Thứ Bảy, 6 tháng 5, 2017

Vì sao Chính phủ bị ‘hụt vay’ đến 110 ngàn tỷ đồng trong năm 2017?

 Nếu ngay cả các ngân hàng thương mại lớn trong nước mà còn không kham nổi trái phiếu chính phủ, nguồn thu cho ngân sách nhà nước sẽ càng nhanh chóng co ép và cạn kiệt, có thể dẫn đến kịch bản “sụp đổ tài khóa quốc gia” như Thủ tướng Phúc tán thán vào đầu năm 2017.

vay-tien-nhanh-trong-ngay

Ông Nguyễn Xuân Phúc - Thủ tướng Chính phủ - vừa phê duyệt kế hoạch vay, trả nợ của Chính phủ và các hạn mức vay nợ năm 2017.

Cụ thể, kế hoạch vay của Chính phủ năm 2017 là 342.060 ngàn tỷ đồng (tương đương khoảng 15 tỷ USD), gồm: Vay trong nước 243.300 tỷ đồng và vay ODA, ưu đãi nước ngoài 98.760 tỷ đồng, trong đó vay cho cân đối ngân sách nhà nước 316.300 tỷ đồng (vay để bù đắp bội chi là 172.300 tỷ đồng và vay để trả nợ gốc 144.000 tỷ đồng); vay về cho vay lại 25.760 tỷ đồng.

Vào năm 2016, kế hoạch vay của Chính phủ là 452.000 tỷ đồng, tương đương hơn 20 tỷ USD.

Như vậy, số vay của Chính phủ Việt Nam trong năm 2017 đã giảm đến 110 ngàn tỷ đồng so với số vay năm 2016.

Vì sao lại có hiện tượng “hụt vay” trên? Phải chăng Chính phủ muốn “thắt lưng buộc bụng”? Hay do nhu cầu chi tiêu của Chính phủ năm 2017 không căng thẳng như năm 2016?

Nhưng một chuyên gia nhà nước cho biết tình hình kinh tế nói chung và ngân sách nói riêng trong năm 2017 còn khó khăn hơn nhiều năm 2016. Vào năm 2016, tình hình kinh tế và ngân sách đã bị chính những chuyên gia nhà nước xem là rất khó khăn.

Chỉ có thể phân tích rằng số hụt vay của Chính phủ hoặc do hụt vay nước ngoài, hoặc do hụt vay trong nước.

Tuy nhiên, số vay nước ngoài năm 2017 vẫn gần tương đương năm 2016 - khoảng 4,5 tỷ USD.

Còn con số 110 ngàn tỷ đồng hụt vay năm 2017 lại khá tương đương với một nguồn vay lớn trong nước: phát hành trái phiếu chính phủ.

Nguồn cơn chính nằm ở đây.

Cần nhắc lại, vào tháng 3/2017, một thông báo của Kho bạc Nhà nước cho biết trong năm 2017, cơ quan này dự kiến sẽ phát hành 183,3 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ. Quy mô này thấp hơn rất nhiều so với dự tính trước đó là sẽ huy động khoảng 250 nghìn tỷ đồng trong năm 2017, cũng như so với tổng lượng huy động 2016.

Con số 183,3 nghìn tỷ đồng trên cũng thấp hơn rất nhiều so với mức 281 nghìn tỷ đồng phát hành trong năm 2016. Tức giảm đến gần 100 ngàn tỷ đồng.

Đó là chưa kể đến việc trong năm 2017, có hơn 98,5 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ đáo hạn, theo đó, lượng phát hành ròng cả năm 2017 dự kiến chỉ còn là 84 nghìn tỷ đồng – thấp hơn nhiều so với lượng phát hành ròng năm 2016 là 173 nghìn tỷ đồng.

Tức lượng phát hành ròng giảm đến phân nửa!

Nguồn cơn nào đã dẫn đến tình trạng sụt giảm thảm thiết ấy?

Kinh nghiệm xương máu trong hàng chục năm qua, và đặc biệt từ khi ông Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng, là lượng phát hành trái phiếu chính phủ giai đoạn 2011-2015 đã tăng gấp 2.5 lần giai đoạn 2006-2010, chủ yếu phát hành cho khối ngân hàng thương mại. Sau một thời gian đủ dài, các khoản lãi và một phần nợ gốc phải trả trong ngắn hạn đã tăng cao và tăng đột ngột trong thời gian gần đây, gây sức ép mạnh lên cân bằng ngân sách nhà nước. Trong một vòng luẩn quẩn, chính phủ lại phải liên tục phát hành trái phiếu chính phủ để bù đắp thâm hụt ngân sách nhà nước. Hậu quả là từ năm 2014, một lượng lớn trái phiếu chính phủ đến hạn thanh toán, trong lúc chính phủ lại phải liên tục phát hành trái phiếu chính phủ mới do ngân sách nhà nước không thể đáp ứng. Cũng hệ quả là quy mô nợ công tăng theo tần suất và quy mô phát hành trái phiếu chính phủ.

Đến lúc này, có thể khẳng định ngay cả hệ thống ngân hàng – địa chỉ thường xuyên phải “gánh” núi trái phiếu chính phủ – cũng trở nên quá “oải”. Vào giữa năm 2016, bất chấp hiện trạng vẫn được ưu ái và o bế bởi chính phủ cùng Ngân hàng nhà nước, ngay cả những ngân hàng loại một như Vietcombank cũng chẳng còn mặn mà gì với “giấy lộn”. Bằng chứng hiển hiện nhất đã lộ ra bằng cái cách hai ngân hàng BIDV và VietinBank quay lưng thẳng thừng với yêu cầu của Bộ Tài Chính về nộp cổ tức năm 2015 bằng tiền mặt – giá trị lên đến gần 5.000 tỷ đồng, có thể cho thấy ngay cả các ngân hàng lớn cũng đang khó khăn và phải lo thủ thân như thế nào trước cơn suy trầm kinh tế đang gõ cửa từng nhà.

Trước khi xảy ra thất bại về phát hành trái phiếu trong nước, ý đồ phát hành 3 tỷ USD trái phiếu chính phủ ra quốc tế đã bị phá sản hoàn toàn. Kế hoạch này được đưa ra bởi chính phủ Nguyễn Tấn Dũng vào cuối năm 2015 – như một thành tích để “chào mừng đại hội 12”. Tuy nhiên từ đó đến nay, không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy Bộ Tài chính dám khơi lại chiến dịch này. Đơn giản là không có ai mua!

Nếu ngay cả các ngân hàng thương mại lớn trong nước mà còn không kham nổi trái phiếu chính phủ, nguồn thu cho ngân sách nhà nước sẽ càng nhanh chóng co ép và cạn kiệt, có thể dẫn đến kịch bản “sụp đổ tài khóa quốc gia” như Thủ tướng Phúc tán thán vào đầu năm 2017.

Thiền Lâm 



(VNTB)

Công cuộc cải cách ở Trung Quốc đã cùng đường? ( Giống Việt Nam)

Posted on  by The Observer

Print Friendly
Nguồn: Youwei, “The End of Reform in China: Authoritarian Adaptation Hits a Wall,” Foreign Affairs, May/June 2015 Issue.
Biên dịch: Trần Tuấn Anh | Hiệu đính: Nguyễn Huy Hoàng
130525225704-chinese-dream-tease-story-top
Kể từ lúc bắt đầu công cuộc cải cách hậu Mao từ cuối thập niên 1970, chính quyền cộng sản ở Trung Quốc đã nhiều lần đảo ngược thành công những tiên đoán về sự sụp đổ của nó. Chìa khóa cho sự thành công đó nằm ở chủ trương mà người ta có thể gọi là “sự thích nghi của chế độ chuyên chế” (“authoritarian adaptation”) – tức việc sử dụng các chính sách cải cách nhằm thay thế một sự thay đổi thể chế cơ bản. Dưới thời Đặng Tiểu Bình, điều đó có nghĩa là cải cách nông nghiệp và cởi trói cho kinh tế tư nhân. Dưới thời Giang Trạch Dân, đó là việc nền kinh tế Trung Quốc chính thức tiếp cận một nền kinh tế thị trường, cải cách các doanh nghiệp nhà nước, và tham gia Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Dưới thời Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo là cải cách an sinh xã hội. Nhiều người tiếp tục kỳ vọng vào một đợt cải cách sâu rộng tiếp theo dưới sự lãnh đạo của Tập Cận Bình – nhưng họ có thể sẽ phải thất vọng.
Sự cần thiết phải cải cách hơn nữa vẫn còn tồn tại, do nạn tham nhũng tràn lan, tình trạng bất bình đẳng gia tăng, tăng trưởng kinh tế chậm, và các vấn đề môi trường. Tuy nhiên, có lẽ kỷ nguyên của sự điều chỉnh nền chuyên chế đã đi đến điểm tới hạn của nó, khi mà không còn nhiều tiềm năng cải cách có thể tồn tại trong khuôn khổ chuyên chế hiện nay của Trung Quốc. Một trạng thái cân bằng tự củng cố của sự trì trệ đang được hình thành và khó có thể bị phá vỡ nếu không có những biến động lớn về mặt kinh tế, xã hội, hoặc quốc tế.
Trung Quốc có là ngoại lệ?
Một lý do cho sự mất mát động lực để tiếp tục cải cách chính là việc hầu hết các cải cách đơn giản đều đã được thực hiện xong. Cải tạo nông nghiệp, khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân, xúc tiến thương mại, điều chỉnh chính sách an sinh xã hội – tất cả những cải cách này đã tạo ra nhiều lợi ích mới mà ít làm ảnh hưởng đến những lợi ích đã có. Còn những lĩnh vực còn lại khó thay đổi hơn, như việc loại bỏ sự độc quyền của các doanh nghiệp nhà nước trong các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, tư hữu hóa đất đai, thêm quyền cho Quốc hội Trung Quốc trong các vấn đề tài khóa, và thiết lập một hệ thống tư pháp độc lập. Thực hiện chúng cũng đồng nghĩa với việc bắt đầu đe dọa đến quyền lực của Đảng Cộng sản Trung Quốc, điều mà chế độ hiện tại không sẵn lòng chấp nhận.
Một lý do khác là sự hình thành một khối chống cải cách ngày càng mạnh mẽ. Một số người còn muốn đảo ngược các tiến trình cải cách đã và đang diễn ra, khi mà chúng đã làm cho “chiếc bánh kinh tế” lớn đáng kể (tức là tạo ra nhiều cơ hội việc làm và thịnh vượng hơn là tái phân phối sự giàu có – NHĐ). Nhưng hàng ngũ quan chức cũng như giới tinh hoa nói chung lại cảm thấy hài lòng hơn với việc giữ nguyên trạng, bởi cải cách từng phần là người bạn tốt nhất của tư bản thân hữu (crony capitalism).
Thế còn về mặt xã hội nói chung? Lý thuyết hiện đại hóa tiên đoán rằng sự phát triển kinh tế sẽ thúc đẩy tiến bộ xã hội, từ đó dẫn đến một sự thay đổi chính trị. Với GDP bình quân đầu người ở mức 7.000 đô la, liệu Trung Quốc có cưỡng lại được tính logic của lập luận này hay không? Nhiều người tin rằng là có, vì quốc gia này là một ngoại lệ. Họ lập luận rằng tính chính danh về mặt chính trị tại Trung Quốc có được là nhờ vào việc chính quyền đem đến nhiều lợi ích cho xã hội hơn là việc nó bảo vệ những quyền lợi của các tầng lớp trong đó. Nhiều doanh nhân được kết nạp Đảng, sinh viên thì bị sao nhãng bởi chủ nghĩa dân tộc, nông dân và công nhân thì chỉ quan tâm đến sự công bằng về mặt vật chất. Tuy nhiên, thứ cá biệt ở Trung Quốc không phải là xã hội hay văn hóa mà chính là nhà nước.
Ở Trung Quốc, cũng như ở nhiều nơi khác, sự phát triển kinh tế đã dẫn đến những mâu thuẫn: nông dân thì đòi phải giảm thuế, công nhân thì đòi có nhiều sự bảo hộ lao động hơn, sinh viên muốn thành lập các nhóm hoạt động xã hội, doanh nhân bắt đầu muốn làm từ thiện, các cơ quan truyền thông thì bắt đầu muốn đẩy mạnh mảng phóng sự điều tra, và các luật sư thì chú trọng hơn vào việc bảo vệ nhân quyền. Những hành động mang tính tập thể trở nên phổ biến, và hiện Trung Quốc đang có hơn một triệu các tổ chức phi chính phủ ở địa phương. Và Internet là một thách thức lớn đối với chế độ, bằng cách kết nối những con người bình thường lại với nhau, và với cả giới trí thức.
Tuy nhiên, những mưu cầu thực tiễn tương tự như trên lại cần nhiều kỹ năng tổ chức và các luận đề tư tưởng thì mới trở thành những yêu sách chính trị. Và ít ra chúng cần phải có những không gian chính trị nhất định để có thể tự hoàn thiện và phát triển, tuy nhiên những khoảng không này gần như không hề tồn tại ở Trung Quốc. Nếu Đảng Cộng sản Trung Quốc đã học được điều gì từ phong trào dân chủ năm 1989 (tức Sự kiện Thiên An Môn – NHĐ) và sự sụp đổ của Liên Xô, thì đó là bài học về việc “một đốm lửa nhỏ có thể châm ngòi cho một đám cháy lớn.” Bằng nguồn lực khổng lồ, chính quyền đã dần dần tạo nên một bộ máy tinh vi, hiện diện ở khắp mợi nơi và cực kỳ hiệu quả trong việc “duy trì ổn định.” Điều này đã ngăn chặn thành công vế thứ hai của lý thuyết hiện đại hóa trở thành hiện thực. Hệ thống đảm bảo an ninh quốc nội này được thiết kế để bắt được bất cứ tín hiệu nào từ phía đối lập, dù thực tế hay tưởng tượng, hay còn trong trứng nước. Ngăn chặn quan trọng hơn nhiều so với đàn áp – trên thực tế, việc đàn áp các cuộc biểu tình một cách bạo lực được nhìn nhận là một dấu hiệu thất bại. Sức mạnh của nhà nước Trung Quốc không phải được đo bằng một hàm răng sắc nhọn mà thông qua những ngón tay nhanh lẹ của nó.
Ngôn luận bị kiểm duyệt, trong báo chí và cả trên Internet, nhằm ngăn chặn việc phổ biến bất cứ thứ gì được coi là “mối hiểm họa.” Mọi hành động đều bị theo dõi sát sao. Ngay cả những hành động phi chính trị cũng có thể bị coi là nguy hiểm. Năm 2014, Hứa Chí Vĩnh (Xu Zhiyong) – một nhà hoạt động pháp lý, người đứng đầu một chiến dịch đấu tranh cho các cơ hội giáo dục bình đẳng cho con cái của những người di cư từ nông thôn (ra thành phố), bị kết án 4 năm tù với tội danh “gây rối trật tự công cộng.” Hội họp công khai bị hạn chế, và ngay cả việc hội họp tại gia cũng có thể bị coi là có vấn đề. Vào tháng 5 năm 2014, một số học giả và luật sư đã bị quản thúc sau khi tham dự một buổi tưởng niệm cho phong trào dân chủ 1989 tại một tư gia. Ngay cả việc ký tên vào một bản thỉnh nguyện thư cũng có thể bị trừng phạt.
Quan trọng không kém là sự nổi lên của đường lối quần chúng (mass line) – tức sự định hướng dư luận của chính quyền – về nhu cầu sống còn của Trung Quốc là duy trì sự ổn định. Một mạng lưới giám sát an ninh được thành lập khắp cả nước bằng cách tăng cường quân số của bộ máy an ninh quốc gia cũng như thành lập một mạng lưới bên ngoài bộ máy hành chính chính thức bao gồm dân quân tuần tra, trợ lý giao thông, và những người giám sát các khu dân cư. Hàng trăm ngàn “tình nguyện viên an ninh” hoặc “đầu mối đưa tin” đã được tuyển dụng trong số những người lái xe taxi, nhân viên vệ sinh, người trông xe, và cả những người bán hàng rong, nhằm báo cáo với chính quyền về “những người hay hoạt động khả nghi.” Mỗi khu dân cư ở Bắc Kinh được cho là có khoảng 2.400 “tổ trưởng (cho mỗi) tổ dân cư” trong đó, những người có nhiệm vụ để ý từng phút bất kỳ sự bất thường nào trong địa hạt của họ, để có thể bán tin cho chính quyền với giá 2 NDT cho một mẩu tin. Hệ thống này theo dõi những tên tội phạm và những kẻ khủng bố cùng với những người gây rối chính trị, nhưng những người bất đồng chính kiến chắc chắn cũng là một trong những đối tượng chính của nó.
Ở Trung Quốc ngày nay, các đại ca giang hồ (Big Brother) có mặt ở khắp mọi nơi. Họ là một phần của mạng lưới an ninh quốc gia vừa mạnh và vừa tinh vi như một mạng nhện, hiện diện ở khắp mọi nơi và vô dạng như nước. Những ai đủ thông minh để lảng tránh chính trị hoàn toàn thì hầu như sẽ không hề cảm nhận thấy nó. Ngược lại, nếu như họ vượt qua làn ranh thì ngay lập tức sẽ nhận được những phản ứng tức thời của các thành viên thế giới ngầm này. Nếu một phản ứng thái quá kiểu “giết gà bằng dao mổ bò” xảy ra thì nó cũng hoàn toàn được chấp thuận bởi dẫu sao cố gắng ngăn chặn một phiền toái thoát ra khỏi lòng bàn tay của chính quyền cũng là một điều tốt.
Hệ thống này thực thi nhiệm vụ giữ gìn trật tự một cách xuất sắc. Nhưng nó cũng hạn chế cơ hội cho bất cứ một sự phát triển xã hội dân sự nào ở Trung Quốc đương đại chứ chưa nói đến một xã hội chính trị. Và cho dù sự bất bình xã hội có dâng cao đến đâu thì cán cân quyền lực cũng nghiêng hẳn về phía chính quyền hơn là về phía xã hội. Các phong trào xã hội, cũng giống như thực vật, cần không gian để phát triển. Và nếu như không có khoảng không này thì cả phong trào và cây cỏ đều sẽ lụi tàn.
Người khổng lồ bị chôn vùi
Việc thiếu những động lực từ bên trên cũng như từ phía dưới đã khiến công cuộc cải cách ở Trung Quốc bị chững lại, và thậm chí có thể thụt lùi. Giới lãnh đạo hiện nay vẫn tiếp tục khoa trương về cải cách, và họ quả thực cũng đưa ra được một số sáng kiến cải cách. Nhưng chúng, như người Trung Quốc vẫn nói, chỉ như là những trận “sấm lớn mà mưa nhỏ.”
Đáng kể nhất là chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình. Triệt hạ 74 quan chức cấp tỉnh trong vòng 2 năm qua, kèm theo đó là hàng trăm ngàn quan chức cấp thấp hơn, chiến dịch này quả thật là rất ấn tượng. Trong ba thập niên trước khi ông nắm quyền, chỉ có tổng cộng 3 quan chức cấp trung ương bị mất chức do tham nhũng. Nhưng chỉ trong 3 năm cầm quyền, Tập Cận Bình đã khiến cho 5 quan chức quốc gia ngã ngựa. Nhưng không nên xem chiến dịch chống tham nhũng này là một chương trình cải cách. Thay vì khuyến khích tự do thông tin hay tổ chức nhiều phiên tòa xét xử độc lập và lập nên một cơ quan chống tham nhũng có thực quyền thì chiến dịch này được điều khiển và kiểm soát bởi giới chóp bu và đặc trưng bởi tính bí mật, sự tàn nhẫn, và mang nhiều toan tính chính trị. Vu Kỳ Nhất (Yu Qiyi), kỹ sư thuộc một tập đoàn nhà nước bị bắt vì cáo buộc tham nhũng đã chết do bị tra tấn trong quá trình thẩm vấn vào năm 2013. Chu Văn Bân (Zhou Wenbin), cựu Hiệu trưởng Đại học Nam Xương, nói rằng ông cũng đã từng bị tra tấn trong một cuộc thẩm vấn vào đầu năm 2015. Điều này gợi lại những chiến dịch “cải tạo” của những người theo chủ nghĩa Mao khi xưa (mặc dù ít tàn bạo hơn) hay thậm chí là các biện pháp kỷ luật nghiêm khắc thời phong kiến Trung Quốc. Những chiến dịch này đã củng cố được tính tập quyền và tăng cường tính chính danh của các nhà lãnh đạo có sức cuốn hút đặc biệt với cái giá là nhiều quan chức.
Nhiều cải cách nhỏ đã thúc đẩy một số lĩnh vực tiến lên phía trước, tuy nhiên không cải cách nào là một bước chuyển mình. Đại hội Đảng lần thứ 18, được tổ chức vào cuối năm 2012, đã nhấn mạnh việc cải cách hệ thống tư pháp, nhưng cho đến giờ, chưa có gì ngoài việc cơ cấu lại bộ máy hành chính được tiến hành. Một nghị quyết của Ủy ban Trung ương vào cuối năm 2014 đã cam kết rằng sẽ đẩy mạnh “sự độc lập và công bằng hơn trong hoạt động truy tố và xét xử,” tuy nhiên nó lại định nghĩa nguyên tắc đầu tiên của cải cách pháp lý là nhằm “bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.” Các quan chức của Đảng thường gật đầu đồng ý với sự quan trọng của “vấn đề dân chủ trong thảo luận,” và đầu năm nay, Đảng đã thông qua một kế hoạch nhằm “củng cố dân chủ xã hội chủ nghĩa trong thảo luận,” nhưng hiện không rõ là dân chủ trong thảo luận liệu có ý nghĩa gì không khi thiếu vắng những biện pháp trừng phạt việc không phản hồi của các thể chế.
Có nhiều tuyên bố được lặp đi lặp lại về vấn đề cải cách những luật lệ và quy định áp dụng cho các tổ chức phi chính phủ. Tuy nhiên, trong thực tế, quá trình này lại diễn ra rất chậm và thiếu minh bạch, với minh chứng là cách mà Dự án Thư viện nông thôn Lập Nhân (Liren), một dự án khuyến khích việc tự học ngoài giờ lên lớp ở vùng nông thôn Trung Quốc, đã bị ép phải ngừng hoạt động. Lĩnh vực kinh tế đã được chứng kiến nhiều cải cách đích thực, như việc giảm rào cản khi cấp giấy phép kinh doanh và việc bắt đầu thúc đẩy sự cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng, nhưng nhiều người lại không xem những nỗ lực này là đáng kể, khi mà sự độc quyền kinh tế của nhà nước trong một số lĩnh vực vẫn không thể bị thách thức. Và trong các chính sách xã hội, việc nới lỏng chính sách một con dù đã thể hiện sự tiến bộ, nhưng vẫn chưa đủ để tạo nên sự khác biệt.
Đằng sau sự trì trệ trong công cuộc cải cách hiện nay chính là sự bế tắc về mặt ý thức hệ. Cái gọi là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã dẫn dắt nền kinh tế Trung Quốc trong suốt hơn 30 năm, đã tự cho phép nó được tiếp tục tồn tại và cải cách. Nhưng nó luôn ẩn chứa bên trong một mâu thuẫn nội tại, khi mà hệ thống pháp lý khách quan cần có của một nền kinh tế thị trường lại là mối đe dọa tiềm tàng cho sự lãnh đạo chủ quan của Đảng, vốn ưa thích việc tự mình đóng vai trò là vị trọng tài cuối cùng cho các vấn đề xã hội. Và trong những năm gần đây, một câu hỏi cấp bách lớn hơn được đặt ra là: Thứ gì quan trọng hơn, những nhu cầu của một nền kinh tế thị trường hay những nhu cầu của Đảng Cộng sản?
Trên thực tế, những nhu cầu của Đảng là tối thượng. Nhưng chính quyền đã không thể phát triển được một hệ tư tưởng mạch lạc, thức thời nhằm biện minh cho điều đó. Chủ nghĩa Mác là chưa đủ. Chính quyền ngày càng viện dẫn những triết lý của Nho giáo về việc đề cao một nhà nước nhân trị bên trong một trật tự phân chia ngôi thứ. Nhưng việc kết hợp hai hệ thống lý luận này lại với nhau là không dễ dàng gì khi mà trên danh nghĩa Đảng Cộng sản vẫn đi theo hệ tư tưởng Mác-Lênin, vốn đấu tranh cho sự công bằng giữa các tầng lớp trong xã hội, còn đạo Khổng thì lại chú trọng đến hệ thống thứ bậc.
Những gì Tập Cận Bình thể hiện thường là những giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội. Chúng có mặt ở mọi nơi ở Trung Quốc, bao gồm “Thịnh vượng, dân chủ, văn minh, hòa hợp, tự do, bình đẳng, công bằng, pháp quyền, ái quốc, tận tâm, liêm chính, hữu nghị.” Chúng giống một danh sách chắp vá hơn là thể hiện một tầm nhìn thống nhất. Nó phản ánh sự lo lắng nhiều hơn là sự tự tin, và đó chính là cơ sở để nói rằng: thực tại mà không có một nền tảng ý thức hệ làm nền thì rất yếu và không bền vững.
Bốn kịch bản cho tương lai
Trung Quốc sẽ đối mặt với bốn viễn cảnh về tương lai của họ. Viễn cảnh thứ nhất, cũng chính là kịch bản mà Đảng cầm quyền ưa thích, là đất nước sẽ trở thành một “Singapore quy mô lớn” (Singapore on steroids), như cách mà chuyên gia nghiên cứu Trung Quốc Elizabeth Economy đã viết. Nếu chiến dịch chống tham nhũng được tiến hành triệt để và bền vững, Đảng Cộng sản sẽ được sinh ra trong một hình hài mới, một Đảng có thể lãnh đạo Trung Quốc một cách hiệu quả và nhân ái. Các cải cách về mặt chính sách sẽ được tiếp tục, tiềm năng kinh tế quốc gia sẽ được giải phóng, và kết quả là một nền kinh tế năng suất cao sẽ đảm bảo tính chính danh và quyền lực của biến thể Đảng mới này.
Tuy nhiên một tương lai như thế lại khó có thể trở thành hiện thực vì nhiều lý do. Thứ nhất, Singapore dẫu sao thì cũng ít chuyên chế hơn so với Trung Quốc đương đại; nó đa đảng và tự do chính trị hơn. Sự cạnh tranh chính trị ở đó không phải là hoàn toàn công bằng, tuy nhiên các Đảng đối lập vẫn đủ sức chiếm 40% số phiếu bầu trong cuộc bầu cử vào năm 2011. Đối với Trung Quốc, để bắt chước mô hình thành công của Singapore, nó cần phải cởi mở đáng kể hơn về mặt chính trị, thậm chí là có thể sẽ phải trở thành một nền dân chủ đa nguyên, một kịch bản mà Đảng Cộng sản Trung Quốc không hề muốn mạo hiểm thực hiện. Ngoài ra, Singapore chỉ là một nước nhỏ, do đó chi phí để giám sát bộ máy hành chính cũng tương đối nhỏ. Ngược lại, Trung Quốc lại là một nước có diện tích khổng lồ và do đó Đảng Cộng sản phải rất khó khăn trong việc cai trị một lãnh thổ rộng lớn như thế, cũng như giám sát một bộ máy chính quyền nhiều cấp từ trên xuống dưới.
Kịch bản thứ hai và cũng là kịch bản dễ thành hiện thực nhất, ít nhất là trong ngắn hạn, đó là hiện trạng hiện tại sẽ vẫn được duy trì. Dù cho có vấn đề gì xảy ra thì việc gìn giữ mô hình “chủ nghĩa xã hội mang bản sắc Trung Quốc” không phải là một điều mệt mỏi cho chính quyền. Từ nhân khẩu học đến đô thị hóa đến toàn cầu hóa đến cuộc cách mạng thông tin, các yếu tố cấu trúc đã tạo điều kiện cho sự trỗi dậy của Trung Quốc vẫn đang tồn tại và sẽ tiếp tục hoạt động trong nhiều năm nữa, và do đó chính quyền có thể tiếp tục hưởng lợi từ chúng.
Nhưng không phải là mãi mãi: một chính quyền mà tính chính danh của nó dựa vào sự hiệu quả kinh tế mà nó mang lại, sẽ phải tiếp tục cố gắng duy trì một mức tăng trưởng cao để có thể bảo đảm ngôi vị của mình. Với tình trạng tăng trưởng kinh tế giảm dần qua nhiều năm, nỗi sợ về việc khó có thể tiếp tục giữ vững chế độ đang ngày càng gia tăng. Bong bóng nhà đất, sản xuất dư thừa, bất ổn tài chính, nhu cầu nội địa thấp, và tình trạng bất bình đẳng đang ngày càng gia tăng chính là những điểm yếu trầm trọng. Lấy ví dụ, sự bùng nổ của bong bóng nhà đất có thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng cho toàn bộ nền kinh tế và dư chấn của nó sẽ lan sang cả lĩnh vực chính trị, khi mà các chính quyền địa phương mất đi một nguồn thu chính để có thể chi trả chi phí cho các dịch vụ công và bảo đảm an ninh nội địa.
Điều này có thể sẽ châm ngòi cho kịch bản thứ ba: dân chủ hóa thông qua cơn khủng hoảng. Một kịch bản như thế tất nhiên là không dễ chịu gì. Với nền kinh tế bị tổn thương và các yêu sách chính trị ngày càng gia tăng, các mâu thuẫn sẽ trở nên ngày càng sâu sắc thay vì dịu đi, và khi những quả bom do chính tay chế độ hiện tại cài đặt (khủng hoảng dân số, ô nhiễm và tàn phá môi trường, căng thẳng sắc tộc) phát nổ thì các vấn đề sẽ trở nên nghiêm trọng hơn nữa. Kết quả lúc này có thể sẽ là sự quay trở lại của một số hình thái chuyên chế khi mà cả đất nước chùn chân trước sự hỗn loạn của tiến trình dân chủ hóa.
Kịch bản thứ tư – tiến trình dân chủ hóa theo tuần tự và được kiểm soát – sẽ là điều tốt nhất cho Trung Quốc, nhưng tiếc thay lại khó có thể xảy ra. Một nền lãnh đạo sáng suốt ở Bắc Kinh có thể bắt đầu thực hiện từng bước một ngay từ bây giờ để đặt nền móng cho một quá trình chuyển mình như thế, với việc bầu cử đa đảng phái được xem là bước cuối cùng của quá trình chuyển mình này, hay nói cách khác là điểm cuối con đường. Việc từ từ thừa nhận sự độc lập của hệ thống tư pháp, củng cố quyền lực của Quốc hội Trung Quốc để đối phó với các vấn đề tài khóa, khuyến khích sự phát triển của xã hội dân sự, và thực hiện cạnh tranh trong nội bộ Đảng là những biện pháp có thể mở đường cho một cuộc chuyển mình êm đềm, và nếu cùng với chúng là những cải cách trong các chính sách liên quan đến vấn đề quản lý dân số, sắc tộc, và môi trường, thì nó có thể giúp Trung Quốc tránh khỏi nhiều bi kịch trong tương lai. Tuy nhiên, một cuộc chuyển mình được chuẩn bị sẵn và có kiểm soát như thế đòi hỏi một liên minh bao gồm những chính trị gia cấp tiến trong giới lãnh đạo, nhưng điều đó lại không tồn tại trong bối cảnh hiện nay và có rất ít khả năng là sẽ xuất hiện sớm.
Đối với những thế lực bên ngoài, những việc mà họ có thể làm (để tác động đến tương lai của Trung Quốc) là rất hạn chế. Các áp lực ngoại sinh thường có xu hướng làm bùng lên ngọn lửa dân tộc chủ nghĩa phòng thủ hơn là thúc đẩy quá trình tự do hóa trong nước. Đối với một quốc gia có kích thước lớn và chiều dài lịch sử như Trung Quốc thì quá trình dân chủ hóa phải được bắt đầu từ bên trong. Nhưng sự thật là những cường quốc lớn trên thế giới, thường là những nước dân chủ tự do, lại tạo ra một sức kéo ý thức hệ – và vì vậy, cách tốt nhất mà phương Tây có thể giúp Trung Quốc thực hiện thành công một cuộc cách mạng chính trị cuối cùng là hãy duy trì sức mạnh, sự tự do, nền dân chủ, và sự thành công của chính mình.
Youwei là bút danh của một học giả ẩn danh người Trung Quốc.
- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2015/05/06/cong-cuoc-cai-cach-o-trung-quoc-da-cung-duong/#sthash.H7XsXtfr.dpuf

Lãnh đạo Việt Nam quản lý sai nên kinh tế không như ý

Nếu lãnh đạo và quản lý đúng, phù hợp quy luật khách quan, thì mới có nền kinh tế thị trường trong Chủ nghĩa Xã hội, một cựu phó trưởng ban Tuyên giáo TW Đảng CSVN nói khi Hội nghị Trung ương 5 nhóm họp.

Vai trò của TBT Nguyễn Phú Trọng ngày càng nổi bật trong các vụ 'chống tham nhũng'
Vai trò của TBT Nguyễn Phú Trọng ngày càng nổi bật trong các vụ 'chống tham nhũng'
"Sự lãnh đạo và quản lý chưa thể là một đặc điểm của nền kinh tế. Đặc điểm của nền kinh tế sẽ hình thành trong thực tế một cách khách quan, nó không phải là sự lãnh đạo và quản lý của ai, mà là kết quả của sự lãnh đạo và quản lý ấy thế nào," Tiến sỹ Vũ Ngọc Hoàng viết trong bài Cần hiểu đúng để không làm sai" trên VietnamNet hôm 05/5/2017.

Theo nhà lý luận này của Đảng CSVN thì chính sách của nhà nước phải phù hợp với kinh tế thị trường, dựa vào các quy luật của thị trường để điều tiết chính nó, ông viết tiếp:

    Nhà nước không kinh doanh, không để các cơ quan hành chính đi kinh doanh, các cơ quan chuyên chính càng phải thế
    Ông Vũ Ngọc Hoàng

"Nhà nước không kinh doanh, không để các cơ quan hành chính đi kinh doanh, các cơ quan chuyên chính càng phải thế.

"Việc chính của nhà nước là tạo điều kiện cho mọi chủ thể trong xã hội được kinh doanh thuận lợi, bình đẳng thật sư, không bị thị trường ngầm, không có buôn gian bán lậu, càng không để cho cán bộ của nhà nước tham gia hoạt động trong và cho các "nhóm lợi ích".

Cần kinh tế thị trường đầy đủ

Theo ông Vũ Ngọc Hoàng, Đại hội XII của Đảng CSVN đã khẳng định sự cần thiết của một nền 'kinh tế thị trường đầy đủ', ông nhận định:

"Đó là quan điểm đúng đắn nhằm bảo đảm cho kinh tế thị trường không bị biến dạng bởi sự chủ quan duy ý chí. Tiếp đến, nếu phân loại sâu hơn thì, kinh tế thị trường trong CNXH sẽ là một nền kinh tế thị trường xã hội."

"Trong đó, có vai trò đáng kể của nhà nước đối với việc điều tiết nền kinh tế vì mục tiêu xã hội. Nhà nước điều tiết một cách khoa học chứ không phải can thiệp thô bạo vào thị trường, càng không làm thay hoặc chống lại thị trường."

PGS. TS Phạm Quý Thọ
Đổi mới thể chế kinh tế sang kinh tế thị trường là một cam kết mạnh mẽ của Việt Nam, theo PGS. TS Phạm Quý Thọ từ Bộ Kế ho & Đầu tư.
Bình luận với BBC hôm thứ Sáu, một nhà quan sát không muốn tiết lộ danh tính từ Hội khoa học kinh tế cho rằng bài viết của tác giả Vũ Ngọc Hoàng đã: "nêu ra được một số điểm đáng lưu ý, như nhà nước không nên kinh doanh, và không để các cơ quan hành chính, công quyền và lực lượng vũ trang làm kinh tế, doanh nghiệp.

"Ông Hoàng cũng đã 'khéo léo' nhấn mạnh Việt Nam cần đến một 'nền kinh tế thị trường đầy đủ' trong lúc nhà nước cần điều tiết 'khoa học' chứ không nên can thiệp thô bạo, tuy nhiên ông vẫn chưa dám nói mạnh, nói trực diện về đâu là lực cản, là 'thủ phạm' của cản trở đổi mới, cải tổ, mà vẫn phải mượn các lời lẽ, trích dẫn kinh điển của chủ nghĩa Marx vì có lẽ là để thận trọng," vẫn ý kiến này bình phẩm.

Ai cấp tiến, ai bảo thủ?

    Chỉ nói về kinh tế tư nhân mà không nói gì về sở hữu tư nhân một cách mạnh mẽ, được xác lập một cách đảm bảo lâu dài cũng như các hợp đồng có tính chất tự nguyện của các công ty tư nhân và một cách kiểm soát chủ nghĩa cơ hội, thì không thể tiến được
    PGS. TS. Phạm Quý Thọ

Trong Tọa đàm Trực tuyến của BBC Việt ngữ trên Facebook Live và YouTube tuần này về Hội nghị Trung ương 5 nhóm họp, một số ý kiến bàn về kinh tế và đường lối của Đảng trong lĩnh vực này đã được chia sẻ và bàn bạc.

Từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, PGS. TS. Phạm Quý Thọ nêu quan điểm khá thẳng thắn về đường lối đã được cam kết của cải tổ kinh tế Việt Nam và đâu, cũng như ai là lực cản, ông nói:

"Chúng ta (Việt Nam) đã cam kết chuyển sang hay là đổi mới thể chế kinh tế sang kinh tế thị trường, đấy là một cam kết rất mạnh mẽ và cứu Việt Nam khỏi khủng hoảng trong những năm 1980 và 1990, điều đó tuy là cam kết rồi, nhưng phải hành động như thế nào, đó là những cái mà chúng ta thấy luôn luôn không có một đường lối một cách nhất quán và cụ thể.

"Tôi lấy thí dụ, như Tiến sỹ Nguyễn Quang A (khách mời cùng tại Bàn tròn của BBC) nói về kinh tế tư nhân, đáng lẽ chúng ta phải làm cái này sớm hơn, thí dụ như chúng ta chuyển sang kinh tế thị trường thì chúng ta phải tôn trọng những nguyên tắc của kinh tế thị trường, trong đó có kinh tế tư nhân, trong đó có sở hữu tư nhân.

"Cũng như chúng ta chỉ nói về kinh tế tư nhân mà không nói gì về sở hữu tư nhân một cách mạnh mẽ, được xác lập một cách đảm bảo lâu dài cũng như các hợp đồng có tính chất tự nguyện của các công ty tư nhân và một cách kiểm soát chủ nghĩa cơ hội, thì không thể tiến được.

ĐCSVN
Việt Nam đang đứng trước nguy cơ cả khủng hoảng kinh tế lẫn xã hội và chính trị, theo ông Nguyễn Quang Dy
"Như vậy những người theo cam kết ban đầu của chúng ta (Việt Nam) về chuyển đổi (sang) kinh tế thị trường một cách chi tiết, cụ thể và có đường lối rõ ràng, thì đấy là những người cấp tiến, thế còn những người chống lại hoặc tìm cách này, cách kia với lý do để ổn định xã hội, ổn định này, ổn định kia, dưới chiêu bài này, chiêu bài kia, thì đều là những cái có tính chất giáo điều, mà không phù hợp với quá trình đổi mới này," chuyên gia về chính sách công từ Học viện Chính sách & Phát triển nói với Bàn tròn.

Ném chuột sợ vỡ bình?

Trong một bài viết tuần này được đặc trên trang điểm báo của Viet-studies, chuyên mục kinh tế, một nhà quan sát chính trị-xã hội Việt Nam, ông Nguyễn Quang Dy nêu quan điểm:

"Nền kinh tế Việt Nam đang đứng trước 3 nguy cơ có thể cản đường đổi mới: Thứ nhất, đồng tiền Việt Nam có thể bị mất giá từ 4% đến 5% trong năm 2017. Thứ hai, tăng trưởng thương mại và đầu tư toàn cầu tiếp tục sụt giảm, ảnh hưởng đến thương mại và thu hút FDI của Việt Nam. Thứ ba, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế với các FTA mới đang gặp nhiều khó khăn, có thể làm suy giảm động lực cải cách thể chế của Việt Nam.

    Đã đến lúc phải dũng cảm thay đổi thể chế (thậm chí phải thay bình mới) thì may ra mới giải được nghiệp chướng hiện nay để thoát hiểm
    Ông Nguyễn Quang Dy

"Tăng trưởng thực sự của Việt Nam hiện nay chỉ bằng 5% (theo chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh). Thảm hoạ môi trường biển do nhà máy Formosa Vũng Áng gây ra từ tháng 4/2016 đến nay làm cho hàng trăm ngàn ngư dân phá sản. Đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của cả nước, bị hạn hán và ngập mặn nặng nề, làm sản xuất lúa gạo bị tổn hại nghiêm trọng. Về chăn nuôi, giá heo giảm xuống mức kỷ lục hiện nay, đang làm nông dân điêu đứng."

Ông Nguyễn Phú Trọng
TBT Trọng từ nói về đánh tham nhũng rằng 'đánh chuột' cũng phải lo không vỡ bình quý
Tác giả cũng đề cập tới một khủng hoảng kép ở Việt Nam mà ông coi là 'nguy cơ', đồng thời chia sẻ quan điểm làm thế nào để chống tham nhũng hiệu quả bên cạnh bài toán về sở hữu, mà ông nhấn mạnh nhu cầu cần phải 'tư hữu hóa đất đai' và 'tài sản công', ông Nguyễn Quang Dy viết trong phần kết của bài viết:

"Việt Nam đang đứng trước nguy cơ cả khủng hoảng kinh tế lẫn xã hội và chính trị. Không phải chỉ có dân chúng mất niềm tin, doanh nghiệp hoang mang, mà cả cán bộ cao cấp cũng nhấp nhổm chuồn ra nước ngoài (mỗi khi bị truy cứu trách nhiệm). Hội nghị TW5 sẽ mở màn cho một đợt thanh trừng mới, đẩy tranh giành quyền lực lên một tầm cao mới. Nhưng nếu không cải cách thể chế (chính trị) thì không thể tránh được khủng hoảng chính trị.

"Muốn chống tham nhũng, trước hết phải kiểm soát quyền lực (bằng tam quyền phân lập). Thứ hai là phải tư hữu hoá đất đai và tài sản công. "Đánh chuột sợ vỡ bình" là một nghịch lý chết người do thể chế hiện nay đang làm hệ thống phân liệt. Bắt xong sâu này sẽ có sâu khác, nếu cái lồng ấp sâu vẫn còn nguyên. Diệt xong hổ này sẽ có hổ khác nếu nguyên nhân sinh ra và nuôi dưỡng hổ báo vẫn còn.

"Đã đến lúc phải dũng cảm thay đổi thể chế (thậm chí phải thay bình mới) thì may ra mới giải được nghiệp chướng hiện nay để thoát hiểm. Xét cho cùng, nguy cơ của dân tộc Việt Nam không phải chỉ là "thù trong" mà còn là "giặc ngoài". Vì vậy, nếu không sớm dẹp được "thù trong", thì làm sao có thể chống được "giặc ngoài", tác giả bài viết có tựa đề 'Đấu đá giữa kỳ & vận mệnh quốc gia' kết luận.

Dám làm hay không?

Hội nghi Trung ương 5 khóa 12 của BCHTƯ đảng CSVN đang nhóm họp có hai nội dung chính là bàn về đường lối kinh tế và vấn đề tổ chức của Đảng, theo truyền thông chính thống Việt Nam, trả lời Bàn tròn thứ Năm của BBC về việc liệu ban lãnh đạo cao cấp của Đảng và nhà nước Việt Nam có dám đẩy mạnh tới cùng các cải tổ và đặc biệt là chống tham nhũng một cách căn cơ, triệt để và công tâm hay không, Tiến sỹ Nguyễn Quang A đáp:

"Trong lúc xã hội đang rất ngổn ngang, Việt Nam đang gặp những vấn đề rất đau đầu, lẽ ra giới lãnh đạo cần phải đoàn kết lại, để đưa ra những chính sách thật là phù hợp với Việt Nam để đẩy sự nền kinh tế và sự phát triển xã hội lên.

TS Nguyễn Quang A
Trong lúc xã hội đang rất ngổn ngang, Việt Nam đang gặp những vấn đề rất đau đầu, lẽ ra giới lãnh đạo cần phải đoàn kết lại, TS Nguyễn Quang A nói với BBC.
"Rất đáng tiếc tôi có thể nói rằng chuyện mà người ta làm, tôi nhắc lại đây là cuộc đấu tranh giữa các phe phái trong nội bộ đảng với nhau, việc chính thì không làm, mà đi làm những việc nội bộ và thực sự đó là một điều rất đáng tiếc.

"Có dám làm hay không? Ở đây có hai ý, tức là thanh trừng lẫn nhau, thì tôi nghĩ chắc chắn là ông Nguyễn Phú Trọng rất kiên quyết để làm việc đó, vấn đề là ông ấy có thể làm được hay không là tùy vào tương quan lực lượng giữa phe của ông ấy và phe nghịch với ông ấy.

Xin mời quý vị xem Video : Đòn độc gì của Tổng Trọng khiến Trần Đại Quang không cứu nổi Đinh La Thăng ở Hội Nghị Trung ương 5?

                

"Còn chuyện có dám làm hay không về vấn đề đổi mới đường lối kinh tế, xã hội, chính trị, thì tôi có thể nói rằng chắc chắn là không, chừng nào mà ông Nguyễn Phú Trọng còn nắm chức Tổng Bí thư.

    Ông ấy có thể làm được hay không là tùy vào tương quan lực lượng giữa phe của ông ấy và phe nghịch với ông ấy.
    TS. Nguyễn Quang A

"Bởi vì ông ấy là người kiên quyết nhất giữ đường lối kinh tế, xã hội rất là bảo thủ từ trước đến nay, và chừng nào ông còn ở đó, và nếu ông ấy thành công trong việc 'thanh trừng' ông (Đinh La) Thăng và một vài người nữa thuộc phe của ông (Nguyễn Tấn) Dũng cũ, thì nó càng củng cố sức mạnh của ông ấy,

"Và như thế càng không có một sự thay đổi gì trong đường lối và chính sách cả, đấy là về cái có dám hay không dám là như vậy," Tiến sỹ Quang A nói với BBC Tiếng Việt.

(BBC)

Gần 600 ngư dân Việt Nam bị Indonesia bắt

RFA

2017-05-05
Ngư dân Việt Nam bị cảnh sát nước ngoài bắt do đánh cá bất hợp pháp ngày 24/5/2016.
Gần 600 ngư phủ Việt Nam bị bắt giữ vì đánh bắt cá trái phép trên vùng biển Indonesia thời gian qua.
Tin từ Đại sứ quán Việt Nam ở Jakarta cho biết ngư dân và tàu thuyền Việt Nam đến vùng biển Indonesia để đánh bắt  cá càng ngày càng nhiều. Họ đã bị tuần duyên Indonesia bắt giữa và đưa vào các đảo lân cận để xử lý. Tòa Đại sứ Việt Nam ở Jakarta đã yêu cầu nhà chức trách Indonesia trả lại tài sản và cho phép những người bị bắt được trở về vì lý do nhân  đạo.
Số liệu chính thức của Indonesia cho thấy con số ngư dân bị bắt gồm 580 người và 72 tàu cá từ các tỉnh Bà Rịa, Vũng Tàu, Bình Định, Khánh Hòa, Tiền Giang, Kiên Giang , Phú Yên, Bình Thuận.
Tuy nhiên theo người phụ trách công tác lãnh sự trong đại sứ quán Việt Nam ở Indonesia, ông Nguyễn Thanh Giang, những con số ngư dân bị bắt mà cơ  quan chức năng Indonesia đưa ra không trùng khớp với thực tế . Ông nói tòa đại sứ Việt Nam ở Ondonesia đang tìm hiểu và cập nhật thông tin liên quan trong công tác bảo hộ công dân để sớm đưa họ về nước.

Thứ Sáu, 5 tháng 5, 2017

BỨC "HOÀNH PHI" MỚI về MỐI QUAN HỆ VIỆT - TRUNG

Phạm Viết Đào

Đăng ngày: 10:48 26-10-2009



Sơn hà liên thông; Văn hóa tương đồng; Lý tưởng tương thông; Vận mệnh tương quan...?! ( Các vị chú ý có " chữ Tương"?

Trong suốt chiều dài của lịch sử phát triển quan hệ giữa 2 nước Việt Nam-Trung Quốc, tuy mạnh yếu nhiều lúc khác nhau nhưng cha ông ta đều có những đối sách thích hợp.

Ví như thời Lý đó là: Nam quốc sơn hà, Nam đế cư ( Lý Thường Kiệt )…

Đến thời Trần thì: Nếu bệ hạ muốn hàng xin hãy chém đầu tôi đi đã... ( Trần Quốc Tuấn );
Thà làm quỷ nước nam hơn làm vương đất bắc; ( Trần Bình Trọng )

Đến thời Lê thì :
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ...
( Bình Ngô đại cáo )

Đến thời Nguyễn Tây Sơn thì phương châm ứng xử của Quang Trung đó là:
Đánh cho để dài tóc
Đánh cho để răng đen
Đánh cho chúng chích luân bất phản,
Đánh cho chúng phiến giáp bất hoàn...

Chưa có nhà sử học nào cất công tìm kiếm xem tương thích với các đối sách của cha ông ta là những đối sách của phía Trung Quốc là gì; Cha ông ta chủ động đề ra các cương lĩnh chính trị trên hay do tình thế lịch sử bắt buộc...

Khác với cha ông ta thời xưa, hiện nay, quan hệ Việt Trung đang được phát triển ồ ạt, xô bồ cả về chiệu rộng lẫn chiều sâu; có điều chúng ta không thấy về phía Việt Nam chưa tỏ ra được đối sách bằng chữ nghĩa nào, phần lớn chỉ thấy a dua, vỗ tay hảo hảo theo các phương châm được phát ra từ Bắc Kinh...
Trong khi các nhà lãnh đạo của ta hình như coi nhẹ việc tìm ra hoặc đúc kết ra các đối sách với ông bạn lớn Trung Hoa thì đám cư dân mạng lại sốt sắng làm chuyện này không biết có phải do rỗi hơi không. Tôi tin ngoài câu: Láng giềng khốn nạn...đối với Láng giềng hữu nghị... sẽ được trích giới thiệu tại phần sau, trên mạng còn có nhiều sáng tạo dân gian khác.
Lịch sử đã ghi dấu nhiều cuộc đối đáp ra trò của các sứ thần nước nam làm mất mặt vua chúa thiên triều, làm nhụt nhuệ khí xâm lăng, bá quyền của chúng. Trong võ thuật cổ Trung Hoa người ta gọi miếng võ này là " khí công "-tiến công bằng khí thay cho bằng lực để triệt hạ ý chí, tà khí của đối phương...( cư  dân mạng gọi là chém gió)

Còn nhớ trong những năm tháng chiến tranh, ông Mao Trạch Đông từng đề ra đối sách với Việt Nam một câu ít chữ, và chữ cũng rất thô không chút trau chuốt nhưng lại hàm chứa nhiều nghĩa: Mi không đụng đến ta thì ta không đụng đến mi; Trung Quốc đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng...

Đầu năm 1999, Tổng bí thư Giang Trạch Dân đã đề ra và Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam Lê Khả Phiêu
 đã đồng ý phương châm 16 chữ: "Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện".

Phương châm này đã xác định tư tưởng chỉ đạo và khung tổng thể phát triển quan hệ hai nước trong thế kỷ mới, đánh dấu quan hệ Trung Việt đã bước vào giai đoạn phát triển mới được lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước xác định trong Tuyên bố chung, từ tháng 2/1999.
Tháng 11 năm 2000, khi hội đàm với Tổng bí thư mới đảng cộng sản Việt Nam Nông Đức Mạnh đến thăm, Tổng bí thư Giang Trạch Dân nêu rõ, 16 chữ này là phương châm quan trọng chỉ đạo sự phát triển quan hệ hai nước...
* "Ổn định lâu dài" là nhấn mạnh tình hữu nghị Trung Việt là phù hợp lợi ích căn bản của hai đảng, hai nước và nhân dân hai nước, bất kỳ lúc nào, bất kỳ tình hình nào đều phải giữ sự ổn định và phát triển lành mạnh của quan hệ hữu nghị, khiến nhân dân hai nước đời đời hữu nghị với nhau;
* "Hướng tới tương lai" là phải xuất phát từ hiện nay, nhìn về lâu dài, kế thừa truyền thống, mở ra tương lai tốt đẹp hơn cho quan hệ Trung Việt;
* "Hữu nghị láng giềng" là yêu cầu hai bên phải làm người láng giềng tốt, người bạn tốt, trước sau xử lý mọi vấn đề trong quan hệ hai nước với tinh thần hữu nghị láng giềng;
* "Hợp tác toàn diện" là phải không ngừng củng cố, mở rộng và sâu sắc sự giao lưu và hợp tác giữa hai đảng, hai nước trong mọi lĩnh vực, để mưu cầu hạnh phúc cho hai nước và nhân dân hai nước, đồng thời góp phần cho việc giữ gìn và thúc đẩy nền hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực.

Phương châm 16 chữ bao giờ cũng được đính kèm theo 4 tính chất giống như “ xôi kèm lạc”, đó là :Láng giềng tốt, Bạn bè tốt, Đồng chí tốt, Đối tác tốt...

Hiện nay phương châm 16 chữ này đang được cư dân mạng đúc kết thành:
-
 "Láng giềng khốn nạn; Cướp đất toàn diện; Lấn biển lâu dài; Thôn tính tương lai"...

Đến thời ông Hồ Cẩm Đào một phương châm mới đã được các nhà lãnh đạo Bắc Kinh công bố, bức “ Hoành phi “ đó là: Sơn hà liên thông; Văn hóa tương đồng; Lý tưởng tương thông; Vận mệnh tương quan...?!

Ngoài Việt Nam, giới lãnh đạo Bắc Kinh có đối sách riêng, không biết đối với các nước láng giềng khác như Nga, Mông Cổ, Ấn Độ, Mông Cổ, Nhật, Đài Loan, Triều Tiên, Thái Lan... có các chữ vàng riêng được thiên triều ban tặng không ? Bà con nào biết xin mách giùm ?

Thảo dân này đọc phương châm 16 chữ mới này thấy gai gai người trước những vế ví như: Vận mệnh tương quan; khi một người, hay một cộng đồng, một quốc gia tuyên bố: tương quan với cộng đồng bên cạnh thì hãy coi chừng, nhất cử nhất động đều có quan hệ, đều tương quan với nhau hết...

Phương châm này văn hoa hơn chứ không huỵch toẹt theo kiểu du côn làng của ông Mao: Mi không đụng đến ta thì ta không đụng đến mi... song mức độ đe dọa và ẩn phía sau câu chữ của phương châm đó là sự nguy hiểm của những hành vi có ý đe dọa chìm hơn câu của ông Mao ?!

Vế thứ hai mà thảo dân này không thể không đưa ra bình để xin thêm cao kiến của các bậc cao minh trong làng cư dân mạng. Đó là câu: 
Sơn hà liên thông; câu này thực ra là lời bài hát của nhạc sĩ Đỗ Nhuận được các nhà lãnh đạo Trung Quốc nhắc lại: Việt Nam-Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông... Bài hát này bây giờ mà hát lại thì chối như hóc phải xương gà: Chung một biển đông mối tình hữu nghị sáng như rạng đông...?
Thảo dân này rất muốn được biết phương châm của ứng xử của những người nắm trọng trách của đất nước trước phương châm 16 chữ mới này do triều đại ông Hồ Cẩm Đào đề ra? Nếu các vị quá bận hay coi chuyện này có gì phải bàn thì nhờ bà con cư dân mạng góp phần tìm giúp cho phương châm 16 chữ của Việt Nam là gì.
Liệu trong phương châm 16 chữ mới có tới 3 chữ TƯƠNG này có dẫn đến kết cục hai bên sẽ TƯƠNG NHAU thật lực nay mai không hay lại liên thông như Hà Tây với Hà Nội?


Mong rằng hậu quả ngược lại của cái chữ TƯƠNG trong bức " hoành phi " mới này không xảy ra trong quan hệ 2 nước ?!

P.V.Đ.