Đó là chia sẻ của GS. Nguyễn Khánh Trạch, người có thâm niên 50 năm trong ngành Y về vụ thuốc trị ung thư giả được VN Pharma nhập về. Dù lô thuốc này chưa đưa ra thị trường nhưng vẫn gây bức xúc cho dư luận cũng như nhiều người trong ngành Y.
GS Nguyễn Khánh Trạch
Đã trong ngành y, không ai chấp nhận được thuốc giả
Giáo sư Nguyễn Khánh Trạch – Nguyên trưởng khoa Tiêu hóa, Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội cho biết, qua theo dõi trên báo chí thấy vụ thuốc giả, thuốc trị ung thư của công ty VN Pharma, GS Trạch lấy làm buồn vì đây là việc vô nhân đạo, không thể chấp nhận được.
Thứ hai, là việc bệnh nhân bị ung thư phải dùng thuốc giả để chữa bệnh thì điều đó càng dã man hơn vì những người bị ung thư thường có tâm lý bi quan, chữa ung thư lại tốn kém nếu dùng thuốc giả thì khác nào "bồi" thêm cú nữa làm cho bệnh nhân bị ung thư nặng lên. Việc làm này khiến cho người bệnh suy sụp thêm nên việc nhập thuốc giả cho bệnh nhân ung thư là không thể tha thứ được.
GS Trạch cho biết, thuốc giả luôn là “miếng bánh ngon” của bất cứ quốc gia nào. Đánh giá về tác hại của thuốc giả, vị GS hơn 50 năm trong ngành cho biết, thuốc giả có thể nguy hại tới sức khỏe người bệnh nhưng mức độ ảnh hưởng phụ thuộc vào những chất liệu làm nên viên thuốc đó.
Khi thuốc giả chỉ là bột mì, tác hại chỉ xẩy ra nếu để nhiễm nấm mốc. Còn nếu là hoạt chất khác thì có thể gây tổn thương cho các cơ quan trong cơ thể. Nhìn chung dù là chất gì nhưng đã là thuốc giả thì đều là bất lợi cho người bệnh.
GS Trạch đưa ra ví dụ: Một người bị sốt, nhiễm trùng cần kháng sinh mà kê thuốc giả sẽ làm bệnh không khỏi, thậm chí còn khiến bệnh nặng hơn.
Dù là một nhân viên y tế nhỏ bé cũng đau xót bởi việc này
Đối với vụ việc VN Pharma nhập hơn 9000 hộp thuốc H – Capita về Việt Nam gây bức xúc không chỉ cho bệnh nhân mà ngay cả những người trong ngành y cũng bức xúc. GS Trạch cho biết, ai nghe thông tin này cũng đau xót dù là nhân viên nhỏ bé nhất trong giới y khoa.
Qua vụ việc này, GS Trạch cho rằng rõ ràng là do sơ xuất của cơ quan quản lý nhà nước, cấp phép cho nhập thuốc này vào Việt Nam, cụ thể ở đây là Cục Quản lý Dược. Cục Quản lý Dược đã sơ xuất không kiểm tra xem tình hình thực tế như thế nào.
Trong trường hợp này, GS Trạch đưa ra hai giả định:
Thứ nhất: Các nhà nhập khẩu thuốc nếu đã có dã tâm như thế thì họ sẽ có đủ cách đánh lừa cơ quan nhà nước nên cơ quan quản lý không tiên lượng trước được việc này. Nên tôi nghĩ cơ quan nhà nước cũng có phần trách nhiệm nhưng cái chính là những người cố tình âm mưu nhập thuốc giả. Vậy cần chứng minh xem có phải chỉ là dã tâm của doanh nghiệp hay không?
Thứ hai: Có trường hợp cơ quan nhà nước biết nhưng vì lợi ích cá nhân nên họ đã không cẩn thận.
“Vậy, trong trường hợp của công ty VN Pharma, cơ quan nhà nước có thiếu sót ai cũng nhận thấy. Vấn đề ở đây là cần làm rõ họ bị lừa hay họ bảo kê, che đậy cho những người đó. Nếu họ bị lừa thì thiếu sót nhẹ hơn, còn họ đồng tình núp bóng bảo kê cho nhà nhập khẩu đó thì tội hai bên ngang nhau” – GS Trạch nhấn mạnh.
Đối với cá nhân Bộ trưởng Bộ Y tế, đứng trước vụ việc này vẫn có phần lỗi và cần cho họ quyền giải trình hay chứng minh trách nhiệm của mình đến đâu. GS Trạch cho biết, khi đã làm Bộ trưởng thì không thể không biết việc nhập lậu thuốc là như thế nào và ngăn chặn nó ra sao.
Trong ngành y, từ nhân viên y tá đến bác sĩ đều không ai chấp nhận được thuốc giả nên trong trường hợp này cần xem xét kỹ trách nhiệm của Bộ trưởng đến đâu và nên chứng minh được trách nhiệm cơ quan quản lý. Có như vậy dư luận mới không suy diễn nhiều chuyện.
Trong ngành y, từ nhân viên y tá đến bác sĩ đều không ai chấp nhận được thuốc giả nên trong trường hợp này cần xem xét kỹ trách nhiệm của Bộ trưởng đến đâu và nên chứng minh được trách nhiệm cơ quan quản lý. Có như vậy dư luận mới không suy diễn nhiều chuyện.
Theo GS Nguyễn Khánh Trạch, thuốc giả trà trộn vào thị trường thuốc rất nhiều, không riêng gì thuốc ung thư. Nhưng có một số thuốc tối quan trọng, cấp thiết thì việc kiểm soát các thuốc đó là rất chặt chẽ.
Trên thị trường có nhiều thuốc giả cũng khó phát hiện được, thuốc giả vẫn trà trộn vào trong nhà thuốc. Qua vụ việc này, GS Trạch cho rằng, Bộ Y tế nên có chương trình kiểm soát khắt khe hơn.
Ph. Thúy
Phải xử tội buôn bán hàng giả
Hai vấn đề mấu chốt cần xác định lại là tang vật của vụ án là thuốc giả và hành vi của các bị cáo phạm tội buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh.
Sau phiên tòa sơ thẩm vụ án tại Công ty CP VN Pharma, vấn đề các cơ quan tiến hành tố tụng xử lý các bị cáo đúng tội danh hay chưa vẫn thu hút sự quan tâm của dư luận. Pháp Luật TP.HCM xin giới thiệu bài phân tích của TS Phan Anh Tuấn, Trưởng bộ môn Luật hình sự, Trường ĐH Luật TP.HCM.
Đây là thuốc giả!
Theo tôi, tang vật trong vụ này gồm 9.300 hộp thuốc H-Capita (thuốc điều trị ung thư) do Công ty VN Pharma nhập lậu là thuốc giả chứ không phải thuốc kém chất lượng.
Bởi vì các hành vi nhập khẩu số thuốc nói trên thực hiện vào các năm 2013-2014 nên phải dựa vào quy định của Luật Dược 2005 (chứ không phải Luật Dược 2016). Theo đó, tại các khoản 22, 23, 24 Điều 2 Luật Dược 2005 quy định thuốc kém chất lượng là thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền. Còn thuốc giả là sản phẩm được sản xuất dưới dạng thuốc với ý đồ lừa đảo, thuộc một trong những trường hợp: Không có dược chất; có dược chất nhưng không đúng hàm lượng đã đăng ký; có dược chất khác với dược chất ghi trên nhãn; mạo tên, kiểu dáng công nghiệp của thuốc đã đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp của cơ sở sản xuất khác.
Theo cáo trạng, lô thuốc H-Capita 500 mg là không rõ nguồn gốc. Trên các thùng hàng này có dán tem kiểm tra an ninh tại sân bay Ấn Độ, tem vận chuyển từ Ấn Độ về Singapore. Cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Bộ Công Thương cũng xác định mã vạch, mã số trên vỏ hộp thuốc không được đăng ký bởi quốc gia nào.
Ngoài ra, còn nhiều hồ sơ khác bị làm giả như giấy chứng nhận bán hàng tự do để được lưu hành thuốc trên thế giới; giấy chứng nhận thực hành tốt sản xuất thuốc (do Bộ Y tế Canada cấp); con dấu lãnh sự của Đại sứ quán Việt Nam tại Canada… Bộ Ngoại giao cũng có công văn trả lời A83 (Cục An ninh chính trị nội bộ - Bộ Công an) cho biết không có công ty nào tên Helix Pharmaceuticals Inc tại địa chỉ 392 Wilson Ave, Toronto, Ontario, Canada như hồ sơ VN Pharma cung cấp cho Cục Quản lý dược.
Cơ quan điều tra từng khẳng định lô thuốc này không rõ nguồn gốc, xuất xứ. Kết luận giám định số 31 của Hội đồng giám định của Bộ Y tế chỉ rõ lô thuốc chứa 97% hoạt chất capecitabine là thuốc không rõ nguồn gốc, kém chất lượng, không được sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người.
Một số ý kiến của luật sư bào chữa cho các bị cáo tại tòa cho rằng đây là thuốc kém chất lượng chứ không phải thuốc giả. Thế nhưng theo tôi, từ quy định về thuốc kém chất lượng nêu trên cho thấy lập luận này không đúng. Và như đã phân tích ở trên thì thấy rằng không có công ty nào tên Helix Pharmaceuticals Inc, tồn tại ở địa chỉ 392 Wilson Ave, Toronto, Ontario, Canada để sản xuất 9.300 hộp thuốc H-Capita. Do đó, không thể kết luận đây là thuốc kém chất lượng mà chỉ có thể coi là thuốc giả.
Cũng có thể có quan điểm cho rằng hành vi nhập thuốc trong vụ án này chỉ giả nhãn hiệu nhưng hàm lượng chất chính (hoạt chất capecitabine) vẫn đạt được. Do đó đây là hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171 BLHS 1999). Quan điểm này cũng bị loại trừ vì chỉ có thể giả nhãn hiệu của một cơ sở sản xuất có thực chứ không thể xâm phạm nhãn hiệu của một cơ sở không có thực.
Với các lập luận nêu trên, có thể kết luận 9.300 hộp thuốc điều trị ung thư do Công ty VN Pharma nhập lậu trong vụ án là thuốc giả.
Tội buôn bán hàng giả là thuốc mới đúng
Về mặt xác định tội danh, trong vụ án này, các bị cáo đã nhập lậu 9.300 hộp thuốc điều trị ung thư là thuốc giả là hành vi xâm phạm các khách thể khác nhau và có dấu hiệu của cả hai tội. Đó là tội buôn lậu (Điều 153 BLHS 1999), xâm phạm chế độ quản lý ngoại thương của Nhà nước và tội buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh (Điều 157 BLHS 1999), xâm phạm chế độ quản lý nhà nước đối với thuốc chữa bệnh.
Về mặt lý luận, trường hợp hành vi phạm tội xâm phạm nhiều khách thể trực tiếp thì chúng ta phải lựa chọn khách thể trực tiếp để định tội là khách thể nào thể hiện đầy đủ bản chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Khoa học luật hình sự gọi trường hợp này là định tội danh theo khách thể của tội phạm. Ví dụ, hành vi gây rối và đánh chết người tại nơi công cộng thì xử lý về tội giết người (xâm phạm tính mạng con người) chứ không xử lý về tội gây rối trật tự công cộng (xâm phạm trật tự công cộng). Vì lựa chọn khách thể là tính mạng con người mới thể hiện đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội hơn là trật tự công cộng.
Vì thế theo tôi, vụ án này các cơ quan tố tụng phải khởi tố, truy tố và xét xử các bị cáo về tội buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh mới đúng. Bởi vì hành vi này xâm phạm chế độ quản lý nhà nước đối với thuốc chữa bệnh, thể hiện bản chất nguy hiểm cho xã hội hơn là chế độ quản lý ngoại thương của Nhà nước. Tính nguy hiểm đó được nhà làm luật thể hiện ở chỗ tội buôn lậu có mức cao nhất là chung thân nhưng tội buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh có mức cao nhất là tử hình.
Có một thực tế là tuy các cơ quan tố tụng xử lý không đúng tội danh như đã phân tích nêu trên nhưng nếu xử về tội buôn lậu thì khung hình phạt áp dụng cao hơn tội buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh.
Cụ thể, nếu xử lý về tội buôn lậu thì với số hàng lậu trị giá khoảng 5 tỉ đồng sẽ rơi vào khoản 4 Điều 153 (có khung hình phạt là tù 12-20 năm, chung thân). Còn nếu xử lý về tội buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh thì chỉ rơi vào khoản 2 Điều 157 (với tình tiết định khung là có tổ chức), có khung hình phạt là tù 5-12 năm. Lý do là hành vi phạm tội đã bị ngăn chặn (chưa đưa thuốc ra thị trường) nên chưa gây ra hậu quả. Do đó, mức án tối đa đối với bị cáo nguy hiểm nhất nếu xử lý về tội buôn bán thuốc chữa bệnh giả cũng chỉ tối đa 12 năm tù.
Đương nhiên, việc xử đúng tội danh là yêu cầu quan trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền.
Nội dung vụ án
Năm 2013, Nguyễn Minh Hùng (chủ tịch HĐQT, tổng giám đốc Công ty VN Pharma) thông qua môi giới là Võ Mạnh Cường (giám đốc Công ty Hàng hải quốc tế H&C) đặt mua thuốc tân dược của hãng Helix Pharmaceuticals (Canada) để bán và đấu thầu cung cấp cho các bệnh viện ở Việt Nam. Từ năm 2013 đến tháng 9-2014, Hùng thông qua Cường làm giả giấy tờ, con dấu để được Bộ Y tế cấp phép nhập khẩu thuốc và buôn lậu 9.300 hộp thuốc Capicitabine 500 mg không rõ nguồn gốc, kém chất lượng, trị giá 251.000 USD. Cơ quan điều tra còn kết luận Phạm Văn Kiệt (giám đốc Công ty Dược Sài Gòn) đã giúp sức qua hành vi sử dụng con dấu, chữ ký bất hợp pháp giúp Công ty VN Pharma nhập khẩu thuốc.
Theo cáo trạng, kết luận của Hội đồng giám định thuộc Bộ Y tế viết: “Lô thuốc H-Capita chứa 97% hoạt chất capecitabine - là thuốc không rõ nguồn gốc, kém chất lượng, không được sử dụng làm thuốc chữa bệnh cho người”.
Một phần do luật chưa rõ
Ngoài việc cơ quan tố tụng chưa xác định rõ tang vật là thuốc giả còn có một phần do BLHS 1999 chưa rõ khi quy định hành vi buôn bán hàng giả qua biên giới bị xử về tội buôn lậu, hoặc các tội khác liên quan đến hàng giả. Trong BLHS 2015, điều này đã được khắc phục vì hành vi nêu trên sẽ bị xử lý về tội buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh với tình tiết định khung tăng nặng là “buôn bán qua biên giới”.
TS Phan Anh Tuấn
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét