định “dạy cho Việt Nam bài học” vì thái độ “vô ơn và ngạo mạn”.

Theo tác giả này, trong 20 năm Trung Quốc đã viện trợ cho Hà Nội trên 20 tỷ đô la Mỹ, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Nhưng sau 1975 VN buộc người Hoa hồi cư đồng thời gia tăng chiến sự trên biên giới. Rõ ràng đây là thái độ phủi ơn và hống hách. Ngoài ra còn có vấn đề can thiệp quân sự vào Campuchia.

Tác giả cũng dẫn ý kiến của Châu Đức Lễ (Zhou Deli), tham mưu trưởng quân khu Quảng Châu, trong một cuộc họp được tổ chức trong bộ tổng tham mưu QGPND tháng 9 năm 1978. Nội dung nói về “làm sao đối phó với nạn xâm chiếm lãnh thổ của quân đội Việt Nam”.

Ý kiến của Châu Đức Lễ (về việc VN chiếm đất của TQ) được củng cố nếu ta xét tài liệu “mật” của CIA Mỹ về cuộc chiến 1979 đã được bạch hóa. Theo tài liệu này thì VN chiếm khoảng 60km² đất của TQ.

Nhưng ý nghĩa của cuộc “phản công tự vệ chiến” (vì VN chiếm 60km² đất của TQ) là không có căn cứ. Theo nghiên cứu của cá nhân, chuyện VN chiếm 60km² đất của TQ là chuyện “bịa đặt” để TQ “lấy cớ” đánh VN.

Cuộc chiến đã xảy ra đúng như họ Đặng đã nói. Thời gian xung đột chỉ trong một tháng (quân TQ hoàn tất việc rút quân vào ngày 17 tháng 3 năm 1979). Địa bàn chiến tranh chỉ ở các tỉnh biên giới. Về “qui mô”, TQ cũng giới hạn không sử dụng hải quân và không quân.

Không có một dòng nào để ta có thể nghĩ rằng cuộc chiến biên giới 1979 có mối liên quan với vấn đề tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa.

Cuộc chiến nhìn từ học giả nước ngoài.

Theo cái nhìn của cá nhân tôi, thuyết phục hơn hết là “nguyên nhân chiến lược”, dẫn từ tham luận “Security Issues in Southeast Asia: The Third Indochina War” của học giả Carlyle Thayer, đọc tại Hội Nghị “An Ninh và Kiểm Soát Vũ Khí tại Bắc Thái Bình Dương”, Đại học Quốc gia Úc (Canberra) tháng tám 1987.

Theo học giả Carlyle Thayer, TQ (và cả khối ASEAN) lo ngại sự thành hình của “liên minh chiến lược Đông dương” mà liên minh này thân Liên Xô. Quan niệm của VN “Đông dương là một đơn vị chiến lược duy nhứt, một chiến trường duy nhứt”. Quan niệm này đã thể hiện qua hai cuộc “chiến tranh Đông dương”, lần thứ nhứt giữa Bắc Việt với “thực dân Pháp” và lần hai giữa Bắc Việt với “đế quốc Mỹ”. Cuộc chiến 1979 được gọi là “cuộc chiến Đông dương lần thứ ba”, VN gọi TQ là “bọn bành trướng bá quyền”.

Nếu khảo sát sơ lược các diễn tiến lịch sử đã qua, ta thấy lý thuyết của học giả Carlyle Thayer được chứng minh. Điều này cũng “ăn khớp” với cái nhìn từ TQ.

Khúc quanh làm sụp đổ quan hệ giữa VN và TQ bắt đầu từ năm 1976, khi LX hứa hẹn viện trợ cho VN 3 tỉ đô la. Số tiền này bằng số tiền mà Mỹ hứa sẽ viện trợ, (nếu VN tôn trọng hiệp định Paris). VN trở thành “vệ tinh” của Liên Xô từ lúc này.

Từ năm 1965 đến 1975, LX đã trở thành nhà cung cấp chính yếu các nhu cầu kinh tế và quốc phòng để VN tiếp tục chiến tranh với Mỹ. Mỹ và TQ đã có những thỏa thuận quan trọng từ năm 1972. Năm 1973 Mỹ rút quân khỏi VN. Tất cả những nỗ lực của TQ giúp cho VN, trong 20 năm (từ 1950 đến 1970) là 20 tỉ đô la, nhằm mục đích phòng thủ về phía nam. Sau khi đạt thỏa thuận với Mỹ, TQ hạn chế mọi viện trợ kinh tế và quốc phòng cho VN.

Nhưng sau đó Liên Xô ảnh hưởng lên VN, đồng thời với Afghanistan cũng như Mông cổ và Bắc Hàn. Rốt cục TQ bị bao vây chặt chẽ từ bốn hướng bởi một kẻ thù chiến lược khác, nguy hiểm hơn cả Mỹ, vì LX có tham vọng về lãnh thổ còn Hoa Kỳ thì không.

Cũng năm 1976, những nhân vật thân TQ, như Hoàng Văn Hoan, bị loại khỏi Bộ Chính trị và mất hết các chức vụ trong đảng.

Tháng bảy năm 1977 VN ký kết “Hiệp Ước Hữu Nghị và Hợp Tác” với Lào có nội dung hỗ tương “tăng cường năng lực phòng thủ… chống lại mọi ý đồ và các hành vi phá hoại của đế quốc chủ nghĩa và các lược lượng phản động ngoại lai…”.

“Đông dương là đơn vị chiến lược duy nhứt” theo quan điểm của VN đang được thành hình. Vấn đề là “đơn vị chiến lược” này thân LX.

Phản ứng của TQ qua Ngoại trưởng Hoàng Hoa là lên án “chủ nghĩa xét lại Xô Viết” đồng thời công khai cảnh cáo trước VN về hậu quả của một cuộc xâm lấn Campuchia.

Tiếp tục theo đuổi sách lược (bài Hoa thân LX) của mình, VN làm đơn xin gia nhập khối COMECON, là khối tương trợ về kinh tế do LX đứng đầu.

Hội nghị đảng tháng hai năm 1978, Hà Nội quyết định phát động chiến dịch “đánh tư sản mại bản” ở miền Nam. Có đến 30.000 doanh nghiệp tư nhân ở miền Nam bị “quốc hữu hóa” mà đa số do người Hoa làm chủ. Chiến dịch thanh lọc mà TQ gọi là “nạn kiều” cũng được phát động cùng thời kỳ. Hàng trăm ngàn người Việt gốc Hoa, phần lớn đã sinh ra và lớn lên ở VN, không biết tiếng Hoa, cũng bị “trục xuất”. Việc này tạo thành một cuộc “vượt biên” vĩ đại, bán chính thức, vì do chính công an VN đứng ra tổ chức. Hàng triệu người VN dùng vàng mua “vé” (trung bình 7 lượng vàng một đầu người) để lên những chiếc tàu đánh cá mong manh với hy vọng thoát thân. Trong khi hàng chục ngàn người Hoa sống ở miền Bắc thì theo đường bộ “vượt biên” trở về lục địa.

Đến thời điểm này nội bộ đảng TQ đã lên kế hoạch “cho VN một bài học”.

Tháng sáu 1978, TQ cho đóng cửa hàng loạt tòa lãnh sự ở VN. Cùng lúc VN chính thức gia nhập khối COMECON. Tháng 11 hai bên VN và LX ký kết hiệp ước an ninh hỗ tương.

Để đối phó, TQ thiết lập những quan hệ chặt chẽ với Mỹ, Nhật cũng như các nước ASEAN. Hiệp ước “Hòa bình và hữu nghị” giữa TQ và Nhật cũng được ký kết (tháng tám 1978).

Hai bên Nhật và TQ (lục địa cộng sản) không hề tuyên bố chiến tranh trong Thế chiến Thứ II. Không có chiến tranh sao lại ký hiệp định “hòa bình” ? Lợi ích chiến lược có đủ lý lẽ để giải thích. Qua cuộc chiến với VN, TQ lấy được niềm tin với khối tư bản Mỹ, Nhật… Cũng từ lúc này TQ “cất cánh” thành công, qua các kế hoạch “tứ hiện đại”, nhờ vào tư bản và kỹ thuật của Mỹ, Nhật.

Một tháng sau khi ký hiệp ước hỗ tương với LX, ngày 25 tháng chạp 1978 VN xua quân tiến vào lãnh thổ Campuchia.

Tức nước vỡ bờ, cuộc chiến 17 tháng hai 1979 là điều tất yếu phải đến.

Vấn đề là ta không hề thấy yếu tố Hoàng Sa “là nguyên nhân chính đưa đến cuộc chiến” trong bất kỳ lập luận nào của các học giả nước ngoài.

Yếu tố hoàng Sa trong quá trình đàm phán về biên giới.

Lịch sử thành hình đường biên giới hai nước Việt Trung có nhiều uẩn khúc. “Đường biên giới lịch sử” giữa VN và TQ đã thành hình từ thời xa xưa “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Nếu chỉ tính đường biên giới “qui ước”, tức đường biên giới được tập quán quốc tế nhìn nhận, thì biên giới hai nước đã được phân định theo các công ước Pháp-Thanh 1887 và 1895. Vấn đề là các công ước này đã nhượng nhiều ngàn cây số vuông đất của VN cho TQ.

Theo tài liệu “Sự thật về quan hệ Việt Trung”, NXB Sự Thật, tháng 10-1979, đường hướng giải quyết tranh chấp về biên giới giữa hai nước Việt-Trung của VN được ghi lại khá cụ thể. Tháng 11 năm 1957, lãnh đạo CSVN đề nghị với Trung Quốc : “hai bên giữ nguyên trạng 2 đường biên giới do lịch sử để lại. Các tranh chấp về biên giới, nếu có, sẽ giải quyết bằng thuơng lượng, theo luật pháp quốc tế”.

Cũng theo tài liệu này, tháng 4 năm 1958, phía Trung Quốc trả lời đồng ý đề nghị của Việt Nam.

“Hai đường biên giới do lịch sử để lại” ở đây, dĩ nhiên, một là đường biên giới trên bộ, hai là đường biên giới trên biển (trong Vịnh bắc Việt - Golfe du Tonkin), do Pháp và nhà Thanh phân định năm 1887 (và năm 1895).

Vấn đề Hoàng Sa (và Trường sa) được hai bên đề cập nhân Tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 Trung Quốc về hải phận và chủ quyền lãnh thổ của Cộng Hòa nhân dân Trung Quốc. Nội dung Tuyên bố gồm 4 điểm, tóm lược như sau:

Điểm 1 tuyên bố hải phận 12 hải lý áp dụng trên toàn lãnh thổ, kể cả các quần đảo Tây sa và Nam sa (tức Hoàng sa và Trường sa).

Điểm 2 tuyên bố hệ thống đường cơ bản trên đất liền và các quần đảo ngoài khơi.

Điểm 3 tuyên bố về vùng cấm không phận và hải phận đối với phi cơ và tàu bè quân sự nước ngoài.

Điểm 4 khẳng định nội dung các điều 2 và 3 cũng được áp dụng cho các quần đảo HS và TS…

Ngày 14 tháng 9 năm 1958 Thủ Tướng Phạm văn Đồng ký công hàm tuyên bố VN “ghi nhận” và “tán thành” Tuyên bố đơn phương của TQ.

Công hàm  cam kết : “Chính phủ nước Việt-nam dân chủ cộng hoà tôn trọng quyết định ấy và chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung-quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung-hoa trên mặt biển.”

Tức là, đến thời điểm này VN nhìn nhận chủ quyền của TQ tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Lập trường của Liên Xô (và khối XHCN) về chủ quyền các quần đảo HS và TS, thể hiện qua Hội nghị San Francisco 1951. Theo đó LX và các nước thuộc khối XHCN ủng hộ lập trường của TQ. Cả hai bên TQ, Mao và Tưởng, đều không tham dự hội nghị. LX là quốc gia “đại diện quyền lợi” cho TQ tại Hội nghị này.

Trong khi đó đại diện của VNCH tại Hội nghị là ông Trần Văn Hữu, nhân dịp này đã lên tiếng khẳng định chủ quyền của VN tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Quan điểm của LX không thay đổi, cho đến tháng giêng năm 1974. LX lên án TQ sử dụng vũ lực xâm chiếm Hoàng Sa của VNCH. Quân lực Hoa Kỳ không can thiệp vì đã bị các điều ước của Hiệp định Paris 1973 ràng buộc. Trong khi miền Bắc (VNDCCH) thì “im lặng” còn MTGPMN từ khước ký vào bản lên án TQ xâm lăng HS của VNCH.

Cũng theo tài liệu dẫn trên, quan điểm của VN về biên giới trong Vịnh Bắc Việt, cho đến tháng 12 năm 1973 :

“Công ước Pháp-Thanh 1887, điều 2, đã nói rõ kinh tuyến Paris 105°53’ kinh tuyến đông (nghĩa là kinh tuyến 108°3’13’’ kinh tuyến đông Greenwich) là đường biên giới giữa hai nước trong vịnh Bắc bộ. Phía VN sẵn sàng bàn với phía TQ để xác định về cửa vịnh Bắc bộ, từ đó đi đến xác định chính thức đường biên giới trong vịnh.”

Yêu sách của phía VN như vậy là hợp lý vì phù hợp với lịch sử và pháp lý.

Nhưng quan niệm của TQ, năm 1974, sau khi xâm lăng quần đảo Hoàng Sa của VN : “trong vịnh Bắc bộ xưa nay không hề có đường biên giới, nay hai nước phải bàn bạc phân chia.”

Tức là phía TQ, trong chừng mực, đã “bội ước”. 

Hai công ước Pháp-Thanh về biên giới 1887 và 1895 đã nhượng cho TQ các vùng đất quan trọng về kinh tế và chiến lược. Gồm:

Bán đảo Bạch Long, tức khu vực phía đông-bắc Móng Cái, diện tích khoảng 300 cây số vuông. Khu vực này hiện nay vẫn còn có một nhóm “dân tộc Kinh” sinh sống (gọi là Kinh đảo, ngày xưa gồm ba đảo Sơn Tâm, Hà Vĩ và Vu Đầu).

Đất thuộc hai tổng Kiến Duyên và Bát Tràng thuộc tỉnh Hải Ninh.

Tổng Tụ long, thuộc Vị xuyên (Hà giang hiện nay) diện tích khoảng 700km², là một vùng đất phong phú về quặng mỏ.

Trên lý thuyết VN có thể “đặt lại” hiệu lực các công ước 1887-1895, vì nhà nước bảo hộ Pháp đã “bội ước” (Dol), lấy đất của VN nhượng cho TQ để được lợi ích về kinh tế.

VN đã chấp nhận những thiệt thòi này trên đất liền vì (hy vọng) phía TQ cũng làm tương tự ở biên giới trong Vịnh Bắc Việt.

Nhưng sau khi TQ chiếm được Hoàng Sa, lập tức TQ “phủi sạch” mọi hứa hẹn trước kia (về hai đường biên giới) với VN.

Dĩ nhiên, thái độ của VN, sau 1975, là “lật ngược” lại những cam kết của mình trước kia đối với TQ, như vấn đề Hoàng Sa.

Vì vậy, kết luận của Tiến sĩ Balazs Szalontai, cho rằng “tranh chấp chủ quyền quần đảo Hoàng Sa” là “nguyên nhân chính” đưa đến xung đột Việt-Trung năm 1979 là không thuyết phục.

Có thể vấn đề “bội ước” của TQ là “giọt nước làm tràn ly”. Nhưng lý do chính vẫn là TQ từ khuớc giúp miền Bắc “giải phóng miền Nam” (từ năm 1965), mà điều này mới là mấu chốt khiến VN “trở áo” với TQ để “đi” với LX. 

Rốt cục VN chiến thắng trong cuộc chiến 1979. Quân TQ rút khỏi VN mà  quân VN vẫn còn ở Campuchia cho đến mười năm sau.

Còn VN thì “học” được TQ một bài học để đời. Hội nghị Thành đô 1991 nói gì đến nay vẫn chưa ai biết. Kết quả thấy được là sau đó VN chấp nhận tất cả những yêu sách của TQ về biên giới.

VN mất đất trên biên giới (do các công ước Pháp-Thanh). VN ký kết Hiệp định biên giới trên đất liền tháng 12 năm 1999 với TQ, chấp nhận “mất thêm” một số vùng lãnh thổ khác (do cuộc chiến biên giới 1979). Tháng 12 năm 2000 VN ký kết với TQ Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ, đường biên giới mới được xác định. VN chịu lép vế không tính hiệu lực các đảo Bạch Long vĩ và Cồn cỏ đồng thời chấp nhận thiệt hại hàng chục ngàn cây số vuông biển (so với biên giới là đường kinh tuyến 108°3’13’’).

Riêng quần đảo Hoàng Sa thì không có gì để nói. TQ không chấp nhận bất kỳ đàm phán nào về quần đảo này. Ngoài ra TQ còn quân sự hóa, biến các đảo “chim ỉa” (nói theo ông Hồ khi nhượng quần đảo này cho TQ) trở thành những địa điểm trọng yếu về kinh tế và chiến lược.

Trương Nhân Tuấn

(Blog Trương Nhân Tuấn)

Người Việt Nam TK 19 qua lăng kính một sử gia Nhật

Posted on  by The Observer

Print Friendly
Tác giả: Nguyễn Mạnh Sơn
Pháp Việt giao binh ký – Một tài liệu quý cho sự tu sử nước nhà
Pháp Việt giao binh ký là cuốn sách chép cuộc chiến tranh của nước Việt Nam với nước Pháp từ những năm đầu triều Nguyễn đến những năm 1880. Nội dung cuốn sách chủ yếu xoay quanh mấy vấn đề như địa lý, phong tục, sản vật, diên cách lịch sử Việt Nam, mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cùng cách thức mà Trung Quốc và Việt Nam đối phó với Pháp.
Tác giả của Pháp Việt giao binh ký là Sone Toshitora (曾根 俊虎/ Tăng Căn Tuấn Hổ) (1847-1910), một võ sĩ thời Bakumatsu (幕末/ Mạc mạt), Đại úy Hải quân Nhật Bản, được coi là nhân vật quan trọng nhất của thuyết Liên Á trong lịch sử cận đại Nhật Bản và là một trong những người sáng lập Hưng Á hội. Sone Toshitora từng là học trò của Watanabe Hiromoto (1848-1901), Fukuzawa Yukichi (1835-1901) và Yoshida Kensuke (1838-1893).
Pháp Việt giao binh ký chép bằng chữ Hán, xuất bản lần đầu tại Tokyo (Đông Kinh), Nhật Bản, năm Minh Trị thứ mười chín, tức là năm 1886. Sau này ảnh ấn của cuốn sách được in trong Cận đại Trung Quốc sử liệu tùng san, tập 62 近代中國史料叢刊第六十二輯, xuất bản năm 1966, Văn Hải xuất bản xã, tại Đài Bắc.
Về cuốn sách Pháp Việt giao binh ký, Nguyễn Thuật hiệu Hà Đình trong Vãng tân nhật ký [1] cũng có ghi lại đôi dòng: “Ngày 6 tháng 12 năm 1883, Tăng Căn Khiếu Vân [2] 曾根 嘯雲 đến thăm, tôi và ông ấy ngồi ở đình Vọng Sơn, trò chuyện hồi lâu. Khiếu Vân có lấy ra hai cuốn sách cho tôi xem, một cuốn là Nam phiêu ký sự 南漂記事 trong sách đề năm Khoan Chính thứ sáu (năm thứ 59 niên hiệu Càn Long triều Thanh, năm thứ 56 niên hiệu Cảnh Hưng triều Lê nước ta, tức là năm 1794)… Một cuốn nữa là Pháp Việt giao binh kỷ lược 法越交兵紀略 ghi chép rất nhiều câu chuyện, bài viết được đăng trên nhật báo, quá nửa là sai lầm, không chính xác. Nên ông ấy có nhờ tôi nhuận chính lại, tôi có rút bỏ khoảng hơn mười bài, giản lược bớt và sửa chữa…”[3]
Trong lời tựa đầu sách, Sone Toshitora cũng có trình bày đại ý việc biên soạn Pháp Việt giao binh ký vì ông thấy các cường quốc Âu châu đang xâm chiếm các nước Đông phương, trong khi Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam là những nước đồng văn đồng chủng, cùng chung giáo hóa, thì lấy làm lo nên đã đứng ra lập một hội, với mục đích bênh vực các nước Đông phương, gọi là “Hưng Á hội”. Vì vậy xuyên suốt cuốn sách này, Sone Toshitora chỉ ra hết những biện pháp bóc lột của Pháp, rồi một mực kêu gọi, hô hào các chí sĩ châu Á ra tay cứu giúp một nước đang trong cảnh nguy vong là nước Việt Nam.
Thời ấy, Sone Toshitora cũng giao lưu với nhiều anh tài Trung Hoa, như Vương Thao, một nhà báo trứ danh ở Hương Cảng. Vương Thao cũng là một tay quen biết rộng nhiều, hay thư từ qua lại với một số vị đại thần nước ta như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Tư Giản. Vì thế, khi Nguyễn Thuật đi sứ sang Tàu, nhờ Vương Thao giới thiệu, có được đọc qua bản cảo Pháp Việt giao binh ký của Sone Toshitora và có để ít nhiều lời bình trong sách.
Do vậy khi cuốn sách được đem in, ngoài Sone Toshitora đứng tên ra, thì trên bìa sách người ta còn thấy có đề tên Nguyễn Thuật, Hà Đình, người Việt Nam đứng hiệu duyệt kế sau Vương Thao, người Tàu đứng san toản. Và trong sách thỉnh thoảng cũng có những lời phê vắn tắt của ông Nguyễn Thuật, nhưng rất ít.
Cuốn sách bao gồm 5 quyển, với rất nhiều lời đề tựa của Taruhito (熾仁); Yokoi Tadanao (横井 忠直); Akamatsu Toriyoshi (赤松 則良); Kawada Oukou (川田 甕江); Kurimoto Joun (栗本 鋤雲); Vương Thao (王韜); Ngũ Diên Phương (伍廷芳), Sone Toshitora… Nội dung cuốn sách chủ yếu là tổng hợp thông tin về tình hình chính trị Pháp – Việt trên nhật báo Việt Nam, Hồng Kong, Trung Hoa. Tuy nhiên trong quyển đầu, Sone Toshitora cũng dành một vài trang để viết về tính cách, phong tục, ăn ở… của người Việt. Mặc dù có nhiều chi tiết ngày nay không còn chính xác nữa nhưng đó cũng được coi như tấm gương phản chiếu để người Việt nhìn lại chính mình của hơn một trăm năm về trước.
Người Việt Nam thế kỷ XIX qua mắt của Sone Toshitora[4]
 Thể chất
“Thân thể gầy còm, tinh thần suy yếu, tuy có khi sấn sướt làm mình ra mạnh mà rồi cũng trở nên biếng nhác tức thì. Có lẽ tại họ không có lòng kiên nhẫn. Bởi vậy, những việc khó nhọc lắm và phải làm lâu lai thì họ ắt không kham”.
“Người An Nam đa phần nhỏ thó, cái mặt trẹt, cái tai phẳng, cái mũi thấp, con ngươi đen, hơi giống người Tàu. Da hơi đen, có lẽ là bởi những người đó làm ruộng và dang nắng. Chứ còn như những người sang và các cô gái trẻ thì da cũng có trắng. Tuy vậy, đại để An Nam không có người đẹp. Người nào da trắng thì trắng như sáp, còn đen thì như đồng đen. Cũng có người da hơi vàng, giống người Mông Cổ. Con trai con gái hồi còn trẻ tuy cũng có vẻ đậm đà dễ coi, nhưng sau khi có vợ có chồng rồi thì tuồng mặt đổi hẳn, không còn được như trước nữa. Cũng có nhiều kẻ tốt tóc, nhưng ngoài hai mươi tuổi thì tóc đã trở nên xác xơ, không láng ngời nữa. Họ thường búi tóc. Kẻ nào ưa làm dáng thì hay búi bằng chang, con trai con gái đều như vậy. Nhiều người mặt mày xấu xí, cách đi đứng quê kệch, lại từ đỉnh đầu đến gót chân, thường lộ ra những nét cong queo nghiêng lệch. Đó là tại hồi còn nhỏ, người mẹ hoặc người vú hay để đứa trẻ chàng hảng hai chân ngồi lên trên hai chân của mình mà cho ăn cho bú, nên lâu ngày rồi nó như thế”.
Nguyễn Thuật có phê rằng: “Dân cày và đàn bà nhà quê mới có nhiều người tuồng mặt xấu xí; chứ còn các hàng quan thân văn sĩ hầu hết người nào cũng có nghi dung tuấn tú, không phải xấu xí cả đâu”.
Y phục, trang sức
“Về y phục, đồ mặc thường của họ quá chật. Nhưng, đàn ông mặc như thế thì được tiện và nhanh nhẹn. Đàn bà, áo dài hơn đàn ông, may bịt bùng hết, không có chỗ hở da. Đó là vì ngừa thói dâm của phụ nữ mà khiến họ có sự bất tiện. Lễ phục thì hai tay áo dài và rộng”.
“Đàn ông, đầu đội khăn; đàn bà dùng cái nón lớn để che nắng che mưa. Dân thường thì dùng một miếng vải nhỏ che trên đầu; khi đi ra đồng, đội nón lá; còn miếng vải nhỏ, vắt trên vai để thay khăn tay. Đó là điều không giống với nước nào hết.”
“Họ lại có dùng cái dải trắng và đỏ đeo hai cái đãy ngang lưng, đó cũng là điều khác với các nước nữa. Trong đãy chứa trầu cau, trái trám, để ăn. Khi ra ngoài, đeo hai cái đãy trên vai. Trong nhà thì trưng bày những đồ như cái hộp bằng đồng hoặc bằng bạc để đựng trầu cau cùng vật ăn được”.
Nguyễn Thuật phê rằng: “Cái tục mang đãy nay không còn có nữa”.
“Họ thường ăn trầu cau hoặc trái trám, cho nên răng đều vàng ra hay đen đi. Đàn bà họ lại ưa dùng đồ trang sức bằng ngà voi”.
Nguyễn Thuật nói rằng: “Ăn trầu thì có; còn trái trám thì là thức ăn phụ, coi như đồ gia vị, chớ không dùng để ăn thường”.
Đi đứng
“Đàn ông đàn bà đi ra ngoài đều đi chân không. Duy có ông già cùng người đàn bà làm tốt thì có mang giày, mà giày thì ngắn, khi mang vào, thường để hai gót ra ngoài, cho nên dáng đi cũng xấu xí. Từ ngày có người Pháp đến ở trong nước, người An Nam nào có thông hôn với người Pháp thì có đi giày đen và tất trắng”.
Nhà cửa
“Nhà làm nhỏ hay lớn, cao hay thấp là tùy người giàu nghèo sang hèn khác nhau. Đại khái nhà đều thấp, tối tăm và xấu xí; cột dùng gỗ, nghèo thì dùng tre. Trên nhà, lợp bằng lá dừa nước, hoặc tranh, hoặc rạ; cũng có lợp ngói, nhưng phải là giàu mới lợp ngói được. Trong nhà chia làm mấy ngăn, ngăn bằng ván hoặc phên. Bốn phía tường dùng ván, có khi dùng lá dừa, nên hay bị mất trộm lắm. Đồ vặt trong nhà không có mấy, vài ba bộ ván hoặc giường để mà ngồi nằm, lại với tủ hoặc rương để đựng quần áo. Nhà giàu sang thì có cái kỷ nhỏ, bày đồ trà để đãi khách”.
Vệ sinh, ăn uống
“Người An Nam đến sự ở nhà không sạch sẽ, mặc áo quần dơ bẩn thì thôi, khắp thế giới không nước nào bằng! Cũng có kẻ mặc đồ hàng lụa, áo kép, áo lót, nhưng vẫn như là lam lũ. Thật ra thì kiểu y phục của họ không thích hợp với mùa lạnh mùa nóng, còn nhà thì không thích hợp với sự ăn ở. Họ hay ăn mặn quá hoặc cay quá, chua quá, cũng có thể tại đó mà thể chất trở nên yếu đuối, tâm thần trở nên thất thường. Lại thêm khí hậu không tốt, làm cho người suy nhược. Người An Nam ít sống lâu, trẻ con phần nhiều không nuôi được. Họ đẻ con rất dễ dàng, nhưng vì ăn ở bẩn thỉu, không biết vệ sinh cho nên chúng hay chết non. Từ ngày biết phép chủng đậu, trẻ con cũng có bớt chết”.
Tính cách
“Người An Nam không thiếu người có tài có trí. Họ có tánh giỏi nhớ, tuy chưa thể vào sâu trong mọi sự, chứ được cái học mau biết. Người Pháp đến An Nam mới mười năm nay mà người An Nam học tiếng Pháp cũng đã đủ dùng, nói chuyện thường không đến nỗi ngập ngợ; vả lại viết bằng chữ Pháp cũng được nữa.
Họ không phải là không dũng khí. Nếu cai trị có phương pháp, lấy pháp luật mà chỉnh tề, lấy đạo nghĩa mà cố kết thì sự dũng cảm của người An Nam được việc lắm, sẽ không có người nước nào ở Đông phương này bằng họ được. Nay vì sự cai trị lỗi phương, trên dưới không noi đường chính, cho nên lòng người tàn bạo và khinh bạc thật hết chỗ nói. Coi như giữa chỗ pháp trường, người An Nam đến coi tuy thấy sự thảm khốc trước mắt mà họ vẫn đứng hút thuốc tự nhiên, không hề có vẻ thương xót. Như thế là vô tình quá lắm, chứ có phải dũng gì đâu!
Người An Nam ưa giữ theo tục cũ những mấy trăm năm về trước. Sự ấy đã thành ra thói quen, không sao chữa được. Nhưng có một điều đáng quý là biết kính người trên và giữ pháp luật. Từ khi có giao thiệp với người Pháp, họ dần dần bỏ mất cái tính vâng lời ngoan ngoãn ấy đi mà lại cho mình như thế là khai minh tiến bộ thì thật đáng tiếc. Tuy vậy, những người Pháp ở An Nam lại còn ngang ngạnh quá người bản xứ nữa, người An Nam có thế nào cũng còn là hơn họ. Đối với người Pháp, người An Nam tuy có vâng lời cũng chỉ bề ngoài thôi, chứ thật ra thì ai nấy đều “dạ trước mặt, trỏ cặc sau lưng” vậy”.
“Coi bề ngoài thì người An Nam trong các xứ đều không khác nhau lắm. Nhưng xét kỹ mới thấy tài trí và dũng lực của người Nam Kỳ thật thua xa người Bắc Kỳ. Người Nam Kỳ gặp cảnh nghèo không chịu nổi, mà đến lúc giàu cũng không biết giữ cho bền. Người nước họ hạng trung bình, không giàu mà cũng không nghèo, thì cai trị không khó mấy. Đến những kẻ siêng ăn nhác làm, ham chơi bời quá chẳng may sa sẩy, hễ mất chỗ sinh nhai là hóa ra ăn trộm. Lại có kẻ nhờ thời may làm nên phú quý thì hay khoe khoang kiêu ngạo, làm phách với người dưới mà lờn mặt với người trên. Cho nên người ta hay nói: “Người An Nam không biết xử cảnh nghèo mà cũng không biết xử cảnh giàu”. Tóm lại, những sự ấy đều bởi tại giáo hóa chưa đến nơi.”
Nguyễn Thuật phê rằng: “Nghèo khổ mà đi ăn trộm, giàu sang mà đổ ra kiêu sa, đó chẳng qua trăm ngàn người mới có một hai người như vậy. Không phải hết thảy người An Nam đều thế cả. Cái đó cũng giống như các nước”.
“Người bản xứ hay đổi nghề. Có thể bảo họ là “vô hằng tâm [5]”. Người nào thấy một việc gì trúng ý mình thì nôn nả làm liền, lúc đầu dù có nhọc nhằn mấy cũng ráng chịu. Đến vài tháng hoặc vài năm, đã thấy lộ vẻ biếng trễ rồi, rốt cuộc công việc phải bỏ dở. Khi bỏ rồi, thấy không có nghề làm, lại muốn trở lại nghề cũ. Cái thói ấy, người Pháp muốn trừ đi cho họ, nhưng vì mới đến ở, chưa có thể được.
Phụ nữ An Nam có tài gánh gồng buôn bán ở các nơi phố chợ. Còn chồng họ thì ở nhà uống rượu nói chuyện với bạn bè hàng xóm, ngồi không mà hưởng của vợ làm ra. Cái thói ấy cho đến ngày nay thỉnh thoảng vẫn còn. Trẻ con mất dạy. Chúng nó cũng có học, nhưng chỉ học qua loa những sách dễ dễ của người Tàu. Người lớn không biết cách chỉ bảo trẻ con. Chúng có lỗi cũng không hay răn phạt. Bởi vậy trẻ con đều hung tánh, đến lúc lớn cha mẹ đối với chúng cũng chịu phép.
Con gái 14 tuổi trở lên, đã cho đi chợ bán hàng, ra chỗ đông người, rộn tai choáng mắt, sinh ra lắm điều tệ, thế mà cha mẹ cũng chẳng cấm ngăn, để muốn làm gì thì làm…
Người An Nam không có ý nỗ lực tấn tới, mà lại còn không biết biện biệt sự lợi hay hại, nên hay hư. Việc buôn bán trong nước, họ đều phó cho người Tàu, không ngó ngàng đến. Người Tàu ở đó hay rủ nhau hùn vốn lập công ty để buôn. Buôn có lời, họ lại chia ra và lập thêm công ty khác. Còn người bản xứ thì sẵn tánh khinh bạc, hay nghi ngờ nhau, chống báng nhau, không lập công ty được; cho nên mối lợi trong nước đành phải để cho người Tàu tóm thâu. Người trong nước ưa lấy sự trá ngụy để lừa dối nhau, không ai tin ai được cả. Rất đỗi bà con quen thuộc cũng không có thể tin cậy nhau được. Đây thử cử ra một sổ vay nợ để làm chứng: Người cho vay đặt ra quy điều để ngừa giữ rất nghiêm nhặt, nhưng thường không khỏi bị gạt. Vì họ cho vay ăn lời nặng quá, có khi số lời gấp đôi số vốn, thì dễ gì mà trả được? Té ra sự gạt nợ cũng tại chủ cho vay tự mình chuốc lấy”.
Dù nội dung sách vẫn còn nhiều điểm cần phải bàn bạc lại, đánh giá lại nhưng Pháp Việt giao binh ký vẫn là một trong những tập tư liệu hữu ích, nhiều hình ảnh thú vị cho các nhà nghiên cứu về quan hệ Pháp Việt và phong tục, văn hóa, địa lý… nước ta vào cuối thế kỷ XIX.
TP.HCM, 10/8/2016
————–
Chú thích:
[1] Về tác phẩm Vãng Tân nhật ký của Nguyễn Thuật, nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân đã có bài viết Lược tả về sách Vãng sứ Thiên Tân nhật ký của Phạm Thận Duật và Vãng Tân nhật ký của Nguyễn Thuật, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (71). 2008, trang 110-117.
[2] Khiếu Vân là bút hiệu của Sone Toshitora.
[3] 阮述《往津日記》Nguyễn  Thuật  Vãng  Tân  nhật  ký, Trần  Kinh  Hòa  biên  chú,  Hương Cảng Trung Văn đại học – Trung Quốc văn hóa nghiên cứu sử liệu tùng tan (tập 1), Trung Văn Đại học xuất bản xã, Hương Cảng, 1980, trang 59.
[4] Pháp Việt giao binh ký được học giả Phan Khôi trích dịch (chúng tôi có sửa vài chữ khi trích dẫn) đăng trên tạp chí Sông Hương, Huế, năm 1937.
[5] Vô hằng tâm: Không có lòng bền bỉ, kiên trì.
Nguồn: toasang-ugvf.org
- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2017/02/26/nguoi-viet-nam-tk-19-qua-lang-kinh-mot-su-gia-nhat/#sthash.HR62qo6N.dpuf

Nguyễn Bình – Vị tướng huyền thoại: Những trận đánh du kích kiểu mẫu

07:15 24/02/2017

Chớp nhoáng hạ đồn Bần Yên Nhân, thần tốc chiếm đồn Đông Triều là những trận đánh du kích kiểu mẫu thể hiện tài năng quân sự của Nguyễn Bình.