Thứ Ba, 22 tháng 8, 2017

Bản "Phúc trình thường niên 2016 về tự do tôn giáo thế giới": Vẫn xuyên tạc tình hình tôn giáo ở Việt Nam

QĐND - Ngày 15-8-2017, Bản “Phúc trình thường niên 2016 về tự do tôn giáo thế giới”, do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ biên soạn được công bố tại Washington DC. Cũng như phúc trình về tự do tôn giáo thế giới những năm trước, phần viết về Việt Nam tuy có đôi chút điều chỉnh, nhưng vẫn thể hiện sự kỳ thị và xuyên tạc tình hình thực tế về đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam.

Trả lời giới báo chí về quan điểm của Việt Nam đối với bản phúc trình tự do tôn giáo năm 2016 (phần về Việt Nam), Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Việt Nam nói: “Chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm các quyền tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Điều này được ghi rõ trong Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam; được bảo đảm tôn trọng trên thực tế… Pháp luật Việt Nam nghiêm cấm phân biệt đối xử với công dân vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo”. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cũng khẳng định: “Nhà nước Việt Nam đã và đang thực thi nhiều chính sách và biện pháp cụ thể để bảo đảm người dân được thụ hưởng đầy đủ các quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng, trong đó có Luật Tín ngưỡng và Tôn giáo được Quốc hội thông qua vào tháng 11-2016 (hiệu lực vào tháng 1-2018). Chúng tôi ghi nhận trong báo cáo về tình hình tự do tôn giáo quốc tế năm 2016 của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã có các điều chỉnh sát với tình hình thực tế ở Việt Nam. Song, đáng tiếc trong báo cáo vẫn đưa ra những thông tin không khách quan, trích dẫn những thông tin sai lệch về Việt Nam”.
Nhận xét về chính sách, pháp luật Việt Nam trên lĩnh vực tôn giáo, phúc trình viết: “Hiến pháp Việt Nam quy định tự do tín ngưỡng và tự do thờ phương theo đức tin là quyền mà người dân được hưởng. Thế nhưng luật hiện hành với những điều khoản mơ hồ lại cho Nhà nước rộng quyền hơn trong việc kiểm soát mọi sinh hoạt tôn giáo dưới danh nghĩa gọi là bảo vệ an ninh quốc gia và duy trì đoàn kết dân tộc”;  “Việt Nam vẫn là một quốc gia mà tôn giáo nằm dưới sự chi phối của chính phủ, phải được chính phủ công nhận tư cách pháp nhân và pháp lý thì mới được sinh hoạt”. “Tháng Mười Một năm 2016, Quốc hội Việt Nam thông qua Bộ Luật Tôn giáo… với nhiều điều khoản không thay đổi liên quan đến điều kiện ghi danh của các tổ chức tôn giáo, thời gian chờ được cứu xét, những hình thức xử phạt hành chính đối với cá nhân hay tổ chức nào vi phạm luật tôn giáo của chính phủ, làm phương hại trật tự công cộng cũng như phá hoại tình đoàn kết dân tộc”.
Nghi thức thả chim bồ câu và bóng bay mừng khánh đản Đức Phật. Ảnh minh họa: TTXVN. 
Vậy, thực tế đời sống tôn giáo ở Việt Nam ra sao? Việt Nam là quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó một số tôn giáo du nhập từ bên ngoài, như: Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hồi giáo... và một số tôn giáo ra đời trong nước, như: Cao Ðài, Hòa Hảo... Đến nay, ở Việt Nam có 38 tổ chức tôn giáo, trên 24 triệu tín đồ, 80.000 chức sắc và khoảng 26.000 cơ sở thờ tự. Thực tế có những tôn giáo du nhập vào từ hàng ngàn năm, có tôn giáo ra đời mới chỉ vài chục năm và khoảng 95% dân số Việt Nam có đời sống tín ngưỡng. Hằng năm có khoảng 8.500 lễ hội tôn giáo hoặc tín ngưỡng cấp quốc gia và địa phương được tổ chức. Bởi vậy, chỉ những ai đến Việt Nam mới nhận thấy đời sống tín ngưỡng, tôn giáo Việt Nam luôn sôi động. Từ Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 cho đến Hiến pháp 2013 các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân Việt Nam đều được Nhà nước tôn trọng và bảo đảm. Đặc biệt, Hiến pháp 2013, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được quy định gắn với quyền con người, do đó được bảo đảm tốt hơn.
Nhằm thể chế hóa Hiến pháp 2013, năm 2016, Quốc hội Việt nam đã thông qua Luật Tín ngưỡng tôn giáo. So với các quy định của pháp luật trước đây, Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016 có nhiều điểm mới bảo đảm tốt hơn quyền của công dân và của mọi người. Chẳng hạn: Quyền tự do, tín ngưỡng tôn giáo được mở rộng thành “quyền của mọi người” chứ không riêng của công dân Việt Nam. Nói cách cụ thể, quyền tín ngưỡng tôn giáo của người nước ngoài ở Việt Nam cho dù họ theo bất cứ tôn giáo nào cũng được Nhà nước Việt Nam bảo hộ. Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016 giành một chương với nhiều quy định như “Người bị tạm giữ, người bị tạm giam, người đang chấp hành hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo". Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016 của Việt Nam cũng nêu rõ: "Người nước ngoài cư trú hợp pháp tại Việt Nam được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; nghiêm cấm hành vi phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo;…”.  Những quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam hoàn toàn tương thích với Luật quốc tế về quyền con người. Bởi, theo Điều18, Công ước quốc tế về các quyền Dân sự, Chính trị, năm 1966 quy định: “(1). Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, và tự do bày tỏ tín ngưỡng hoặc tôn giáo một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, công khai hoặc kín đáo, dưới các hình thức như thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và truyền giảng. (2). Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo hoặc tín ngưỡng của họ. (3). Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”.
Như vậy hoàn toàn không có chuyện pháp luật Việt Nam về tôn giáo “Với những điều khoản “mơ hồ” lại cho Nhà nước rộng quyền hơn trong việc kiểm soát mọi sinh hoạt tôn giáo dưới danh nghĩa gọi là bảo vệ an ninh quốc gia và duy trì đoàn kết dân tộc” như Phúc trình về tự do tôn giáo thế giới 2016 của Hoa Kỳ viết.
Còn việc nhà nước có hay không kiểm soát các tổ chức tôn giáo là thuộc “Quyền dân tộc tự quyết”. Tuy nhiên nếu một quốc gia nào đó (được cho là) không kiểm soát tín ngưỡng, tôn giáo thì xã hội thường phải trả giá đắt. Theo tin nước ngoài, cảnh sát Hoa Kỳ đã từng giải cứu hơn 400 đứa trẻ thuộc giáo phái Đa thê[1] ở bang Texas, Mỹ. Giáo phái này do Warren Jeffs cầm đầu. Y có đến 70 vợ. Trong đời sống của các gia đình giáo phái Đa thê trẻ em là những nạn nhân đầu tiên. Trong nhiều gia đình giáo phái Đa thê có không ít trẻ em trai, trẻ em gái bị lạm dụng tình dục, có không ít bé gái đã trở thành “bà mẹ” ở “tuổi teen”.
Ở Nhật Bản, giáo phái Aum[2] đã xả chất độc thần kinh sarin tấn công đường tàu điện ngầm ở thủ đô Tokyo (1995) là một vài ví dụ về cái gọi là “quyền Tự do” về tôn giáo mà Phúc trình của Hoa Kỳ vừa lấy làm “chuẩn” trong “Phúc trình thường niên 2016 về tự do tôn giáo thế giới”. Việc Nhà nước Việt Nam yêu cầu các tổ chức tôn giáo phải đăng ký mới có quyền hoạt động hợp pháp và mới được Nhà nước bảo hộ (mà Phúc trình của Hoa Kỳ vừa công bố) đơn giản chỉ nhằm bảo vệ quyền cho các tôn giáo và bảo vệ xã hội phù hợp với “Quyền dân tộc tự quyết”.
Ngay sau khi bản phúc trình thường niên nói trên được công bố, nhiều quốc gia bày tỏ thái độ bất bình về việc Hoa Kỳ can thiệp vào công việc nội bộ của mình. Không ít quốc gia nói rằng: Thay vì tán phát “những tài liệu vô căn cứ”, can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác Hoa Kỳ hãy “lo chuyện nội bộ của mình”. Chẳng hạn như vụ bạo lực ở Charlottesville (bang Virginia, Mỹ) ngày 12-8 vừa qua khiến 1 người chết thê thảm và hàng chục người bị thương. Thống đốc Virginia Terry McAuliffe đã phải ban bố tình trạng khẩn cấp.
Phát biểu về sự kiện này nhiều người cho rằng, Hoa Kỳ luôn luôn tiềm ẩn nhiều nguy cơ xã hội từ việc thiếu tôn trọng và bảo đảm quyền con người, đặc biệt là quyền bình đẳng của người da màu, người nhập cư và người theo đạo Hồi. Cựu Ngoại trưởng John Kerry thì cho rằng, vụ việc tại Charlottesville phải gọi là “thù hận, tội ác, phân biệt chủng tộc và cực đoan nội địa” (ở Hoa Kỳ).
Hiện nay, trên nhiều trang mạng, lợi dụng “Phúc trình thường niên 2016 về tự do tôn giáo thế giới” của Hoa Kỳ đã tán phát không ít thông tin thất thiệt, ác ý rằng: Cộng sản “vô thần” nên không có gì khó hiểu Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam hạn chế, gây khó dễ nhằm xóa bỏ tôn giáo. Sự thật như thế nào? Nhân đây xin được cung cấp thông tin quan điểm của Đảng cộng sản về tín ngưỡng, tôn giáo. Văn kiện Hội nghị Trung ương 7 của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận của khối đại đoàn kết toàn dân tộc”[3].
Việc một số cá nhân hoặc một số nhóm tôn giáo bị các cơ quan chức năng xử lý hình sự, trấn áp như bắt Hoàng Đức Bình, hoặc nhắc nhở linh mục Đặng Hữu Nam, Nguyễn Đình Thục trong vụ việc cố tình tụ tập đông người gây rối trật tự công cộng, cản trở giao thông trên Quốc lộ 1A ở Diễn Châu, Nghệ An với lý do là “đòi Fomosa bồi thường”, vào tháng 4-2017 (sau vụ Fomosa gây ô nhiễm diện rộng…) là điều tất nhiên, là vì họ vi phạm pháp luật chứ hoàn toàn không phải vì lý do tôn giáo vì họ có đạo. Sự trừng phạt này là vì lợi ích chung của cả xã hội. Còn nhớ ở châu Phi, Trung Đông những lực lượng đối lập được nước ngoài trợ giúp cũng đã từng biểu tình “bất bạo động” gây rối trật tự công cộng để lật đổ chế độ xã hội hiện hữu và tạo cớ cho nước ngoài can thiệp. Đây là kịch bản “kinh điển” của “cách mạng sắc màu” thập kỷ trước mà Việt Nam không thể lơ là.
“Phúc trình thường niên 2016 về tự do tôn giáo thế giới” và “Phúc trình về tình hình nhân quyền thế giới” thường niên do Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ biên soạn ra đời từ thời kỳ Chiến tranh lạnh. Trong thời kỳ đó, thế giới bị chia thành hai hệ thống xã hội: Xã hội xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Hai hệ thống xã hội này không chỉ khác biệt mà còn đối đầu với nhau. Tình hình ngày nay đã khác. Các quốc gia với hệ tư tưởng, thể chế chính trị xã hội khác nhau, không còn đối lập nhau nữa. Hoa Kỳ và Việt Nam ngày nay đã trở thành đối tác toàn diện. Văn kiện “Đối tác toàn diện” được nguyên thủ hai quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ ký kết năm 2013 đã ghi nhận nguyên tắc các bên “tôn trọng” Hiến chương Liên hợp quốc và thể chế chính trị của nhau.
Thiết nghĩ những người soạn thảo và thông qua “Phúc trình thường niên 2016 về tự do tôn giáo thế giới” hãy xóa bỏ tàn dư tư duy chính trị thời kỳ Chiến tranh lạnh, không can thiệp vào công việc của Việt Nam, không làm tổn thương đến quan hệ giữa hai quốc gia và tình cảm của hai dân tộc.
BẮC HÀ
-------------------------------------------------------------
[1] - Giáo phái Đa thê ở Mỹ-VnExpress-19-8-2017
[2] - Trùm giáo phái Aum và con đường dẫn tới án tử hình-VnExpress-27-2-2004 
[3] - Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội nghị Trung ương 7, khóa IX  (2003)

Lọc hoá dầu Nghi Sơn còn thiếu nhiều hạng mục bảo vệ môi trường

Thứ hai, 21/8/2017 | 10:23 GMT+7
|

Chỉ còn vài tháng nữa là vận hành thương mại nhưng lọc hoá dầu Nghi Sơn còn thiếu nhiều hạng mục bảo vệ môi trường.

Theo kế hoạch, quý 1/2018, nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn (Khu kinh tế Nghi Sơn, huyện Tĩnh Gia, Thanh Hóa) sẽ vận hành thương mại, tuy nhiên tại cuộc kiểm tra liên ngành đầu tháng 8 cho thấy, dự án này vẫn còn nhiều hạng mục về đảm bảo môi trường chưa được thực hiện.
loc-hoa-dau-nghi-son-con-thieu-nhieu-hang-muc-bao-ve-moi-truong
Nhà máy Lọc hoá dầu Nghi Sơn sắp vận hành thương mại. Ảnh: Lê Hoàng.
Theo kết luận của Phó chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa Nguyễn Đức Quyền, đến nay lọc hóa dầu Nghi Sơn chưa xây dựng hồ điều hòa, bể chỉ thị sinh học; chưa lắp đặt bổ sung hệ thống quan trắc tự động nước thải sau xử lý; hệ thống quan trắc tự động khí thải, camera giám sát.
Ngoài ra, nhà máy này cũng chưa nộp báo cáo giám sát môi trường định kỳ quý một, quý hai năm 2017; chưa có phương án quản lý tốt nguồn phóng xạ, nguồn hóa chất theo quy định; hệ thống phòng cháy chữa cháy chưa hoàn chỉnh...
Để đảm bảo an toàn, tránh những sự cố đáng tiếc có thể xảy ra, UBND tỉnh Thanh Hóa yêu cầu lọc hóa dầu Nghi Sơn khẩn trương xây dựng các hạng mục về bảo vệ môi trường còn thiếu. Trong đó, nhà máy phải lắp đặt đầy đủ hệ thống lưu giữ nước thải trong quá trình chạỵ thử vào hồ ứng phó sự cố, để xử lý đạt tiêu chuẩn mới cho xả ra môi trường.
Hiện nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn đang vận hành thử nghiệm một số hạng mục như hệ thống xử lý nước thải tập trung, nước khử khoáng, nước làm mát, các tổ máy phát điện và hơi…
Liên hợp lọc hoá dầu Nghi Sơn có tổng vốn đăng ký đầu tư chín tỷ USD, diện tích gần 400 ha trên bờ và hơn 900 ha mặt nước, công suất 10 triệu tấn dầu thô mỗi năm.
Lê Hoàng   |  

Bộ Tài chính họp, chỉ một chuyên gia kinh tế ủng hộ đề xuất tăng thuế

Dân trí Một chuyên gia kinh tế có mặt tại cuộc họp cho biết: "Tại cuộc họp, phần lớn các chuyên gia không ủng hộ đề xuất tăng thuế VAT từ 10% lên 12%, chỉ có duy nhất một chuyên gia ủng hộ hết mình".
 >> "Phải giảm chi thường xuyên trước khi nghĩ tăng thuế VAT"
 >> Đề xuất "sốc" tăng thuế VAT: Người nghèo chịu hậu quả nặng nề hơn
 >> TS Trần Du Lịch: "Không nên đặt vấn đề tăng thuế lúc này"

Tăng thuế VAT sẽ tạo thêm gánh nặng cho người thu nhập thấp.
Tăng thuế VAT sẽ tạo thêm gánh nặng cho người thu nhập thấp.
Theo nguồn tin của Dân trí, cuối tuần trước, Bộ Tài chính đã tổ chức một cuộc họp với một số chuyên gia kinh tế để lấy ý kiến về dự án luật sửa đổi, bổ sung năm luật thuế (thu nhập cá nhân, giá trị gia tăng, thu nhập doanh nghiệp, tiêu thụ đặc biệt và thuế tài nguyên).
Chỉ duy nhất 1 chuyên gia ủng hộ
Một chuyên gia kinh tế có mặt tại cuộc họp cho biết: "Tại cuộc họp, phần lớn các chuyên gia không ủng hộ đề xuất tăng thuế VAT từ 10% lên 12%, chỉ có duy nhất một chuyên gia ủng hộ hết mình".
Vị chuyên gia cũng cho biết, nhiều chuyên gia cho rằng, Bộ Tài chính chưa đưa ra được luận cứ cho thấy đề xuất tăng thuế là chưa hợp lý cũng như chưa đưa ra mức độ đánh giá tác động của tăng thuế đến kinh tế vĩ mô, an sinh xã hội.
Trao đổi với PV Dân trí, chuyên gia kinh tế, TS Nguyễn Trí Hiếu cho biết: "Riêng tôi chưa ủng hộ được vì chưa thấy thuyết phục. Thứ nhất, Bộ Tài chính chưa đưa ra được thống kê và luận chứng cụ thể nếu tăng VAT thì bổ sung ngân sách được bao nhiều và tác động thế nào tới đời sống người dân".
Theo ông Hiếu, Bộ Tài chính đưa ra luận chứng VAT của Việt Nam rất thấp so với các nước, ví dụ như EU lên tới 20% là "không thuyết phục".
Vị chuyên gia lấy ví dụ tại Mỹ có thuế tương tự VAT, nhưng không phải VAT mà là thuế cho bán hàng, áp dụng cho người tiêu dùng cuối cùng khi mua 1 món hàng phải trả thuế 5%, 7%, hoặc 10% tuỳ bang nhưng trong quá trình sản xuất qua bao nhiêu công đoạn thì không phải trả thuế đó.
Trong khi đó, ở Việt Nam, thuế VAT cơ cấu khác, cứ mỗi một công đoạn từ người sản xuất cho tới ng mua hàng tiếp theo thì người mua hàng phải trả thuế VAT cho công đoạn đó. Theo đó, nếu từ sản xuất qua tiêu dùng chỉ 1 công đoạn thì thuế chỉ 10% nhưng qua nhiều công đoạn, mỗi công đoạn lại phải nộp 10%, thành ra người tiêu dùng phải trả hết tất cả VAT từ các công đoạn đó thực tế sẽ lớn hơn 10%.
Bên cạnh đó, ông Hiếu cũng cho rằng, thu nhập bình quân của Việt Nam thấp, chỉ trên 2.000 USD. Do đó, với người giàu có, VAT tăng 10% lên 12% sẽ không đáng kể và dễ dàng chịu được. Tuy nhiên, với người thu nhập thấp, chỉ vài trăm USD mỗi năm, thì 2% rất nhiều. Ngoài ra, không chỉ mặt hàng họ tiêu thụ tăng giá mà tất cả hàng hoá liên quan cũng tăng, thành ra tác động với người nghèo rất lớn.
"Nợ công và thâm hụt không phải nằm ở thu mà ở chi, tôi cho rằng, hiện tại Bộ Tài chính mới chỉ tập trung vào 5 luật thuế mà sử dụng ngân sách đầu ra chưa nói đến là thiếu sót. Để cân đối phải nhắm cả 2 đầu, làm sao để giảm và hiệu quả hoá", ông nói thêm.
Gánh nặng thuế khoá đang rất nặng nề
Trao đổi với báo chí, chuyên gia kinh tế Huỳnh Thế Du (Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright tại TPHCM) cho rằng, so với các nước trong khu vực, gánh nặng thuế khóa ở Việt Nam đang rất nặng nề. Chi tiêu ngân sách đang rất khủng cho một nhà nước rất cồng kềnh và kém hiệu quả.
Cụ thể, năm 2016 tỷ lệ thu ngân sách/GDP chiếm tới 22,5%, cao hơn rất Singapore, Thái Lan, Indonesia, Hong Kong, Hàn Quốc, Philippine, Maylaysia và chỉ thấp hơn so với Nhật Bản. Tỷ lệ chi ngân sách ở Việt Nam năm 2016 chiếm tới 28,3% GDP và cũng cao hơn một loạt các nước kể trên, chỉ thấp sau Nhật Bản.
Theo vị chuyên gia, điều này cho thấy gánh nặng thuế khoá rất nặng nề, ảnh hưởng lớn tới người dân, doanh nghiệp và sức cạnh tranh trực diện của nền kinh tế. Đặc biệt, đối với doanh nghiệp vốn sức cạnh tranh đã yếu, việc tăng thuế sẽ làm sức cạnh tranh của hàng Việt.
“Người dân đang phải chịu gánh nặng thuế khoá rất nặng nề so với thu nhập của họ. Vấn đề không phải là tăng thuế mà là chi tiêu, chi cho hợp lý, hiệu quả, làm sao giảm được bộ phận biên chế ăn không ngồi rồi", ông Du nói.
Theo ông Du, Nhà nước kiến tạo là một nhà nước phải hiệu quả, giúp cho đời sống của người dân dễ chịu hơn, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp dễ dàng hơn chứ không phải ngày càng tạo thêm gánh nặng cho người dân và doanh nghiệp, nhất là những người có vị thế bất lợi hơn trong xã hội.
"Do vậy, việc cần làm hiện nay là tinh giản bộ máy và cắt giảm chi tiêu để tạo ra một nhà nước hiệu quả hơn chứ không phải là tiếp tục tăng thuế và tăng các nguồn thu, nhất là loại thuế đánh vào người nghèo (có tính lũy thoái) như thuế VAT", ông nói thêm.
Phương Dung

Góc khuất dự án BOT: Tại sao phải dùng hợp đồng bảo mật?

Do kiểm soát chưa đầy đủ, chặt chẽ, các dự án BOT bị biến tướng, bộc lộ nhiều lỗ hổng...

Góc khuất dự án BOT: Tại sao phải dùng hợp đồng bảo mật?
Trạm thu phí BOT Pháp Vân - Cầu Giẽ.
TRÍ ANH
Năm 2011-2012, trong bối cảnh kinh phí hạn hẹp, buộc phải thắt chặt đầu tư công, việc hút vốn tư nhân phát triển cơ sở hạ tầng giao thông được coi là mở ra lối thoát, giúp hàng ngàn km đường bộ được xây dựng mới. Tuy nhiên, do kiểm soát chưa đầy đủ, chặt chẽ, các dự án BOT bị biến tướng, bộc lộ nhiều lỗ hổng.

Tại nhiều nước phát triển, chính phủ buộc phải dùng ngân sách để đầu tư vào hạ tầng đường bộ. Vì thế, đường sá trở thành một thứ dịch vụ công ích. Tuy nhiên, với các nước đang phát triển, do không có kinh phí, nên phải vay vốn ODA với những điều khoản ràng buộc nhất định cho nước được vay vốn. 

Vì thế, việc Chính phủ Việt Nam có thể huy động được khoảng 200.000 tỷ đồng từ nguồn vốn tư nhân trong nước để xây dựng hơn 1.500 km đường có thể coi là một thành tựu. Tuy nhiên, khi dòng tiền đổ vào các dự án BOT lại chưa được kiểm soát chặt, khiến một số BOT có vấn đề.

Nhiều BOT chỉ định thầu
Tại bản Kết luận thanh tra số 1423 của Thanh tra Chính phủ, chỉ rõ: qua tiến hành thanh tra 7 DA (5 dự án BOT, 1 dự án BT, 1 dự án kết hợp BOT và BT) bao gồm: BOT đèo Phước Tượng - Phú Gia. Nâng cấp tuyến Pháp Vân – Cầu Giẽ. Xây dựng đường Hòa Lạc - Hòa Bình. Cải tạo nâng cấp QL 6 (đoạn Xuân Mai - Hòa Bình). Khôi phục cải tạo QL 20 (Km 123+105 đến Km 268). Đầu tư xây dựng QL 20 (Km 0+000 đến Km 123+105). Đầu tư xây dựng tuyến Thái Nguyên - Chợ Mới. Nâng cấp QL 38 (đoạn qua Bắc Ninh và Hải Dương)... Bộ Giao thông Vận tải đã không thực hiện đầy đủ quy trình xây dựng và công bố danh mục dự án kêu gọi đầu tư theo quy định. 

Với 78 dự án dự án đầu tư theo hình thức BOT và BT tại Bộ Giao thông Vận tải, Thanh tra Chính phủ chỉ rõ, 100% đều là chỉ định thầu mà không tổ chức đấu thầu với lý do chỉ có một nhà đầu tư tham gia hoặc do tính cấp bách của dự án nhưng không có quy trình, thủ tục đánh giá hay xác định thế nào là cấp bách. 

Một số nhà đầu tư được lựa chọn có năng lực hạn chế, không đáp ứng yêu cầu của dự án. Như 3/4 công ty trong liên danh nhà đầu tư được lựa chọn để thực hiện dự án hầm đường bộ Phước Tượng - hầm Phú Gia đã không góp được vốn theo cam kết phải rút khỏi liên danh và xin giảm tối đa tỷ lệ vốn góp. Liên danh phải mời gọi nhà đầu tư thay thế dẫn đến chậm tiến độ.

Theo các chuyên gia giao thông, việc chỉ định thầu khiến cho công tác đấu thầu, chọn thầu thiếu minh bạch. Điều này làm nảy sinh thêm các góc khuất về chi phí đầu tư, phương cách tính toán tài chính, dự báo lưu lượng xe. Thậm chí, cố tình sửa chữa những tuyến đường cũ rồi đưa vào thu phí như tuyến đường mới (ví dụ như BOT Pháp Vân – Cầu Giẽ), hoặc thu phí trên cả 2 tuyến đường khiến người dân không có quyền lựa chọn. Có những dự án, nhà đầu tư xây đường chỗ vắng, nhưng đặt trạm tại điểm đông xe để thu phí. 

Tại sao phải dùng hợp đồng bảo mật?

Những góc khuất trong quá trình thẩm định, đấu thầu, tư vấn thiết kế đã khiến cho phương án tài chính của BOT thiếu chính xác đã gây ra gánh nặng cho người dân và doanh nghiệp tham gia giao thông vì thời gian thu phí quá dài. Điển hình nhất là trạm thu phí BOT Tào Xuyên vừa bị Bộ Giao thông Vận tải “tuýt còi”, giảm thời gian thu từ 27 năm xuống còn 7 năm đã đủ hoàn vốn. Câu hỏi đặt ra là tại sao không thể minh bạch các hợp đồng tài chính BOT? 

Hầu như các hợp đồng BOT đều kèm theo một điều khoản bảo mật. Theo đó, các bên không được tiết lộ những thông tin về pháp lý, tài chính, thương mại, kỹ thuật và các nội dung liên quan của hợp đồng và dự án. 

Về vấn đề này, nhiều chuyên gia giao thông, luật sư và dư luận yêu cầu làm rõ, nhưng đã vấp phải nhiều tranh luận. TS. Phạm Sanh, chuyên gia giao thông cho biết, hiện nay hầu hết các quốc gia đều đã cấm những điều khoản bảo mật trong hợp đồng. 

“Tại nhiều quốc gia, họ cho rằng quyền lực nhà nước là do dân ủy quyền cho. Cho nên khi Nhà nước nhân danh người dân ký kết hợp đồng với bên khác thì phải công khai cho dân biết. Một dự án đường bộ không liên quan đến quốc phòng, an ninh nên không thể được xếp vào diện bí mật Nhà nước để giữ bí mật với nhân dân. Hơn nữa, cần phải thống nhất rằng: minh bạch là giải pháp duy nhất để loại bỏ những tiêu cực tại dự án BOT. Nếu còn bảo mật sẽ còn nhiều góc khuất tại các BOT”, ông Sanh nhấn mạnh.

Để Trung Quốc rầm rộ thâu tóm bất động sản Việt rồi kiện đòi lãnh thổ được không?; Đứng 27 về phát thải khí vì VN 'nghiện' công nghệ TQ?; Điện than Việt Nam lo phụ thuộc nước ngoài

Duy Anh

Kể từ đầu năm đến nay, các tỉnh thành trên khắp cả nước ghi nhận có sự xuất hiện khá dày đặc của những thương vụ chuyển nhượng hoặc lên kế hoạch thâu tóm các dự án bất động sản từ phía nhà đầu tư Trung Quốc. Lạ ở chỗ, các dự án mà TQ thâu tóm hoặc là nằm ở những vị trí đắc địa, hoặc là đang đứng bên bờ phá sản, không thể cứu vớt. Người dân Việt Nam đã từng lãnh không ít quả đắng từ việc làm ăn kinh doanh với TQ, vậy đằng sau các vụ thâu tóm bất động sản Việt, ngoài mục tiêu kinh tế, các doanh nghiệp TQ còn có những âm mưu, thủ đoạn thâm độc nào?
clip_image002 
Đằng sau các vụ thâu tóm bất động sản Việt, ngoài mục tiêu kinh tế, các doanh nghiệp TQ còn có những âm mưu, thủ đoạn thâm độc nào?

“Kền Kền” nhặt “xác chết” bất động sản, doanh nghiệp Việt thua ngay tại sân nhà

Hiện nay dòng vốn đầu tư dày đặc của Trung Quốc ồ ạt tiến vào Việt Nam có thể được ví như những con “kền kền” lợi dụng lúc bất động sản đi xuống, hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước đang rơi vào cảnh túng quẫn, kẹt tiền vội vã bán lại các dự án “xác chết” để thâu tóm với cái giá rẻ bèo, như đồ “đồng nát”.
Chưa hết, do quy định pháp luật Việt Nam vẫn chưa rõ ràng, nên các nhà đầu tư TQ khi vào nước ta chỉ mang theo mấy chục triệu, trăm triệu USD trong khi dự án là hàng tỷ USD, sau đó vay vốn tại nước ta, làm dự án bất động sản. Tức là TQ dùng chính vốn của VN, kiếm lời từ chính dân VN. Trường hợp không có lãi nước này sẽ tìm cách bỏ chạy, họ không mất gì còn VN thì ốm một đống tài sản bỏ dở dang.
Trường hợp mới nhất là vụ quỹ đầu tư VinaLand Limited và VinaCapital Vietnam Opportunity Fund Limited VOF (thuộc VinaCapital) công bố đã thoái toàn bộ vốn nắm giữ tại dự án Đại Phước Lotus (tại Đồng Nai) cho một tập đoàn đến từ Trung Quốc là China Fortune Land Development Co., Ltd. (CFLD) vào tháng 4 vừa qua. Do đuối sức, không thể tiếp tục triển khai các dự án, VinaCapital đã quyết định “trao tay” các dự án do Tập đoàn TQ với cái giá thấp hơn mong đợi rất nhiều.
Nhìn ở tầng vĩ mô, các doanh nghiệp ngoại sau những vụ thâu tóm, từ người đứng ngoài cuộc trở thành người dẫn dắt thị trường cũng như các hoạt động kinh tế của Việt Nam. Lúc này TQ trở thành một trong những nhân tố có thể làm thay đổi tính chất hay cấu trúc nền kinh tế theo ý đồ mà nước này muốn. Tức kinh tế Việt Nam nằm gọn trong tay Trung Quốc, muốn bóp chết lúc nào cũng được, nhất là khi TQ muốn dành lợi thế trên mặt trận chủ quyền.
clip_image004
Dự án Khu đô thị Đại Phước Lotus nằm trên đảo Đại Phước, giáp ranh Sài Gòn – Đồng Nai.
Đáng lo ngại hơn, dưới sự điều hành, quản lý của những ông chủ mới giàu có về mọi mặt, các thương hiệu Việt sau khi bị TQ thâu tóm, cũng dần bị thay đổi về cách thức kinh doanh theo chiến lược mới, từ đó thay tên đổi họ, thậm chí tên tuổi vốn có cũng dần bị khai tử. Thực tế cho thấy, hàng loạt những thương hiệu Việt từng được người tiêu dùng ưa chuộng trước đây như Dạ Lan (kem đánh răng), Mỹ Hảo và X-Men (hóa mỹ phẩm), rồi đến Tribeco (nước uống), Bibica (bánh kẹo), Phở 24 và Highlands Coffee,… đã lần lượt vào tay các thương hiệu ngoại như Unilever, Uni-President (Đài Loan), Lotte (Hàn Quốc) và Jollibee (Philippines)… rồi từ từ mất hút trên thị trường.

Không chỉ là kinh tế, “kền kền” còn có âm mưu “rỉa” cả chủ quyền lãnh thổ

Một điểm cần lưu ý trước các vụ thâu tóm này đó là các “kền kền” Trung Quốc “ăn” tất cả, bất chấp doanh nghiệp đang ở bên bờ vực phá sản hay đang ăn nên làm ra. Điều này khiến người ta nghi ngại các thương vụ mua lại của TQ chỉ nhằm phục vụ cho các mục đích phi kinh tế. Cũng cần lưu ý rằng, một khi đã mua đứt các dự án bất động sản và các khu đất vàng, đến khi Việt Nam muốn đòi lại để phục vụ cho lợi ích quốc gia, một quốc gia tham lam, ích kỷ như Trung Quốc liệu có sẵn sàng trả lại?
Quan trọng hơn, các dự án bất động sản chính là con đường giúp TQ đưa người dân sang cư trú bất hợp pháp tại Việt Nam, mà cộng đồng người Hoa lại được xem là một trong những vũ khí giúp TQ tuyên truyền chủ quyền phi pháp của mình. Họ chính là những người từng mang theo visa có in hình “Đường lưỡi bò” đi khắp các nước, cũng là những cộng đồng đã lập nên “phố Trung Quốc” ăn dầm ở dề tại Việt Nam, lợi dụng du lịch để làm việc chui, xuyên tạc chủ quyền và lịch sử nước ta, mở rộng kinh doanh để phổ biến tiền Nhân dân tệ,… Mục đích sau cùng của loạt hành động này là gì, là để tẩy não dân tộc ta và khách du lịch khắp nơi trên thế giới, biến không thành có chủ quyền, biến nước ta thành lãnh thổ của chúng?
clip_image006
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan từng bày tỏ sự lo ngại về số lượng người TQ tại Hà Tĩnh rằng: “Mức độ có mặt của người TQ nhiều đến mức có thể cắt Việt Nam làm đôi”. Việc mất đất vào tay Trung Quốc, cộng với số lượng lớn người TQ ồ ạt định cư tại Việt Nam, đặc biệt là ở những vị trí địa lý quan trọng, khiến người ta không thể không hoài nghi về một kế hoạch lập căn cứ quân sự, đóng quân để tấn công Việt Nam bất cứ khi nào của Trung Quốc.
Thật vậy, trên khắp dải đất hình chữ S, Trung Quốc từng lập nhiều âm mưu tinh vi phục vụ cho mục tiêu xâm chiếm lãnh thổ nước ta và may mắn được báo chí phanh phui kịp thời, như: Cty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam (bị TQ thâu tóm từ năm 2011) có ý định thuê 96 ha đất, kéo dài hơn 2 km dọc theo bờ biển, gần cảng Cửa Việt nhằm mục đích “lập căn cứ quân sự”, phục vụ cho việc chia cắt VN bằng lực lượng hải quân khi chiến sự xảy ra; Cty TNHH MTV Bãi Chuối (chủ là người Hoa) xin chính quyền tỉnh Thừa Thiên – Huế cấp 100 ha đất ở khu vực Bãi Chuối thuộc khu vực đèo Hải Vân, một khu vực đặc biệt trọng yếu về an ninh quốc phòng;…
Gần đây nhất, tập đoàn Trung Quốc China Fortune Land Development Co., Ltd. (CFLD) vừa hợp tác với Tổng Công ty Tín Nghĩa để phát triển Khu Đô thị Đông Sài Gòn và Khu Công nghiệp Ông Kèo tại tỉnh Đồng Nai – hai dự án có vị trí liền kề với Sân bay Quốc tế Long Thành sẽ hình thành trong tương lai. Tức là, khi có biến, đội quân TQ nằm vùng ở đây có thể nhanh chóng tấn công vào sân bay Long Thành gây ách tắc giao thông và làm trì trệ đường vận chuyển vũ khí của quân đội ta.
Việt Nam từng có nhiều bài học cay đắng về những thứ có liên quan đến “yếu tố TQ”, thế nhưng hiện nay các chính sách, các ưu đãi dành cho nhà đầu tư nước ngoài, cùng tầm nhìn hạn hẹp của các doanh nghiệp Việt đang đẩy sự sống còn của nền kinh tế cho quốc gia láng giềng. Chưa kể, sau kinh tế, còn biết bao nhiêu hệ lụy đính kèm có thể xảy đến như mất đất, mất nước, gây bất ổn xã hội,… Và với lòng tham luôn hăm he xâm lược Việt Nam, thì đúng như một người Nhật từng nói: “Trung Quốc chiếm trọn Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian”.
D.A.
Nguồn: http://bluevn.info/de-trung-quoc-ram-ro-thau-tom-bat-dong-san-viet-roi-kien-doi-lanh-tho-duoc-khong.html

Đứng 27 về phát thải khí vì VN 'nghiện' công nghệ TQ?

(Khoa học) - Trung Quốc đứng thứ nhất, Việt Nam xếp thứ 27 về lượng phát thải khí gây ra hiệu ứng nhà kính, chiếm tỉ lệ 0,72%.

Hội nghị triển khai thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu do Bộ Tài nguyên và môi trường vừa tổ chức ngày 18/8 tại TP.HCM.
Dung 27 ve phat thai khi vi VN 'nghien' cong nghe TQ?
Việt Nam đứng thứ 27 thế giới về lượng khí phát thải
Tại hội nghị, ông Phạm Văn Tấn - phó cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu, Bộ TN-MT cung cấp số liệu cập nhật đến tháng 8/2017 cho thấy trong số 195 quốc gia đã ký Thỏa thuận Paris, Trung Quốc dẫn đầu về lượng phát thải khí nhà kính, chiếm 20,09%.
Mỹ xếp thứ hai, chiếm tỉ lệ 17,89% lượng phát thải khí nhà kính toàn cầu, nhưng Tổng thống Mỹ Donald Trump vừa tuyên bố rút khỏi Thỏa thuận Paris. Việt Nam xếp thứ 27 trong số 195 nước, với lượng phát thải khí nhà kính chiếm 0,72%.
Thứ trưởng Bộ TN-MT Võ Tuấn Nhân nói thêm, biến đổi khí hậu là do khí nhà kính (khí gây ra hiệu ứng nhà kính) mà theo ông, có tới 95% khí nhà kính là do con người tạo ra, chỉ 5% là từ thiên nhiên.
Thực tế điều này đã được các chuyên gia cảnh báo từ lâu. Trong bối cảnh đại đa số doanh nghiệp Việt Nam "nghiện" công nghệ Trung Quốc và bị tụt hậu về công nghệ thì nguy cơ gây phát thải khí nhà kính là rất lớn.

Bỏ qua
Tại báo cáo do Bộ Khoa học và Công nghệ mới đưa ra, có tới gần 90% doanh nghiệp dùng công nghệ lạc hậu so với thế giới, 76% máy móc, dây chuyền công nghệ nhập khẩu thuộc những năm 50, 60 trong đó 75% số thiết bị đã hết khấu hao.
Chỉ có 10% doanh nghiệp sử dụng công nghệ hiện đại, trong đó chỉ có 2% sử dụng công nghệ cao. Tỷ lệ này thua xa các nước láng giềng như Thái Lan (31%), Malaysia (51%) và Singapore (73%).
Trong khi đó, Việt Nam vẫn đẩy mạnh việc mở rộng việc phát triển nhiệt điện than để cung cấp nguồn điện chính cho quốc gia, đây vẫn được xem là loại hình phát điện gây ô nhiễm rất lớn. Vì vậy, nhiều quốc gia đã dừng xây dựng và sử dụng các nhà máy nhiệt điện than.
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh cho biết, ở các khu vực có nhà máy nhiệt điện than đang phải gánh chịu các hậu quả môi trường không phải là điều không ai nhìn thấy. Đi tới các khu vực gần nhà máy nhiệt điện than, khung cảnh tan hoang, ảnh hưởng môi trường rất nặng nề và chưa có giải pháp đặc biệt nhằm giám sát quản lý để hạn chế. Ô nhiễm từ các nhà máy nhiệt điện than bao gồm ô nhiễm không khí và ô nhiễm nguồn nước. Khí thải từ việc đốt than và nhiệt độ nước cao từ hệ thống làm mát thải ra.
Ông Thịnh nói thêm, các loại máy móc, thiết bị của nhiệt điện than thì hầu hết là các loại công nghệ cũ, máy móc mới rất ít, vì thế giới đã không còn quan tâm đến phương thức phát triển điện này nữa nên họ không chú trọng sản xuất các loại hình máy móc trong lĩnh vực này.
"Nếu Việt Nam không cẩn trọng với xu hướng đầu tư từ phía Trung Quốc thì thời gian tới, chúng ta sẽ phải đi xử lý các tác hại do nhiệt điện than gây ra. Hệ quả này có thể còn tốn kém hơn nhiều so với nguồn vốn đầu tư cũng như việc xây dựng các nhà máy nhiệt điện than. Do đó, các nhà quản lý đầu tư phải cực kỳ thận trọng khi chấp nhận đầu tư, xây dựng nhiệt điện than".
Thái An (tổng hợp)

Điện than Việt Nam lo phụ thuộc nước ngoài

Trung Quốc đang là nhà đầu tư lớn trong ngành năng lượng của VN /// Ảnh: Đào Ngọc Thạch
Trung Quốc đang là nhà đầu tư lớn trong ngành năng lượng của VNẢNH: ĐÀO NGỌC THẠCH
Với hầu hết các dự án nhiệt điện than là của nhà đầu tư Trung Quốc và sẽ phải nhập một lượng than lớn, an ninh năng lượng của chúng ta có nguy cơ phụ thuộc nặng vào nước ngoài.
Từ công nghệ, vốn, đến... chủ đầu tư Trung Quốc
Thống kê đến cuối năm 2016 của Trung tâm phát triển sáng tạo xanh (GreenID) cho biết, trong 27 nhà máy nhiệt điện than đang vận hành thì các công ty Trung Quốc là tổng thầu EPC (thiết kế - mua sắm thiết bị - xây dựng) cho 14 nhà máy. Nguồn tài chính của những nhà máy này xuất phát từ các ngân hàng Trung Quốc với khoảng 8 tỉ USD, tương đương 50% vốn nước ngoài đầu tư vào nhiệt điện than tại VN.
Cũng theo GreenID, VN có 11 dự án nhiệt điện than quy mô tỉ USD theo hợp đồng BOT ở khắp cả nước, các doanh nghiệp (DN) Trung Quốc từ tổng thầu đã trực tiếp đầu tư và tham gia vào các liên danh đầu tư. Điển hình là trường hợp Nhiệt điện Vĩnh Tân 1 (Bình Thuận) có tổng vốn đầu tư dự kiến 1,755 tỉ USD. Chủ đầu tư dự án là tổ hợp 2 DN Trung Quốc chiếm tới 95% vốn và 5% vốn còn lại thuộc Tổng công ty điện lực thuộc Tập đoàn TKV. Nguồn vốn cho dự án này cũng được cấp từ tổ hợp 5 ngân hàng Trung Quốc với tổng vốn vay 1,4 tỉ USD.
Hay ở trường hợp dự án Nhà máy nhiệt điện Hải Dương có tổng vốn đầu tư gần 2 tỉ USD do Tập đoàn Jaks Resources Bhd (Malaysia) làm chủ đầu tư. Tuy nhiên, do chủ đầu tư không thể triển khai dự án và đã bán 50% cổ phần tại dự án này cho Tập đoàn điện lực Trung Quốc (CPECC). Một dự án khác cũng mang “màu sắc” Trung Quốc là Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 2, thuộc Trung tâm điện lực Duyên Hải (Trà Vinh) có tổng công suất 1.200 MW, vốn đầu tư 2,2 tỉ USD do Công ty JanaKuasa (Malaysia) làm chủ đầu tư. Nhà máy này được cho phép chỉ định tổng thầu EPC là Công ty Huadian Engineering của Trung Quốc.
Điện than Việt Nam lo phụ thuộc nước ngoài - ảnh 1
Nguồn: Tổng cục Hải quan - đồ họa: du sơn
DN Trung Quốc còn tham gia vào những liên danh với DN đến từ các nước có trình độ cao. Điển hình là Nhà máy nhiệt điện Mông Dương 2 (Quảng Ninh), tổng vốn đầu tư 2,1 tỉ USD, công suất 1.240 MW, chủ đầu tư là Công ty TNHH AES Mông Dương, được thành lập từ 3 DN: Tập đoàn AES của Mỹ chiếm 51% vốn, Posco Energy của Hàn Quốc với 30%, Tập đoàn đầu tư Trung Quốc - CIC chiếm 19% vốn. Nhà máy này đi vào vận hành thương mại từ tháng 4.2015.
Nhiều rủi ro
Không chỉ các chủ đầu tư nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc, chiếm đa số, phát triển nhiệt điện than của chúng ta ngày càng phụ thuộc vào nguồn than nhập khẩu. Theo Quy hoạch điện 7, đến năm 2020 VN phải nhập đến 50 triệu tấn than, năm 2030 là 80 triệu tấn. Các nhà máy đang và chuẩn bị xây dựng như Vũng Áng, Vĩnh Tân, Duyên Hải... phải sử dụng than nhập khẩu do than trong nước không phù hợp. Thống kê của Tổng cục Hải quan 4 tháng đầu năm nay cho thấy VN nhập khẩu than đạt trên 4,6 triệu tấn (chủ yếu từ Indonesia và Úc), giá trị gần 500 triệu USD; tuy giảm 2,4% về lượng nhưng tăng mạnh trên 72% về kim ngạch (do giá tăng) so với cùng kỳ năm 2016. Còn theo ước tính của các chuyên gia, nhu cầu than để sản xuất điện đến năm 2030 vào khoảng 130 - 150 triệu tấn, trong khi nguồn than nội địa chỉ đáp ứng tối đa 30 - 40 triệu tấn. VN phải nhập ít nhất khoảng 100 triệu tấn than/năm.
Điện than Việt Nam lo phụ thuộc nước ngoài - ảnh 2

TIN LIÊN QUAN

Vốn đầu tư vào điện than tăng mạnh
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào nhiệt điện than tăng mạnh khiến nhiều người lo ngại VN thành "vùng trũng" của loại hình có nguy cơ ô nhiễm môi trường lớn này.
Như vậy, chủ đầu tư và nguồn nhiên liệu cho nhiệt điện than của VN đã và đang phụ thuộc chủ yếu vào nước ngoài. Đây là một rủi ro lớn. Một chuyên gia đặt vấn đề, chúng ta phát triển nhiệt điện than với lý do an ninh năng lượng nhưng lại dựa vào các nhà máy nhiệt điện BOT quy mô lớn. Giả sử có sự cố hay vì lý do nào đó các nhà máy này không thể vận hành thì an ninh năng lượng quốc gia sẽ như thế nào? TS Ngô Đức Lâm, chuyên gia thuộc mạng lưới Liên minh Năng lượng bền vững VN (VSEA), cho rằng về nguyên tắc bắt buộc ngành điện phải có nguồn dự phòng. Việc phát triển các dự án BOT để bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia cần phải tính toán cẩn thận và có các điều khoản ràng buộc trách nhiệm cụ thể để dự phòng các trường hợp như thế này.
Chuyên gia kinh tế Vũ Đình Ánh lý giải, các dự án BOT có đến 80 - 90% là vốn vay ngân hàng, nếu vay không được thì họ gọi vốn từ các nhà đầu tư thứ cấp. Với các dự án BOT của Trung Quốc hay gọi vốn từ DN Trung Quốc đồng nghĩa họ sẽ được ưu thế hơn về đấu thầu dự án, về giá, công nghệ, môi trường... Nếu không cẩn trọng trong ký kết ban đầu, có những điều khoản chặt chẽ, các dự án BOT về điện than của VN sẽ đứng trước nguy cơ là “bãi đáp” của công nghệ lạc hậu từ Trung Quốc.
Theo TS Lê Đăng Doanh, nhu cầu năng lượng của VN tăng cao qua từng năm do chúng ta phát triển mạnh những ngành công nghiệp tiêu tốn nhiều năng lượng như xi măng, sắt thép. Tỷ lệ tiêu thụ điện của ngành công nghiệp chiếm tới 49% (năm 2015) và tăng lên 55% (năm 2025) tổng nhu cầu điện của cả nước. Các dự án nhiệt điện than khủng đều mọc lên cặp các dự án công nghiệp tiêu tốn nhiều năng lượng. Lý giải việc các ngành tiêu tốn nhiều năng lượng đang đổ vào VN, ông Doanh cho rằng xuất phát từ chính sách giá bán điện của VN. Giá điện phục vụ các ngành kinh tế năm 2011 của ngành công nghiệp chỉ có 5,31 cent/kWh, thương mại lên đến 9,935 cent/kWh và dân dụng là 6,04 cent/kWh. Cơ cấu này trái ngược với một số nước trong khu vực như Thái Lan lần lượt là 9,05 - 5,65 - 7,94 cent/kWh hay như Singapore là 14,5 - 14,5 - 19,76 cent/kWh. Với chính sách giá điện và môi trường của VN như vậy, DN nước ngoài đã tìm cách đưa các ngành tiêu tốn nhiều năng lượng và kèm theo là các dự án phát triển năng lượng “thải” vào VN.
Chí Nhân - Nguyên Nga