Thứ Ba, 2 tháng 5, 2017

Câu chuyện của một nữ y tá Việt Cộng trong chiến tranh; Những phụ nữ Mỹ trên chiến trường Việt Nam

Posted on  by The Observer

Print Friendly
Nguồn: Tong Thi Xuyen, “A Frontline Nurse for the Vietcong”, The New York Times, 21/03/2017.
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Đối với nhiều người Việt Nam, ký ức về những gì đã diễn ra vẫn rất sinh động. Gần đây, tôi đã đến thăm bà Nguyen Thi Do, một cựu y tá của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, hay còn được gọi là Việt Cộng. Sau 10 năm phục vụ trong chiến tranh, bà chuyển về Qui Nhơn, một thành phố ven biển ở quê bà, nằm trên bờ biển miền Trung Việt Nam. Tại đây, bà làm quản lý của một công ty đánh bắt cá cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1989. Bà mời tôi vào phòng khách với nội thất được trang trí bằng gỗ sang trọng, tay rót hai cốc trà xanh, và bắt đầu chia sẻ câu chuyện của mình.
Khi tôi 17 tuổi, những người tuyển quân từ Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã đến làng tôi, làng Lộ Diêu, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Người dân xung quanh gọi Lộ Diêu, vùng đất nằm cách 130 dặm về phía nam thành phố Đà Nẵng, là “cái nôi của cách mạng,” bởi vì tất cả mọi người ở đây đều tận tụy cống hiến cho sự nghiệp cách mạng.
Những người trong độ tuổi của tôi đều được ghi danh, và như vậy, vào ngày 01/01/1966, tôi trở thành một phần của cách mạng. Khi ấy, tôi còn trẻ và ngây thơ đến nỗi điều duy nhất tôi có thể làm là nấu ăn cho các sĩ quan và bộ đội bị thương ở khu trại trong khu rừng gần đó. Cái nồi quá nặng so với sức của tôi, và mỗi khi nấu cơm, tôi phải dùng cái xẻng to để đảo. Nhưng tôi vẫn làm tốt phần việc của mình, vậy nên cấp trên quyết định tôi đã sẵn sàng để trở thành một y tá.
Sau vài tháng huấn luyện, tôi được phân về làm việc tại Trung Đoàn 22. Mặc dù công việc chính là cứu thương, tôi cũng thu hoạch lúa, và đôi khi còn tham gia các trận đánh, chiến đấu giống như một người lính thực sự. Dù anh là ai, nhiệm vụ của anh là phải cống hiến cho cách mạng bằng mọi cách.
Trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968, các y tá khác và tôi đã ra tiền tuyến cùng với những người lính, cứu chữa những chiến sĩ và dân thường bị thương ngay giữa trận chiến. Tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh đồng đội của mình, một y sĩ 22 tuổi quê Yên Bái, đã chết ngay trước mắt tôi khi một quả bom Mỹ nổ tung trong hầm của chúng tôi. Anh chỉ cách tôi một bước chân khi quả bom xé xác anh, còn mái nhà thì đổ ụp xuống cả hai chúng tôi. Một mảnh vỏ bom găm vào đầu tôi, và tôi đã ngất đi. Có lẽ ai đó đã tìm thấy và đưa tôi đến bệnh viện dã chiến để điều trị. Vết thương trên đầu tôi đã lành, nhưng vết thương trong lòng tôi sẽ chẳng bao giờ hồi phục mỗi khi tôi nghĩ về bạn mình.
Khi đã khỏe lại, tôi trở về làm y tá, lần này là trong một bệnh viện ở hậu phương, vậy nên tôi đã không phải chiến đấu. Không bao giờ có đủ thức ăn cho đơn vị chúng tôi và các thương binh. Có những ngày chúng tôi chẳng có gì để ăn ngoài một nắm gạo rang khô. Mọi người cố gắng uống nhiều nước nhất có thể để lấp đầy dạ dày của mình, dù biết rằng người Mỹ đã thả các hóa chất độc hại như chất độc da cam làm nhiễm độc các dòng suối và nước ngầm của chúng tôi. Bởi lựa chọn thay thế là chết vì khát.
Sau Tết Mậu Thân, tình hình trở nên rất căng thẳng. Có thời điểm, 1.000 quân tiếp viện gia nhập đơn vị của chúng tôi, nhưng chỉ sau hai ngày chiến đấu, toàn bộ họ đã bị giết sạch.
Khi đơn vị cạn kiệt thuốc men, tôi đã được phái đi một mình trên hành trình suốt một ngày băng rừng để nhận đồ tiếp tế. Những đồng đội ở nhà kho đã cho tôi thuốc, kèm theo là hai củ khoai mì để ăn tối. Trên đường về, mưa tuôn xối xả. Khi trời tối dần, tôi nghe thấy tiếng động lớn và đoán biết rằng nó đến từ một con thú lớn. Tôi sợ chết cứng và đã đứng bất động cho đến lúc nó rời đi. Khi ấy, tôi mới dám đi tiếp, tim vẫn đập thình thịch.
Khoảng nửa đêm, khi tôi đang nằm trên võng thì một anh lính xuất hiện. Nhưng khi chúng tôi nói chuyện, tôi bắt đầu thấy lo. Tôi đang ở một mình giữa một nơi xa lạ, với một người đàn ông không quen biết, kẻ đã xa vợ suốt một thời gian dài. Tôi cao giọng và bắt đầu nói chuyện với anh ta về các giá trị đạo đức. “Chị là đàn bà,” anh nói, “nhưng cay nghiệt quá.” Bình minh đến, một nhóm bộ đội hành quân qua và tôi cảm thấy nhẹ nhõm khi có thể theo họ trở về đơn vị. Thật khó tin nổi là tôi đã từng mạnh mẽ như thế.
Ngày hôm sau, khi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình, tôi được kết nạp vào Đảng Cộng sản.
Năm 1972, tôi được chọn vào một chương trình đào tạo bác sĩ kéo dài ba năm. Tôi và các bạn đã đi bộ suốt ba tháng rưỡi theo đường mòn Hồ Chí Minh để tới Hà Nội.
Sợ nhất là mấy con vắt. Chúng có rất nhiều khắp dọc đường. Chúng tôi không cảm nhận được chúng bám trên người mà chỉ biết khi chúng đã hút no máu và rơi khỏi người chúng tôi.
Nói ra thì thật xấu hổ, nhưng chúng tôi thậm chí còn chẳng có đủ quần áo để mặc. Mỗi người chỉ có hai bộ quần áo tối màu. Chúng tôi băng rừng suốt cả ngày, tới đêm mới dừng lại để tắm ở sông suối. Sau đó, chúng tôi thay quần áo, cố gắng vắt chúng thật khô để có thể dùng làm chăn giữ ấm. Nhiệt độ cơ thể của chúng tôi cũng giúp quần áo khô nhanh hơn.
Những chiến sĩ nữ thậm chí còn không có đồ lót, chứ đừng nói là băng vệ sinh. Chúng tôi luôn xấu hổ mỗi khi tới tháng. Bất cứ khi nào đến được bờ suối, chúng tôi sẽ chờ cho những người khác băng qua trước, còn mình thì dừng lại và rửa sạch hết mức có thể.
Chúng tôi đã bị đói suốt cả hành trình. Đôi khi chúng tôi phải ăn lá hoặc rễ cây. Con đường đã đưa chúng tôi qua các trạm thông tin, nơi chúng tôi hy vọng có thể tìm thấy thực phẩm cho chặng đường kế tiếp. Nhưng thường thì chẳng có gì ngoài khoai mì. Có một lần, ở tỉnh Quảng Bình, chúng tôi được cho thêm một gói đồ khô to bằng hai ngón tay, thay vì chỉ có khoai mì. Tôi vẫn nhớ lúc đó mình đã nghĩ “Cuộc sống vẫn còn đẹp lắm.”
Cuối cùng chúng tôi cũng đến được miền Bắc “hòa bình,” nơi chúng tôi được chào đón như những anh chị em miền Nam, và được mọi người đối xử rất tử tế. Chúng tôi được ăn tôm, thịt và rau mỗi ngày.
Khi tôi đang học năm thứ ba thì miền Nam được giải phóng. Tôi hạnh phúc lắm và chỉ muốn về nhà ngay. Chồng chưa cưới của tôi đã viết thư nói rằng tôi không cần phải cố  gắng kết thúc khóa học – mà có thể về ngay. Và lần này, tôi đã có thể đi xe đò thay vì đi bộ. Nhà trường đã cho tôi 50.000 đồng, bằng khoảng 2,5 USD hiện tại, nhưng vào lúc đó, số tiền ấy lớn đến nỗi tôi không biết phải làm gì với nó.
Mãi tới sau khi giải phóng, khi nhìn thấy những người Mỹ ăn mừng trên truyền hình, tôi mới biết rằng người dân Mỹ đã phản đối chiến tranh. Giờ đây, ngày càng có nhiều cựu chiến binh Mỹ quay lại Việt Nam. Hai nước cũng đã bình thường hóa quan hệ ngoại giao từ lâu. Nhiều người Mỹ hối tiếc về những gì họ đã làm, và tôi cũng chẳng có mong muốn trả thù. Với tôi, hòa giải dân tộc là điều quan trọng nhất.
Tuy nhiên, có một vấn đề khiến tôi lo lắng. Thế hệ trẻ ở Việt Nam bây giờ không quan tâm đến lịch sử, hay những gì mà cha mẹ và ông bà họ đã trải qua. Anh con trai 39 tuổi của tôi là một sĩ quan trong quân đội, nhưng cậu ấy chưa bao giờ thắc mắc về câu chuyện của tôi, hoặc tỏ ra quan tâm đến nó. Tôi lo rằng khi bạn bè, đồng đội và cả tôi chết đi, lịch sử và câu chuyện của chúng tôi cũng sẽ bị lãng quên.
Tong Thi Xuyen là một nhà văn ở Lebanon, bang New Hamshire, người lớn lên ở Hà Nội.
Hình: Bà Nguyen Thi Do. Nguồn: Christian Berg – The New York Times
- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2017/05/02/cau-chuyen-cua-mot-y-ta-viet-cong-trong-chien-tranh/#sthash.K4mcTJhq.dpuf

Những phụ nữ Mỹ trên chiến trường Việt Nam

Print Friendly
Nguồn: Heather Stur, “Combat Nurses and Donut Dollies”, The New York Times, 31/01/2017.
Biên dịch: Trương Thái Tiểu Long | Biên tập: Lê Hồng Hiệp
Joyce Denke chỉ mới 19 tuổi khi vị hôn phu của cô, hạ sĩ David Ives, nhận lệnh đến Việt Nam. Khi đó là đầu năm 1967 và anh chỉ còn sáu tháng tại ngũ. Cặp đôi trẻ sống tại thành phố Temple, phía nam thành phố Waco, bang Texas, họ quyết định không để cuộc chiến làm ảnh hưởng đến niềm phấn khởi về một tương lai ở bên nhau và đã bắt đầu lên kế hoạch kết hôn khi anh trở về vào tháng 11.
Chỉ bảy tuần sau khi đến Việt Nam, Ives đã tử trận vào ngày 23/04/1967 ở tuổi 20. Denke vẫn còn giữ bức thư cuối anh viết cho cô vào ngày 19/04/1967. Anh kết thư bằng dòng chữ “mối tình sâu đậm nhất của anh, Dave.”
Cái chết của Ives đã thôi thúc Denke gia nhập Hội Chữ thập Đỏ Mỹ và đến Việt Nam. Cô muốn làm một điều gì đó để vinh danh cống hiến của anh, và vào năm 1970, cô được cử đi trong biên chế Hội Chữ thập Đỏ với tư cách thành viên của chương trình Các Hoạt động Giải trí Hải ngoại (Supplemental Recreational Activities Overseas – S.R.A.O.). Đó là một trong nhiều cách mà phụ nữ Mỹ tham gia vào cuộc chiến.
Câu chuyện về Chiến tranh Việt Nam là câu chuyện về các trận đánh: lính tiền phong, các cuộc phục kích, bẫy mìn, chứng kiến đồng đội tử trận, thoát chết trong gang tấc. Chúng ta thường quan niệm rằng “chiến trận” là việc của những người đàn ông – chúng ta nghĩ đến hình ảnh họ sử dụng vũ khí, lái máy bay và chấp nhận thương vong. Nhưng chúng ta lại quên mất rằng những người phụ nữ cũng đóng vai trò trung tâm trong câu chuyện đó.
Các nữ y tá thuộc biên chế của Quân đoàn Nữ (Women’s Army Corps) và các nữ nhân viên dân sự làm việc cho Hội Chữ thập Đỏ thường chứng kiến những hệ quả của chiến tranh. Với các y tá và ở mức độ nào đó là với những người thuộc chương trình S.R.A.O. như cô Denke, ứng phó với chiến sự là công việc của họ. Y tá chữa vết thương thể xác, còn những người thuộc Hội Chữ thập Đỏ giúp xốc dậy tinh thần của binh sĩ, tức là chữa lành những vết thương tinh thần.
Phụ nữ không bắt buộc phải tham gia quân dịch trong thời Chiến tranh Việt Nam, nhưng đã có hàng ngàn người tình nguyện. Với một số người, cuộc chiến này tạo cơ hội để họ được đi xa và tạm hoãn các nghĩa vụ kết hôn và sinh con, vốn là vai trò mà xã hội vẫn gắn cho các cô gái trẻ trong những năm 1960. Một số nữ quân nhân tình nguyện đến Việt Nam vì họ muốn tham gia vào cuộc chiến hoặc để chính mình trải nghiệm những gì thật sự diễn ra trên chiến trường. Những người còn lại ghi danh vào quân đội để vào đại học và hưởng các phúc lợi việc làm sau khi các tuyển trạch viên hứa rằng họ sẽ không được đưa đến Việt Nam.
Hội Chữ thập Đỏ đã đưa nhiều nhóm phụ nữ ra nước ngoài để hỗ trợ các binh sĩ từ Thế Chiến II. Họ phục vụ cà phê và bánh donut nên họ được gọi bằng biệt danh “Búp bê Donut” (Donut Dollies). Vào năm 1965, lo sợ việc cuộc chiến kéo dài sẽ ảnh hưởng đến tinh thần binh sĩ, các quan chức của Bộ Quốc phòng đã yêu cầu Hội Chữ thập Đỏ thành lập chương trình S.R.A.O. tại Việt Nam. Từ năm 1965 đến năm 1972, gần 630 phụ nữ đã đến Việt Nam làm việc theo chương trình này. Một số người làm việc cho các trung tâm giải trí tại các căn cứ lớn nơi những người lính có thể chơi bida, nghe nhạc, đọc sách, chơi trò chơi, viết thư hay ngồi nói chuyện. Những người còn lại thì di chuyển, thường bằng trực thăng, tới các căn cứ hỗ trợ hỏa lực (pháo binh) ở những vùng hẻo lánh, nơi binh sĩ chờ chuẩn bị tham gia những trận đánh tiếp theo. Những cô gái S.R.A.O. đi theo cặp và mang theo các bộ trò chơi, đồ ăn nhẹ, sô đa và nước ép.
Trong khoá đào tạo trước khi khởi hành, những hướng dẫn viên đã nói với các cô rằng họ phải mang đến “cảm giác gia đình” cho các binh sĩ, để gợi họ nhớ về vợ, người yêu, mẹ hay chị em gái. Họ phải đóng vai trò như những cô bạn hàng xóm – dễ thương, thân thiện và biết quan tâm. Không phải ham muốn thể xác. Những chiếc đầm xanh nhạt vốn được thiết kế để thể hiện vẻ ngây thơ đầy sức sống nhưng lại không thực tế trong cái nóng, bụi và bùn ở Việt Nam. Hầu hết những cô gái chỉ vừa đôi mươi, chỉ lớn hơn đôi chút so với độ tuổi trung bình nhập ngũ của các binh sĩ.
Luôn tươi cười là một yêu cầu bắt buộc trong công việc của những cô Búp bê Donut, vì thế họ phải gạt những lo sợ và buồn phiền của chính mình về cuộc chiến sang một bên. Nhiều người trở nên thân thiết hơn với các binh sĩ. Emily Strange là một Búp bê Donut đóng tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long cùng với Sư đoàn Bộ binh số 9 và Lực lượng Lưu động trên Sông, cô đã kết bạn với một anh lính tên Michael Stacy. Cô thân với Stacy vì họ đều chơi guitar và thường cùng nhau gảy những điệu dân ca. Nhưng sau khi anh tử nạn trong một vụ rơi trực thăng vào tháng 03/1969, cô nhận ra rằng mình phải giữ khoảng cách với các anh lính. Vì thế cô không còn cố  gắng nhớ tên hay kết bạn cùng họ nữa.
Thật lâu sau cuộc chiến, cô tin rằng chắc chắn có những người cô quen biết có tên xuất hiện trên Bức tường Việt Nam. (Bức tường tưởng niệm lính Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam đặt tại thủ đô Washington D.C. – ND). Thế nhưng cô không thể đối mặt với nỗi đau khi biết chính xác họ là ai. Công việc của Strange là động viên tinh thần những người lính cô đơn, đầy lo sợ và cô phải thể hiện sự lạc quan và hoàn thành công việc mặc cho chính cô cũng cảm thấy sợ hãi và lạc lõng. Cô gọi việc làm đó là mang gương mặt “Eleanor Rigby” được cô đặt trong chiếc lọ cạnh cửa. (Trích từ lời bài hát Eleanor Rigby của nhóm The Beatles: “Waits at the window, wearing the face – That she keeps in a jar by the door” – ND)
Trong số những nữ quân nhân phục vụ trong cuộc chiến, hầu hết trong số họ với con số khoảng 5.000 người đã phục vụ trong Quân đoàn Nữ Quân y. Họ đã có mặt tại Việt Nam từ những ngày đầu tiên: Như sử gia Kara Dixon Vuic đã chỉ ra, Quân đội bắt đầu điều động y tá vào Sài Gòn vào năm 1956 để đào tạo các y tá người Việt. Khi cuộc chiến càng leo thang, họ phải làm gấp đôi công việc khi phải vừa chữa trị những vết thương thể xác cho các binh sĩ và đôi khi là thường dân Việt Nam, vừa phải xoa dịu tinh thần cho những người bị thương và sắp chết. Vài y tá ôm lấy những người lính khi họ kêu gào gọi tên cha mẹ và trút hơi thở cuối cùng. Họ làm công việc thông báo cho người lính biết là anh ta sẽ không đi lại hay nhìn được nữa. Theo nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, các y tá đưa những người lính bị thương qua ngưỡng cửa từ chiến tranh sang một cuộc sống đã thay  đổi hoàn toàn, hoặc cái chết.
Vài y tá sử dụng nước hoa vì nó khiến bệnh nhân gợi nhớ về quê nhà. Trong một bệnh viện quân sự tại vùng chiến tranh, một chút bình thường thôi vừa là một điều hoàn toàn phi lý, vừa cũng là một nhu cầu cực kì cần thiết. Lynda Van Devanter, một nữ quân y với cuốn hồi kí “Home Before Morning” (Về nhà trước lúc trời sáng) là nguồn cảm hứng cho bộ phim truyền hình “China Beach”,  từng đeo ruy băng trên tóc để khiến cô thêm nữ tính nhằm đáp ứng mong muốn và nhu cầu của các bệnh nhân. Cùng lúc đó, cô phải kìm nén cảm xúc và phải cứng rắn hơn để đối mặt với gánh nặng phải dịu dàng và xinh xắn trước mắt những người lính đang suy nhược và hấp hối.
Linda Pugsley là một y tá 22 tuổi làm việc tại Bệnh viện Thành phố Boston khi cô gia nhập Không quân vào năm 1967. Cô đã trải qua huấn luyện cơ bản, tham gia trường bay và được phong quân hàm thiếu uý. Lúc đó, cô không mang cảm xúc chính trị nào về Chiến tranh Việt Nam, nhưng cô muốn góp sức mình vào việc chăm sóc các thương binh Mỹ ở đó. Cô nhận thấy mình có thể hoàn thành mục tiêu với một lý do rất hay: Các ca trực cuối tuần ở Bệnh viện Thành phố Boston cũng thường đầy những ca bị thương do súng đạn hay đâm chém, tông xe hay các loại thương tích đẫm máu khác.
Tuy nhiên, những điều đó chẳng hề giúp cô sẵn sàng cho Việt Nam. Đủ loại thương tích, tiếng la hét khản đặc liên tục của những người lính bị thương, mất tay chân và đang hấp hối, tiếng ù ù của trực thăng chở càng nhiều người bị thương đến, có nhiều lúc trở nên quá tải. Cũng như Strange, Pugsley cuối cùng không buồn nhớ tên bệnh nhân của mình như là một cách để ứng phó với hoàn cảnh.
Xếp sau các nữ quân y trong số những người phục vụ tại ngũ là những người được điều động đến Việt Nam thông qua Quân đoàn Nữ (WAC). Cũng như y tá, WAC đầu tiên đến Việt Nam là để đào tạo nhân sự cho Quân đoàn Nữ miền Nam Việt Nam. Có khoảng 700 người thuộc WAC phục vụ trong cuộc chiến, hầu hết là công việc bàn giấy, nhưng cũng không thể tránh khỏi tham gia chiến đấu.
Linda McClenahan lớn lên tại Berkeley, bang California và gia nhập WAC sau khi chiếc xe buýt thuộc trường trung học của cô phải chuyển lộ trình vào một ngày nọ vì một cuộc biểu tình phản chiến. Cô từng làm việc ở trung tâm truyền thông của Quân đội từ năm 1969 đến năm 1970, và một trong những công việc của cô là thực hiện các báo cáo về thương vong. Cô thường là một trong những người đầu tiên đọc tên những người đã tử trận. Trung tá Janie Miller, thuộc biên chế WAC từng phục vụ tại Hàn Quốc và Việt Nam, quản lý một nhà tang lễ Quân đội tại Sài Gòn. Cô xoay vòng nhân viên mỗi ba tháng một lần để xử lý vấn đề tổn thương tâm lý do công việc. Khi Pinkie Houser, một thành viên của WAC đã từng tự nguyện đến Việt Nam vào năm 1968, chứng kiến chỉ huy của mình tử trận trên chiến trường, cô lưu giữ các ghi chép và gửi những vật dụng cá nhân của ông về gia đình. Đó là một trong những công việc khó khăn nhất mà cô từng phải làm trong cuộc chiến.
Chiến trận, hay những trải nghiệm chiến tranh đau đớn cùng cực, vẫn luôn giữ vị trí trung tâm trong hồi ức của người Mỹ về Chiến tranh Việt Nam. Số lượng những người phụ nữ phục vụ tại Việt Nam có thể rất nhỏ so với những người đàn ông nhưng chính vì như thế, kinh nghiệm chiến tranh của họ và các hệ quả lại mang tính tập trung. Họ ở đó để giảm bớt gánh nặng của những người lính, nhưng họ lại phải đóng vai trò thật lớn với thật nhiều người mà không thể giảm bớt được gánh nặng cho chính mình.
Heather Stur là phó giáo sư lịch sử tại trường Đại học Southern Mississippi và là tác giả của cuốn sách được xuất bản gần đây nhất “Beyond Combat: Women and Gender in the Vietnam War Era.”
- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2017/04/20/nhung-phu-nu-tren-chien-truong-viet-nam/#sthash.SwGGoieq.dpuf

Thứ Hai, 1 tháng 5, 2017

Báo TQ khoe chiến công mỹ nam kế phá vụ ám sát Mao Trạch Đông bằng mỹ nhân kế

Năm 1966, Cục tình báo Viễn Đông Mỹ đã quyết định cử một nữ điệp viên xinh đẹp với tài thiện xạ tới Bắc Kinh để ám sát Mao Trạch Đông.

Báo TQ khoe chiến công mỹ nam kế phá vụ ám sát Mao Trạch Đông bằng mỹ nhân kế
Mỹ đã từng lên kế hoạch ám sát Mao Trạch Đông tại quảng trường Thiên An Môn nhưng bất thành. (Ảnh: Sina)
Theo tài liệu từ Ngang dọc sử đảng của học giả Trung Quốc Kha Vân - được Thời báo Hoàn cầu đăng tải, đầu năm 1966, Cục tình báo Viễn Đông Mỹ quyết định lên kế hoạch ám sát Mao Trạch Đông sau quá trình dài theo dõi việc Mao thường lên lầu thành quảng trường Thiên An Môn để tham dự Lễ kỷ niệm quốc khánh hàng năm,

Theo đó, phía Mỹ sẽ cài bom hẹn giờ tại lầu thành Thiên An Môn vào ngày 1/10/1969 nhằm ám sát Mao Trạch Đông, kế hoạch này vì thế còn được gọi là "Kế hoạch ám sát bí mật 69101".

Nữ điệp viên bí mật đến phương Đông

Tài liệu do Hoàn cầu đăng tải cho biết, kế hoạch ám sát Mao là một nhiệm vụ quan trọng do Bộ quốc phòng Mỹ giao cho cơ quan tình báo Viễn Đông. Cục trưởng cục này được biết đến dưới tên Arthur McNess đã chọn nữ điệp viên Arthur Lisa để hoàn thành nhiệm vụ này.

Lisa là con gái của tướng Quốc dân đảng Lý Trọng Thanh - người bị quân đội Trung Quốc bắn chết trong một trận chiến.

Lisa sau được Arthur McNess nhận nuôi nên tướng Mỹ đã thêm chữ "Arthur" vào trước tên cũ của con gái nuôi đồng thời đưa cô vào chương trình huấn luyện tình báo.

Đến năm 17 tuổi, không chỉ là một tuyệt thế giai nhân, Lisa còn được mệnh danh là "Hồ tiên" (Tiên cáo) với khả năng bắn súng trăm phát trăm trúng, cùng các kỹ năng điêu luyện của một điệp viên.

Tháng 6/1966, khi Cách mạng văn hóa Trung Quốc bùng nổ, McNess nhận định, đây là cơ hội tốt nhất để tiến hành "kế hoạch 69101". Đầu tháng 9/1966, đích thân McNess tiễn Lisa ra sân bay. Trạm dừng chân đầu tiên của nữ điệp viên là Philippines với mục đích tìm cho mình một trợ thủ đắc lực.

Theo báo Trung Quốc, Mỹ luôn cho rằng, kế hoạch ám sát Mao của họ tuyệt đối bí mật, thậm chí "thần không hay, quỷ không biết" nhưng thực chất nhất cử nhất động của Washington đã bị cơ quan tình báo Trung Quốc theo dõi chặt chẽ.

Do đó, Thủ tướng Trung Quốc bấy giờ là Chu Ân Lai đã lệnh cho Cục an ninh Tây Nam nhanh chóng cử người đến Philippines, tìm cách tiếp cận Lisa. Cục này thông qua nghiên cứu kỹ lưỡng đã quyết định phái "Đệ nhất mỹ nam Cục Tây Nam" Hoàng Quốc Hoa đến Manila.

Đầu tháng 10/1966, Bộ Văn hóa Trung Quốc tổ chức đưa đoàn kịch nghệ thuật biểu diễn vở múa Bạch mao nữ sang Philippines lưu diễn. Hoàng Quốc Hoa sang Philippines với tư cách là thành viên đoàn kịch này.

Mỹ nhân kế "mắc bẫy" mỹ nam kế

Báo TQ khoe chiến công mỹ nam kế phá vụ ám sát Mao Trạch Đông bằng mỹ nhân kế - Ảnh 2.
Mao Trạch Đông đọc diễn văn tại Quảng trường Thiên An Môn trong ngày thành lập nước CHND Trung Hoa, 1/10/1949. (Ảnh tư liệu Trung Quốc)

Vở múa Bạch mao nữ đã nhận được sự chào đón nồng nhiệt của khán giả Manila. Một ngày, Hoàng Quốc Hoa nhận được thông báo, Lisa tối hôm đó sẽ đến xem kịch nhưng Hoàng chưa hề biết mặt Lisa, chỉ biết nữ điệp viên là một tuyệt thế giai nhân.

Nhằm gây ấn tượng với Lisa, Hoàng quyết định trong quá trình biểu diễn, ông cố tình lên sân khấu đảo qua hai vòng.

Sau đó, khi buổi diễn kết thúc, Hoàng lại rảo bước trước cửa rạp, bất ngờ ông bị một cô gái va phải, suýt ngã. Cô gái vội vàng đưa tay đỡ ông và nói: "Thưa ngài, tôi xin lỗi". Linh cảm có thể đây là nữ điệp viên Lisa, Hoàng giả bộ tỏ vẻ "háo sắc", sốt sắng hỏi thăm: "Xin hỏi, nhà tiểu thư ở đâu? Hôm nào tôi muốn xin đến thăm".

Cô gái nở nụ cười quyến rũ, nhiệt tình mời Hoàng đến thăm nhà sau khi đưa địa chỉ nhà cho ông.

Mấy ngày sau, Hoàng Quốc Hoa tìm theo địa chỉ đến nhà Lisa. Tối đó, Lisa đánh điện, báo cáo tình hình với McNess. Cục trưởng cục tình báo Viễn Đông Mỹ đã yêu cầu cô dùng mỹ nhân kế để quyến rũ đối phương.

Cùng lúc đó, Hòa Quốc Hoa cũng điện báo với tổ chức về kế hoạch đến thăm nhà Lisa. Cục Tây Nam yêu cầu ông phải diễn "tròn vai" vở kịch này,

Ngay chiều hôm sau, Hoàng lại mang theo một bó hồng đến nhà Lisa. Sau hôm đó, mối quan hệ của hai người phát triển nhanh chóng.

Người đẹp bất ngờ mất tích

Tuy nhiên, mấy ngày sau, Lisa bất ngờ mất tích. Hóa ra, đây là một bài kiểm tra của Cục tình báo Viễn Đông Mỹ với Hoàng Quốc Hoa.

Theo Hoàn Cầu, sau khi nhận được lệnh từ Washington, Lisa đã dùng dao khắc lên cánh cửa gỗ hai chữ "London" bằng tiếng Trung Quốc. Lisa tin rằng, Hoàng Quốc Hoa sẽ đi tìm cô nếu nhìn thấy chữ khắc này.

Sau khi nhận được địa chỉ của Lisa ở London từ Bắc Kinh, Hoàng Quốc Hoa lập tức lên đường tìm nữ điệp viên đối phương.

Tuy nhiên, để tránh nghi ngờ của Washington, Hoàng đã đóng kịch sốt sắng tìm Lisa trên khắp các con phố ở London.

Năm hôm sau, Lisa và Hoàng Quốc Hoa "tình cờ" gặp lại nhau trước cổng một nhà hát. Tối đó, Lisa bất ngờ đưa lời đề nghị với Hoàng: "Anh có muốn tham gia tổ chức của em không - Cục tình báo Viễn Đông? Nhiệm vụ của cục chính là đối phó, tiến hành các vụ ám sát với các nhân vật quan trọng của đảng cộng sản Trung Quốc".

Báo TQ khoe chiến công mỹ nam kế phá vụ ám sát Mao Trạch Đông bằng mỹ nhân kế - Ảnh 3.
Vở kịch Bạch mao nữ hiện nay vẫn được duy trì biểu diễn tại Trung Quốc. Ảnh: CCTV
 Hoàng Quốc Hoa bật dậy, tỏ vẻ tán đồng: "Chống lại đảng cộng sản Trung Quốc ư? Anh đồng ý hẳn 120 lần". 

Tuy nhiên, lúc đó Lisa đột nhiên rút một khẩu súng ngắn từ thắt lưng chĩa thẳng vào điệp viên của Bắc Kinh: "Ông Hoàng, đừng diễn kịch nữa, tôi sớm đã biết ông là điệp viên của Trung Quốc".

"Nếu đã không tin như vậy, em nổ súng đi", Hoàng Quốc Hoa điềm tĩnh đáp trả.

Nhờ đó, Hoàng nhận được sự tín nhiệm của Lisa. Ông ta được Cục tình báo Viễn Đông đưa lên máy bay đến một căn cứ quân sự Mỹ, bắt đầu tham gia công tác huấn luyện mật vụ đặc biệt.

Vụ ám sát thất bại

Đến đầu tháng 7/1969, Hoàng Quốc Hoa hoàn thành lớp huấn luyện đặc biệt của Cục tình báo Viễn Đông Mỹ. Sau kỳ nghỉ ngắn với Lisa ở Anh, hai người lên máy bay về New York.

Dưới sự sắp xếp của McNess, Hoàng Quốc Hoa và Lisa đã kết hôn tại Mỹ. Tuy nhiên, mấy ngày sau, Lisa đột nhiên òa khóc và nói với Hoàng: "Em sợ mình không sống được nữa, cấp trên yêu cầu em đi ám sát Mao Trạch Đông, em làm sao có khả năng đó?".

Hoàng tỏ vẻ buồn bã, đăm chiêu suy tư: "Anh có khả năng thực hiện nhiệm vụ này nhưng không biết cấp trên có kế hoạch cụ thể như thế nào?".

"Anh chỉ cần đến quảng trường Thiên An Môn, tặng một chiếc đồng hồ đeo tay có cài sẵn mìn hẹn giờ cho một quan khách có thể lên được lầu thành, để ông ta đeo nó lên trên lầu cùng Mao Trạch Đông thì có thể hoàn thành nhiệm vụ".

Ngày 15/9/1969, khi máy bay chở Lisa và Hoàng Quốc Hoa sắp vào lãnh thổ Trung Quốc, Hoàng lấy ra một chai nước khoáng đưa cho Lisa. Sau khi uống hai ngụm, Lisa cảm thấy chóng mặt và bất ngờ ngất xỉu.

Hoàng đã bỏ thuốc mê vào chai nước khoáng. Nhân đó, điệp viên Trung Quốc mở chiếc cặp khóa số, tháo hệ thống mìn hẹn giờ, ngăn chặn vụ đại ám sát Mao Trạch Đông.

Theo Hoàn Cầu, Hoàng Quốc Hoa đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, lễ kỷ niệm quốc khánh Trung Quốc năm 1969 không xảy ra biến động. Tuy nhiên, ngay trước ngày quốc khánh, Hoàng đã bị hai điệp viên cải trang thành người bán kem ám sát trong một công viên.

Về sau, báo cáo điều tra của Bắc Kinh nói rằng hai điệp viên này là sát thủ do Lisa thuê để bịt đầu mối Hoàng Quốc Hoa từ trước.

Theo Thời đại

( Soha News)

Chủ tịch nước giải thích nguyên nhân chưa thông qua Luật Biểu tình


Nguyễn Cường




Tiếp xúc với cử tri các quận 1, 3, 4 (TP.HCM) ngày 26/4, Chủ tịch nước Trần Đại Quang khẳng định, Luật Biểu tình rất được coi trọng, nhưng vì chất lượng của dự án luật nên đòi hỏi phải có thời gian chuẩn bị, tham khảo kinh nghiệm trong và ngoài nước.
Chủ tịch nước trao đổi với lãnh đạo TP.HCM sau buổi tiếp xúc.
Tại phần chất vấn, cử tri Lê Minh Số cho rằng hiện nước ta luật nhiều nhưng chưa đủ. Tuy nhiên do không thể xử lý cùng một lúc nên phải nghiên cứu luật nào làm trước, luật nào làm sau.
Ông cũng bày tỏ ý muốn Quốc hội sớm thông qua Luật Biểu tình để tránh những “bùng nhùng” như thời gian qua.
“Chúng tôi mong từ lâu nhưng đến nay vẫn chưa có động tĩnh. Đề nghị Quốc hội sớm bổ sung vào chương trình làm việc” – ông nói.
Tiếp tục, cử tri Số cho rằng Luật Phòng chống tham nhũng còn nhiều kẽ hở nên nhiều người lợi dụng để lách luật khiến cơ quan chức năng không thể xử phạt. Theo ông cần sửa đổi để chặt chẽ và có tính hiệu lực cao hơn.
Trong khi đó cử tri Lê Thanh Tùng đề nghị chú ý đến Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo và nêu ý kiến rằng cần duy trì hình thức xem xét cả những đơn thư nặc danh.
Trong buổi làm việc này nhiều cử tri còn đề cập đến Luật Đất đai, chương trình bảo vệ nhân chứng.
Các cử tri tham dự hội nghị.
Trả lời ý kiến các cử tri, Chủ tịch nước Trần Đại Quang khẳng định: “Chúng ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, chúng ta quản lý nhà nước, xã hội bằng pháp luật, với tinh thần thượng tôn pháp luật. Chính vì thế chúng ta phải khẩn trương hoàn thiện hệ thống pháp luật trên tất cả các lĩnh vực”.
Do đó theo ông, chương trình xây dựng các dự án luật đặt ra cho các ĐBQH trong nhiệm kỳ này rất nặng nề, bởi rất nhiều lĩnh vực hiện vẫn đang được điều chỉnh bằng pháp lệnh, nghị định.
“Tiến tới tất cả phải điều chỉnh bằng luật nên chương trình xây dựng cũng phải căn cứ vào những hoạt động của từng nhiệm kỳ cho phù hợp. Tránh đề ra nhiều quá mà xây dựng không đảm bảo chất lượng thì quá trình thực thi sẽ bị ảnh hưởng” – ông nói.
Về Luật biểu tình, Chủ tịch nước cho biết dù đã đưa vào chương trình nghị sự từ nhiệm kỳ trước, thậm chí đã giao cho các cơ quan chức năng thành lập ban soạn thảo, nhưng trong quá trình xây dựng vẫn còn nhiều mặt chưa được xem xét.
“Đây là một đạo luật lớn, có liên quan đến rất nhiều vấn đề, trong đó có những vấn đề nhạy cảm mà chúng ta chưa có kinh nghiệm, nên cơ quan soạn thảo dù tích cực chuẩn bị nhưng đến nay vẫn chưa đủ điều kiện để trình ra Quốc hội thông qua”.
“Trong khi đó Quốc hội cũng đang chỉ đạo các cơ quan chức năng khẩn chương nghiên cứu, hoàn thiện để sớm trình ra cho Quốc hội xem xét thông qua vào những kỳ họp tiếp theo” – Chủ tịch nước lý giải.
“Chúng ta rất coi trọng việc này, nhưng vì chất lượng của dự án luật nên đòi hỏi phải có thời gian chuẩn bị, tham khảo kinh nghiệm trong và ngoài nước rồi lấy thêm ý kiến của nhân dân và hoàn thiện” – ông nói thêm.
Chủ tịch nước: "Luật Đất đai là luật rất quan trọng”
Ngoài ra theo Chủ tịch nước, trong các kỳ họp tới Quốc hội sẽ xem xét sửa đổi, bổ sung Luật Phòng chống tham nhũng và Luật Đất đai – một bộ luật theo ông là “rất quan trọng”.
“Hiện nay có nhiều vấn đề liên quan đến các vụ tranh chấp, khiếu kiện từ đất đai, các vụ tiêu cực, tham nhũng, cổ phần hóa doanh doanh nghiệp cũng từ đất đai. Chính vì thế vấn đề đặt ra là phải sớm sửa đổi bổ sung bộ luật này” – ông nhấn mạnh.
Với ý kiến về đơn thư nặc danh, Chủ tịch nước nhận định đây là vấn đề có hai mặt.
“Có người sợ bị trả thù nên không dám ký tên, nhưng cũng có hiện tượng lợi dụng quyền tự do dân chủ để gây rối nội bộ, bôi nhọ cá nhân bằng cách viết đơn thư không đúng sự thật”.
“Chính vì thế trước đây dù về nguyên tắc là không xem xét, nhưng trong thực tế những đơn thư có thể xếp vào nặc danh nhưng ghi rõ vụ việc thì các cơ quan chức năng vẫn xem xét để nắm tình hình, nếu thấy rằng sự việc đúng như thế thì vẫn vào cuộc xử lý” – Chủ tịch nước khẳng định.
Người đứng đầu nhà nước còn chia sẻ rằng: “Quan điểm nhất quán là phải bảo vệ những người tố cáo, đồng thời cũng khuyến khích mọi người phải đề cao trách nhiệm công dân, dũng cảm nói lên sự thật, không nên dùng hình thức nặc danh để làm khó cơ quan chức năng”.
( Infonet)

ÔNG TRỌNG CHẮC SẼ KHÔNG KHÓC NHƯ SAU VỤ XỬ ÔNG DŨNG...NHƯNG CÓ " TỬ HÌNH" ĐƯỢC 1 ỦY VIÊN BCT KHÔNG ?

FB Tâm Chánh
28-4-17
( Nguyên TBT Sài Gòn Tiếp thị bị huyền chức...)

Thử phán đoán cục diện chính trị sau kỉ luật Đinh La Thăng

Tâm Chánh

Chỉ xét về tương quan lực lượng, trong vụ xử lý kỉ luật ủy viên Bộ chính trị Đinh La Thăng, có người gần như khấn niệm đừng để tái diễn tình trạng như hồi bày binh bố trận xử lý ông Nguyễn Tấn Dũng.
Ông Đinh La Thăng, người luôn xuất hiện nổi bật trên chinh trường, đang ở trong quá trình bị truy cứu trách nhiệm liên quan đến các hoạt động tồi tệ của tập đoàn Dầu khí, thời ông ấy làm chủ tịch. Nghe nói, ông Thăng cũng bị xem xét trách nhiệm liên quan đến những khoản lại quả dự án đã thành thông lệ ở bộ Giao thông, khi chính phủ thời Thủ tương Nguyễn Tấn Dũng cho nở rộ "phong trào" BOT và chinh sách chỉ định thầu.
Ông Thăng được giới thiệu và trúng cử vào vị trí uỷ viên Bộ chính trị vào phút chót. Giới thạo tin mô tả ông là một ứng viên trực tiếp cho chiếc ghế phó Thủ tướng đương nhiệm, là nhân sự chuẩn bị cho vị trí Thủ tướng nhiệm kì mới.
Nhưng bất ngờ, ông Thăng bị điều động vào giữ vị trí bí thư thành ủy TP Hồ Chí Minh, một lò cung cấp các vị trí lãnh đạo cao cấp nhất cua đảng.
Khác với những đồn đoán, ông Đinh La Thăng không một chút bỡ ngỡ ở một đảng bộ đến con trai cựu Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (lúc dó đương nhiệm) cũng không trúng cử tham gia thành ủy và đoàn đại biểu đảng bộ TP dự đại hội đảng toàn quốc. Mới nhận phân công, ông Thăng liên tục có những chuyến công tác cơ sở với những phát ngôn phê bình cấp dưới làm hả dạ người dân, đưa ra những chỉ thị trực tiếp giải quyết nhiều vụ việc ách tắc cụ thể, để lại ấn tượng về một nhà lãnh đạo năng động, dám làm, dám chịu.
Nhưng rồi chiếc bảng số xe công quá tiêu chuẩn phó chủ tịch của ông Trịnh Xuân Thanh, một "đàn em" thân tín của Đinh La Thăng, trở thành chủ đề sôi nổi của báo chí. Truyền thông mạng, trên trang facebook của Huy Đức, đã gây không ngớt ngạc nhiên khi đơn độc phanh phui các chứng cứ liên quan đến trách nhiệm của Đinh La Thăng từ các bê bối ở tập đoàn Dầu khí.
Một tiến trình kiểm điểm làm rõ các nội dung này được Uỷ ban Kiểm tra TƯ khởi động. Chưa rõ kết luận của UBKT như thế nào nhưng được biết thường vụ thành uỷ TPHCM đã thực hiện qui trình xử lí cán bộ dựa trên tự kiểm điểm của ông Đinh La Thăng. Kết quả có thể là một bất ngờ đối với ông Nguyễn Phú Trọng khi điều động ông Thăng vào đứng đầu lãnh đạo TPHCM. Có đến hơn 1/3 ủy viên thường vụ không nhất trí với kiểm điểm và tự nhận kỉ luật ở mức khiển trách mà đề nghị không áp dụng hình thức kỉ luật với ông Thăng.
Cuộc đấu tranh chống tham nhũng đang phóng to hết cỡ hy vọng của "toàn đảng, toàn dân" vào lý lich liêm khiết của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhưng trong trường hợp kỉ luật Đinh La Thăng vẫn dẫn đến hai phán đoán có thể cá cược, liệu đảng có kỉ luật được một thành viên Bộ chinh trị?
Một là, kịch bản xử lí Nguyễn Tấn Dũng tái diễn. Uỷ viên Bộ chinh trị Đinh La Thăng do TƯ bầu, nên cấp kỉ luật là TƯ, mặc dù Bộ chinh trị đã đề nghị mức cảnh cáo, nhưng TƯ lại bỏ phiếu đa số không áp dụng hình thức kỉ luật. Hai là, TƯ nhất trí đa số với đề nghị của Bộ chinh trị. Khả năng thứ ba, Bộ chinh trị đề nghị kỉ luật cảnh cáo, nhưng TƯ hạ bậc kỉ luật, chỉ khiển trách Đinh La Thăng.
Cả ba khả năng đều xuất phát từ mong muốn của "người trong cuộc", trị liệu tham nhũng được coi là mục tiêu chính trị số 1, mọi cải cách đều không thể thành công nếu không có bộ máy quản trị quốc gia sạch.
Lược giản sơ đồ xã hội đồng qui trong quan điểm này, có thể thấy, với khả năng thứ nhất, "một bộ phận không nhỏ" trong đảng đang trở thành "một bộ phận đa số" điều khiển đảng và đất nước.
Cuộc đấu tranh chống tham nhũng đánh dấu thất bại bằng kết quả phân liệt trong đảng. Bộ chinh trị tiếp tục phân hoá, hay nói cách khác, sẽ bộc lộ công khai sự phân hoá vốn có trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao. Cục diện chinh trị sẽ dẫn đến tình trạng một Trung ương đa lãnh đạo. Xu hướng này sẽ có thể hoàn tất tiến trình phân liệt trong đảng bằng lật đổ, đảo chính.
Cần phải lưu ý vai trò các cựu thần trong đảng sẽ trở nên một lực lượng xã hội có tác động rất lớn tới cục diện. Nhiều khả năng các nguyên lão sẽ tái xuất chính trường.
Nhưng đảng ở tiến trình này luôn neo giữ cuộc chiến quyền lực trong phạm vi cuộc đấu tranh nội bộ. Chống tham nhũng bị kềm tỏa bằng chống tự diễn biến, tự chuyển hóa. Đảng không phân liệt theo hướng đổi mới, cải cách hay không, mà chủ yếu, theo cục diện quyền uy của một số lãnh đạo. Nguyên tắc đồng thuận giả vờ, bằng mặt không bằng lòng, sẽ được thay thế bằng cơ chế chính trị phụ thuộc vào thế lực cụ thể của các nhà lãnh đạo.
Bằng diễn đạt của dân gian, cuộc chiến nội bộ của đảng sẽ lôi kéo lực lượng xã hội chủ yếu theo hai nhận dạng, "ăn" và "ăn mà làm".
Gần như người ta đã tập dượt cuộc đấu tố khốc liệt dưới hình thức "phê bình và tự phê bình" này. Trận địa truyền thông dường như đã được bày binh bố trận, nếu nhìn vào cái gọi là qui hoạch báo chí và bố trí nhân sự ở các cơ quan báo chí.
Các mục tiêu đổi mới, dân chủ chưa tạo ra lực lượng chinh trị của minh, nên chưa được viện đến trong cuộc đấu quyền lực này trong đảng. Có thể manh nha từ chính cuộc đấu tranh nội bộ này, hình thành lực lượng chính trị ủng hộ dân chủ nhưng cũng trong khuôn khổ chính trị do đảng lãnh đạo.
Kết cục của các phán đoán nói trên sẽ thành sai lầm nếu Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng không kết thúc chiến dịch thất bại của mình bằng tiếng khóc.
Tuy nhiên, có lẽ ong Trọng sẽ không khóc. Vì đơn giản ông Thăng không có bề dày nắm quyền lực như ông Nguyễn Tấn Dũng để có thể chi phối chọn lựa của các ủy viên TƯ. Nếu có "ăn chia" phạm vi đó cua ông Thăng khó lòng phủ đến đa số TƯ đang có 2/3 là nhân sự mới. Nhất là tiếng dàn kèn trống thúc giục vang rền khắp các cấp hô chống tham nhũng không thể dẫn đến một kết quả bại xụi cho sự lãnh đạo của đảng như vậy. Nhưng quan trong nhất là ở thời điểm chưa đến nửa nhiệm ki, các đối thủ chính trị mới xuất hiện của ông Trọng không sẵn sàng cho cuộc đối đầu với uy quyền tổng bí thư.
Nhưng cho dù TƯ nhóm họp lần thứ 5 không chấp nhận đề nghị của Bộ chinh trị, hay phê chuẩn mức kỉ luật thấp hơn đề nghi của Bộ chinh trị, ông Trọng vẫn còn trong tay một thế trận mới, huy động sự tham gia của người dân vào cuộc đấu tranh sinh tử này.
Yếu huyệt trong thế trận này chính là ai nhanh chóng nắm giữ ngọn cờ công khai và chuyển nó thành khí thế của dân. Ông Trọng sẽ thắng nếu biết khai thác sức mạnh này, biến dư luận thành công luận, nhưng ở thời ông Trọng tác động chính yếu này của truyền thông không còn trong tay nền báo chí cách mạng vốn bị tẩn nhừ tử, chỉ có một mực "cách mạng" mà không còn sự chính trực báo chí nữa.
Còn trong khả năng thứ hai, ở trường hợp kỉ luật cảnh cáo ông Thăng, cuộc đấu tranh chống tham nhũng sau khí thế thắng lợi bước đầu, sẽ đứng trước một đòi hỏi cụ thể, chế độ của ông Trọng có tử hình nổi một thành viên Bộ chính trị, thành viên TƯ? Sự leo thang mong muốn trừng phạt này sẽ làm lộ ra không it tật bệnh ở mức trầm kha của một hệ thống chinh trị sau nhiều năm kiến tạo pháp quyền vẫn chỉ có thể dùng đến uy quyền để cai trị chính bộ máy của mình.
Có thể thấy đó là một thất bại chính trị có từ sớm của đảng.