Benjamin Ramm,
28-8-2917
Để đối phó với việc bị bắt, các sáng tác của nhà thơ được giấu diếm bằng những cách vô cùng sáng tạo – khâu vào trong gối, trong giày, hay giấu vào đệm, vào nồi nấu. Cảnh sát tịch thu hầu hết các thứ giấy tờ của ông, nhưng những thứ khác vẫn được đưa lậu ra bên ngoài, hoặc giấu kín trong những chỗ khuất nẻo ít ai ngờ.
Những vần thơ quan trọng nhất được ghi vào những nơi mà các điều tra viên cẩn trọng nhất cũng không thể tìm thấy – trong trí nhớ của những độc giả nhiệt thành, rồi được truyền từ người này sang người khác.
Trong cuốn hồi ký của mình, Hy vọng Đối lại Hy vọng, Nadezhda Mandelstam, vợ của nhà thơ Osip Mandelstam, nhớ lại những nỗ lực của mình trong việc bảo vệ các tác phẩm của chồng.
Việc đọc lại, phân tích, sao chép rồi phổ biến những vần thơ bị cấm trở thành một phần trong văn hóa samizdat – (tự in ấn ngoài luồng) để vượt qua hàng rào kiểm duyệt ngặt nghèo ở Liên Xô.
Ngày nay, chúng ta có thể đọc thơ Mandelstam là nhờ đã có những cá nhân dám đương đầu với mối hiểm nguy to lớn, dám can đảm chép lại và chia sẻ các tác phẩm của ông, thường là bằng những biện pháp phi thường.
Thuật ngữ samizdat (‘tự xuất bản’) được đưa ra nhằm đối chọi lại với gosizdat (‘nhà nước xuất bản’), vốn là con dấu được đóng lên mọi ấn phẩm chính thức ở Liên Xô.
Samizdat dùng những chất liệu không chính thức khác nhau, và được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: các bàn luận về chính trị, những bài phân tích, diễn giải tôn giáo, tiểu thuyết, thơ, diễn văn, và âm nhạc.
Có một từ liên quan là tamizdat (‘được xuất bản ở đó’) – tư liệu được đưa lậu vào Liên Xô.
Đó có thể là các bản ghi dùng trên tờ chụp phim x-quang, các bản ghi dùng trên máy nghe nhạc với nội dung là các tác phẩm âm nhạc bị cấm lưu hành, gồm cả các ca khúc rock ‘n ‘roll và các sáng tác của những người di cư ra nước ngoài. Những thứ này nhanh chóng xuất hiện trên thị trường chợ đen.
Việc có máy ghi âm lậu (magnitizdat) thì ít rủi ro hơn, bởi các công dân Xô-viết được phép sở hữu một máy ghi dùng băng cối; hầu hết các nội dung không công khai nói về chính trị mà chủ yếu là những giai điệu được các ca sỹ Nga trình bày dưới dạng phổ thơ (bard).
Số lượng người đọc các tác phẩm tự xuất bản dưới hình thức viết hiếm khi vượt quá vài ngàn người, nhưng có tới khoảng một triệu người nghe trên các băng cối.
Aleksandr Galich, một trong những nhà du ca (bard) nổi tiếng nhất, người kêu gọi đấu tranh mạnh mẽ nhất, đã dùng các ca khúc của mình để chỉ trích “mẹ đỡ đầu của tình trạng kiểm duyệt” và ca ngợi vai trò của truyền thông ngầm.
Thuật ngữ samizdat tuy được dùng để nhắc tới thời kỳ Liên Xô, nhất là sau cái chết của Stalin vào năm 1953, nhưng việc xuất bản bất chấp việc không được cấp phép đã tồn tại từ lâu ở Nga.
Hồi cuối Thế kỷ 19, giới sinh viên chuyền tay nhau những cuốn sách nhỏ có nội dung cấp tiến lên án Sa Hoàng. Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905 cùng cuộc trấn áp tự do dân sự thì những nội dung kêu gọi lật đổ chế độ được chia sẻ rộng rãi.
Từ thời Đệ nhất Thế chiến, rồi cuộc cách mạng hồi 1917, rồi cuộc nội chiến ở Nga cho tới tận 1922, có nhiều quy định hạn chế khá nghiêm ngặt đã được áp đặt lên các loại tác phẩm in ấn.
Dấu ấn văn hóa
Tự xuất bản, samizdat, phản ánh sự thay đổi bối cảnh chính trị, văn hóa và địa lý của nhà nước Xô-viết.
Một số sản phẩm là nhằm phản đối sự đàn áp nhằm vào các dòng Ki Tô giáo (Chính thống giáo, Công giáo La Mã, Baptist), hoặc nhằm phản ánh tiếng nói của những nhóm thiểu số muốn có quyền tự quyết (người Do Thái, người Tartar vùng Crimea, hay cộng đồng người Đức ở sông Volga).
Toàn bộ quá trình được nhà bất đồng chính kiến Vladimir Bukovsky tóm tắt lại như sau: “Tự xuất bản: Tôi viết cho mình, biên tập cho mình, kiểm duyệt cho mình, xuất bản cho mình, phân phối cho mình, và tự mình chấp nhận thời gian ngồi tù.”
Định nghĩa phổ biến này khiến samizdat nghe giống như một hành động đơn độc, nhưng mối nguy hiểm sẽ xảy ra khi mỗi cá nhân tạo ra một bản sao cho người khác.
Nếu bị phát hiện, các tài liệu thường sẽ bị giới chức lần ra, bởi hầu hết các máy chữ cá nhân đều phải đăng ký với nhà nước. Các bản dự phòng thỉnh thoảng được lưu trên microfilm, là thứ được đưa lậu ra để xuất bản trước khi lại được đưa lậu vào.
Sách và các cuốn sổ nhỏ được sao chép trên giấy than, với tối đa là chín trang bên dưới, cho nên mỗi lần sẽ in ra được tổng số tối đa là 10 bản – cũng là mức tối đa được phép in.
Để tận dụng được hết các chỗ trống, người ta đánh máy tràn hết cỡ ra cả lề trái lẫn lề phải, cả lề trên đầu trang lẫn lề dưới trang giấy.
Giấy rất hiếm cho nên những ai mua nhiều hơn một chút đều sẽ bị báo cáo cho giới chức.
Những người được phân phối giấy phải in hay đánh máy mỗi lần ít nhất là bốn bản. Tuy nhiên, họ không được phép tìm cách che giấu để tác giả không bị phát hiện, và phải chỉ điểm cho công an nếu thấy có dấu hiệu khác thường.
Người ta phải in ấn, đánh máy một cách vội vã, qua quýt, trên những chất liệu gần như là phế phẩm, đánh máy chữ mờ, trên những trang giấy nhàu nát và không được đóng bìa tử tế.
Một số người thậm chí còn tự mình chỉnh sửa hoặc thêm bớt vào các nội dung. Cách sáng tác, phóng tác như thế được áp dụng nhiều trước thực tế là nhiều tác giả thực sự, do e sợ cho sự an toàn bản thân, đã dùng bút danh và không nhận các tác phẩm là của mình.
Tình thế này được bản thân Đảng Cộng sản khai thác với lập luận rằng việc không rõ bản quyền về sở hữu trí tuệ khiến việc nghiên cứu, phân tích, mổ xẻ tác phẩm là không công bằng.
Chiến thuật độc địa đầy tính tưởng tượng này khiến tạo cảm giác rằng nhà nước đang bảo hộ cho các tác giả khỏi tình trạng bị khai thác – chỉ có điều như vậy là tác giả phải chấp nhận mất không, phải cho không những đứa con tinh thần của mình.
Có lẽ tài liệu quan trọng đầu tiên xuất hiện dưới dạng tự xuất bản là ‘bài diễn văn bí mật’ của Khruschev hồi 1956 – với nội dung lên án Stalin, đánh dấu sự khởi đầu của tình trạng tan băng chính trị và văn hóa.
Tiến trình này đòi hỏi nhiều thời gian, nhưng trở nên rõ rệt vào năm 1962 với việc chuẩn thuận cho xuất bản cuốn tiểu thuyết Một ngày trong đời Ivan Denisovich của tác giả Aleksandr Solzhenitsyn (1962).
Được xuất bản trên tạp chí văn hóa Novy Mir (Tân Thế giới), tác phẩm khắc họa cuộc sống hàng ngày ở một trại lao cải (gulag) dưới thời Stalin – một chủ đề mà trước đó không hề được bàn đến công khai.
Hai bước thụt lùi
Hệ thống trại cải tạo gulag phần lớn đã được Nikita Khruschev cho dỡ bỏ. Ông cũng là người đã làm suy yếu hệ thống cảnh sát mật và là người ra sáng kiến về việc trao đổi văn hóa xuyên biên giới.
Dưới thời Khruschev, samizdat chiếm vị thế thống trị trong Liên Xô, bởi việc xuất bản các tư liệu không phù hợp với ý thức hệ chính thống không còn bị gắn kèm với cái án tử hình nữa.
Nhưng những cải tổ mang tính tự do hóa của Khruschev đã vấp phải sự phản kháng dữ dội từ những người theo đường lối cứng rắn, và vào năm 1964 ông đã bị hất cẳng bởi chính cựu đệ tử ruột, Leonid Brezhnev.
Hầu như ngay lập tức, dưới sự chỉ đạo của Yuri Andropov (người lãnh đạo ngành tình báo KGB, và sau này thành người kế vị Brezhnev), việc kiểm duyệt được tăng cường và các nhà bất đồng chính kiến bị bỏ tù hoặc phải đi sống đời lưu vong.
Năm 1965, hai cây viết là Yuli Daniel và Andrei Sinyavsky bị bắt vì tội tamizdat, xuất bản truyện giả tưởng ở nước ngoài và ký dưới tên khác.
Một bản ghi phiên tòa xử kín hai người này đã được các nhà thơ Alexander Ginzburg và Yuri Galanskov lấy được, và họ đã sáng tác Sách Trắng, mô tả về phiên xử.
Vụ đàn áp bị phản ứng bằng các cuộc biểu tình – là đợt biểu tình chính trị tự phát đầu tiên xảy ra trong suốt 30 năm, và hai lá thư ngỏ được lan truyền dưới hình thức samizdat, trong đó một thư kêu gọi Brezhnev hãy chống trả sự quay trở lại của chủ nghĩa Stalin.
Thư này được nhiều gương mặt có tiếng ký tên, trong đó có nhà soạn nhạc Dmitri Shostakovich.
Chuyện chính bản thân Ginzburg và Glanskov cũng bị đưa ra xét xử về tội xuất bản và phân phát tài liệu dạng samizdat chỉ còn là vấn đề thời gian.
Sự trở lại của chế độ kiểm duyệt gắt gao hơn đã càng thúc đẩy xu hướng samizdat, và các tác phẩm vốn được phép lưu hành dưới thời Khruschev bị buộc phải trở lại đời sống ngầm.
Năm 1968, một nhóm các học giả tại Moscow bắt đầu một giai đoạn samizdat kéo dài nhất, nổi tiếng nhất, với việc xuất bản tập san Ghi chép các sự kiện diễn ra (Chronicle of Current Events).
Trong 65 số được phát hành trong 15 năm, Chronicle đã nêu chi tiết một cách tỉ mỉ những vi phạm dân quyền và trình tự tố tụng, trong đó gồm 424 phiên tòa kết tội 753 người, không có ai được trắng án.
Các chủ biên của Chronicle không cổ súy cho việc lật đổ chế độ và nói rằng theo Hiến pháp Liên Xô 1936, việc xuất bản của họ là hợp pháp.
Giới chức không nghĩ vậy: các chủ biên, cộng tác viên bị tống vào trại cải tạo, vào các nhà thương điên, hoặc phải sống lưu vong.
Chủ biên đầu tiên của Chronicle, Natalya Gorbanevskaya bị bắt sau khi tham dự cuộc biểu tình Quảng trường Đỏ 1968 để phản đối việc đàn áp cuộc nổi dậy Mùa xuân Prague. Gorbanevskaya trở thành cái tên nổi tiếng, được ca ngợi trên thế giới. Ca sỹ người Mỹ Joan Baez đã ca ngợi bà trong các buổi diễn âm nhạc.
Phong cách khô khan, chính xác của Chronicle nhằm cố ý tạo tương phản với tờ báo quốc doanh Pravda. Mặc dù tường thuật về những lời kể đầy đau đớn, Chronicle cam kết “nỗ lực hết mình để viết với văn phong bình tĩnh, kiềm chế” và “một phong cách hoàn toàn dựa vào thực tế” – như được minh họa bằng các tít bài mang tính luật hóa (‘Các vụ bắt giữ, Lùng soát, Thẩm vấn’, ‘Trong các nhà tù và các trại cải tạo’), và luôn đính chính ngay cả khi chỉ có những sơ suất nhỏ nhất.
Đến năm 1985, đã có hơn một triệu món đồ vật là các tư liệu bị cấm được lưu tại Bảo tàng Quốc gia Lenin – là bộ spetskhran(bộ sưu tầm chỉ hạn chế cho những đối tượng nhất định được xem) lớn nhất.
Hiện trạng không duy trì được lâu: cơ quan nhà nước hoạt động quan liêu, cứng nhắc, nền kinh tế trì trệ, và những người ‘canh gác’ già chết dần – ba nhà lãnh đạo qua đời trong một thời gian ngắn.
Điều này dẫn tới sự nổi lên của nhân vật 54 tuổi, Mikhail Gorbachev, người thừa nhận rằng Đảng Cộng sản không thể đàn áp nội bộ mãi mãi được.
Gorbachev đưa ra các chính sách perestroika (‘tái cơ cấu’) vàglasnost (‘cởi mở’). Chính sách cởi mở về sau này trở thành tên gọi của một trong những ấn phẩm samizdat được nhiều người biết đến nhất thời đó.
Rất khó để đánh giá được tác động của samizdat, dẫu nhiều người tin rằng nó là một yếu tố to lớn làm suy yếu quyền lực Xô-viết.
Với phóng viên người Ukraine Vitaly Korotich, thì “Liên bang Xô-viết đã bị hủy diệt bởi thông tin – và làn sóng này bắt đầu từ tác phẩm Một Ngày của Solzhenitsyn”.
Tuy việc lưu hành các ấn phẩm samizdat chỉ nằm trong một lượng độc giả ít ỏi, nhưng nhiều người trong số các bạn đọc lại là những người có ảnh hưởng văn hóa.
Một số người còn là những gương mặt đầy quyền lực – thật ra các quan chức chính phủ đã trở thành những độc giả thường xuyên, bởi họ chỉ có thể kiểm duyệt được những gì mà họ hiểu.
Samizdat giúp họ suy nghĩ, và những thông tin mà họ nắm được từ những luồng nằm ngoài pháp luật đó giúp vạch ra những giới hạn phát biểu mà họ cho là chấp nhận được về chính trị.
Một thế kỷ đã trôi qua kể từ sau Cách mạng Nga, tiến trình dân chủ hóa nhờ vào internet có vẻ như đã phủ nhận nhu cầu phải có truyền thông ngầm.
Nhưng samizdat lại nhận được sự chú ý mới kể từ năm 2014, khi mà để ứng phó với các cuộc biểu tình Maiden ở Ukraine, chính quyền Nga đã tăng mạnh các nỗ lực kiểm soát những nội dung được đăng tải trên mạng internet.
Các trang mạng lần theo dấu vết các vụ lạm dụng của nhà nước thường bị chặn, và các thư điện tử cùng các tài khoản mạng xã hội của lãnh đạo đối lập Alexei Navalny đã bị tin tặc tấn công.
Trong năm 2015, trang mạng New Chronicle of Current Events được cho ra mắt, ở chính tại nơi mà các công dân bị trao những thông tin sai do sự lũng đoạn của truyền thông đại chúng. New Chronicle đã công bố danh sách 217 nhà bất đồng chính kiến bị bỏ tù tại Nga, trong đó có các lãnh đạo chính trị đối lập và các nhà hoạt động vì môi trường.
Chủ các trang mạng chỉ trích chính phủ Nga đang chuyển sang đặt vị trí ở nước ngoài, nhưng sự thách thức mà họ vấp phải không chỉ bó hẹp trong phạm vi một quốc gia.
Blogger nổi tiếng Anton Nosic nhìn thấy một sự song hành trên thế giới, và nói rằng “Wikileaks là sự tiếp nối trực tiếp của truyền thống samizdat.”
Các lực lượng an ninh Hoa Kỳ và Anh muốn “thu giữ các thiết bị máy tính, gây áp lực lên các chủ biên, đòi không được công bố những tư liệu nhất định… cơ chế và động cơ giống với những gì xảy ra 45 năm trước”.
Dù cho nhà nước muốn bắt những người bất đồng chính kiến phải im lặng, thì tinh thần samizdat sẽ vẫn tiếp diễn mạnh mẽ.
Bài tiếng Anh đã đăng trên BBC Culture.