(GDVN) - Phát biểu của Putin không làm thay đổi giá trị và hiệu lực của phán quyết trọng tài, mà nó chỉ làm thay đối cái nhìn và đánh giá của nhiều người về ông và...
Sputnik News ngày 5/9 đưa tin, Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố, Moscow hỗ trợ lập trường của Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông, chống lại Phán quyết Trọng tài hôm 12/7 và phản đối bất kỳ sự can thiệp nào của một bên thứ ba vào Biển Đông.
Ông Vladimir Putin được Sputnik News dẫn lời cho biết:
"Chủ tịch Tập Cận Bình và tôi đã phát triển sự tin cậy lẫn nhau, quan hệ rất thân thiện. Nhưng ông không bao giờ, tôi muốn nhấn mạnh điều này, không bao giờ tiếp cận tôi với yêu cầu bằng cách nào đó hãy bình luận, bằng cách nào đó hãy can thiệp vào vấn đề này.
Chúng tôi tất nhiên có ý kiến của riêng mình về vấn đề này. Đó là, trước hết chúng tôi không can thiệp vào, và chúng tôi tin rằng bất kỳ sự can thiệp của một sức mạnh không phải từ khu vực chỉ gây thiệt hại cho việc giải quyết những vấn đề này.
Tổng thống Nga Vladimir Putin trong buổi họp báo tại Hàng Châu, Trung Quốc. Ảnh: Sputnik News.
Sự can thiệp của bên thứ ba không nằm trong khu vực, theo ý kiến của tôi, là có hại và phản tác dụng. Chúng tôi đoàn kết và hỗ trợ lập trường của Trung Quốc về vấn đề này - không công nhận Phán quyết của Tòa Trọng tài.
Đây không phải là một vấn đề chính trị, mà là thuần túy pháp lý. Nó có liên quan đến một thực tế rằng bất kỳ một thủ tục tố tụng trọng tài nào đều phải được khởi xướng bởi các bên tranh chấp, trong khi Tòa Trọng tài cần nghe những lập luận và quan điểm của các bên tranh chấp.
Như bạn đã biết, Trung Quốc đã không chấp nhận giải quyết qua cơ chế trọng tài ở Lahay và không ai nghe thấy lập trường của họ ở đó. Làm thế nào bạn có thể nhận thấy những phán quyết này là công bằng?
Chúng tôi ủng hộ lập trường của Trung Quốc về những vấn đề này", Putin nói với các phóng viên trong một buổi họp báo bên lề G-20 tại Hàng Châu, Trung Quốc. [1]
Như vậy giờ này các nhà ngoại giao Nga không phải tốn công giải thích hay "nói thêm cho rõ" về lập trường của Nga trong vấn đề Biển Đông.
Những người Việt yêu mến dân tộc Nga và Liên Xô trước đây cũng khỏi tốn công suy nghĩ cách bảo vệ thần tượng Putin trong vấn đề Biển Đông. Mọi thứ đã quá rõ ràng.
Putin ủng hộ ai, ủng hộ nước nào là quyền của ông ấy. Tuy nhiên về mặt logic, người viết cho rằng, phát biểu của Putin tự phủ định nhau.
Ông nói rằng sự can thiệp của bên thứ ba nằm ngoài khu vực vào Biển Đông là có hại và phản tác dụng. Nhưng chính phát biểu của ông là ví dụ không thể rõ ràng hơn về sự can thiệp "có hại và phản tác dụng" ấy.
Bởi lẽ đích thị Nga là một bên thứ 3 nằm ngoài khu vực, bởi lẽ Nga đang can thiệp trực tiếp vào vấn đề Biển Đông bằng cách chống lại một phán quyết trọng tài có hiệu lực pháp lý quốc tế của Hội đồng Trọng tài thành lập theo Phụ lục VII, UNCLOS 1982.
Tuy nhiên phát biểu của Putin không làm thay đổi giá trị và hiệu lực của phán quyết trọng tài, mà nó chỉ làm thay đối cái nhìn và đánh giá của nhiều người về ông và vị thế của nước Nga ngày nay.
Có thể nhiều nhà phân tích tin rằng, sau G-20 một liên minh Trung - Nga chống lại trật tự quốc tế hậu Chiến tranh Thế giới II mà Bắc Kinh và Moscow tin là do Washington dẫn đầu, sẽ hình thành hoặc đã hình thành.
Thậm chí có người tin sự cải thiện quan hệ Trung - Nga dưới thời Putin - Tập Cận Bình chống Mỹ và phương Tây không khác gì việc Tổng thống Mỹ Richard Nixon thăm Trung Quốc năm 1972 để hình thành một "liên minh" chống Liên Xô.
Tuy nhiên người viết đồng ý với nhận định của nhà nghiên cứu Nga Alexander Gabuev từ Chương trình Châu Á - Thái Bình Dương thuộc Trung tâm Canegie ở Mowscow trên South China Morning Post ngày 15/8 rằng, Trung - Nga không có khả năng trở thành đồng minh.
Nga cần thị trường, nguồn vốn của Trung Quốc, cần bán vũ khí cho Trung Quốc, trong khi Trung Quốc cũng có thể cung cấp một số linh kiện thiết bị quân sự cho Nga. Còn theo người viết, Bắc Kinh cần tiếng nói của Moscow để vớt vát lại thể diện sau Phán quyết Trọng tài 12/7.
Trong khi hình ảnh của Putin không mấy tốt đẹp ở phương Tây, ông có nhiều người hâm mộ tại Trung Quốc. Tuy nhiên theo South China Morning Post, không có nhiều người Trung Quốc tin rằng ông là một người bạn thực sự của nước họ. [2]
Mặt khác, quan hệ Trung - Nga dường như chỉ xây dựng trên sự đổi chác lợi ích một cách thực dụng, thiếu sự bền vững lâu dài dựa trên luật chơi chung - luật pháp quốc tế. Khi xảy ra mâu thuẫn lợi ích, đồng minh cũng có thể quay ra cắn xé nhau.
Năm 1950 Mao Trạch Đông đi Moscow ký Hiệp ước Hữu nghị, liên minh và tương trợ lẫn nhau với Liên Xô. Chỉ 10 năm sau, năm 1960 Mao Trạch Đông và Khrushchev cãi nhau, xúc phạm nhau ngay tại Đại hội Đảng Cộng sản Rumani.
10 năm tiếp theo, năm 1970 Mao Trạch Đông tìm cách quay sang bắt tay với Mỹ chống Liên Xô. Năm 1979 Trung Quốc liên minh với Pakistan và Mỹ chống lại Liên Xô trong cuộc chiến tại Afghanistan.
Việt Nam cũng từng là nạn nhân của cạnh tranh địa chính trị, địa chiến lược giữa các siêu cường, nên hơn ai hết cần đề cao cảnh giác, dùng luật pháp quốc tế làm căn cứ để xem xét, ứng xử với các vấn đề quốc tế và khu vực.
Những hành xử của Trung Quốc trên Biển Đông và những phát biểu chống lưng của Tổng thống Putin cho thấy, khái niệm luật pháp quốc tế ở Biển Đông theo cách hiểu của các nhà lãnh đạo Trung Nam Hải, Điện Kremlin khác rất nhiều với phần còn lại của thế giới, đi ngược lại lợi ích hợp pháp của Việt Nam và khu vực.
Vì vậy thấy rõ tình hình để có quyết sách phù hợp là điều quan trọng, cần thiết.
Những ai yêu mến Putin xin cứ tiếp tục giữ tình yêu ấy. Có điều trước những phân tích phê phán quan điểm của Putin về Biển Đông và tác động, ảnh hưởng của nó thì xin đừng vội vàng hấp tấp chụp mũ cho đồng bào mình là "xuyên tạc quan điểm của Nga về Biển Đông" hay "chống phá quan hệ hữu nghị Việt - Nga".
Xin tạm gác “Những chuyện kinh hãi về vụ Năm Cam” để đề cập đến một lịch sử đen không kém phần kinh hãi của Cơ quan quản lý Dược Bộ Y tế.
Vụ VN Pharma đang gây bão trong dư luận chỉ là một phần nổi rất nhỏ trong tảng băng ngầm diễn ra từ rất lâu tại cơ quan Quản lý Dược Bộ Y tế. Cách đây 13 năm, vào năm 2004, Báo Thanh Niên đã đăng 2 loạt bài. Loạt bài thứ nhất: Ai tạo thế độc quyền cho doanh nghiệp tăng giá thuốc? gồm 6 kỳ do tôi và phóng viên Liên Châu viết. Loạt thứ hai: Lật lại hồ sơ vụ tham nhũng lớn tại Cơ quan quản lý Dược – Bộ Y tế, gồm 7 kỳ do tôi và phóng viên Võ Khối viết.
Hai loạt bài đó đã đề cập đến các yếu tố cốt lõi của những vấn đề thời sự đang diễn ra hiện nay: Các nhóm lợi ích câu kết với quan chức nhà nước tạo ra một cơ chế dung túng cho tham nhũng và kinh doanh độc quyền, vừa tăng giá thuốc vừa mở cửa cho thuốc kém chất lượng tràn vào Việt Nam. Đó là cơ chế ăn trên lưng người bệnh và hủy hoại sức khỏe giống nòi để phục vụ cho lòng tham vô đáy của một số người.
Đối với vụ tham nhũng lớn tại Cơ quan quản lý Dược, đích thân Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã chỉ đạo điều tra xử lý, nhưng vụ tham nhũng vẫn bị “chìm xuồng”, sau đó rơi vào quên lãng. Điều đó cho thấy tập đoàn tham nhũng tại đây thế lực lớn đến cỡ nào và có những dây mơ rễ má sâu rộng tới đâu.
Đối với cơ chế tạo độc quyền tăng giá thuốc, điều nguy hiểm là cơ chế này đã ăn sâu vào hệ thống đến mức không thể sửa được. Tại thời điểm này, có thể một số thứ đã thay đổi, nhưng những vấn đề cốt lõi chỉ bị biến tướng khó phát hiện mà thôi.
Những gì mà chúng tôi điều tra và phân tích lúc đó có thể dẫn đến một kết luận đáng buồn: Bộ trưởng Y tế, dù là người nào, cũng không điều khiển được Cơ quan quản lý Dược với những quy định đã đóng đinh vào hệ thống, mà ngược lại, hoặc là bị Cơ quan này điều khiển, hoặc là phải rời khỏi nhiệm sở để bảo toàn danh tiết.
Những chuyện chúng tôi đề cập trong hai loạt bài nói trên lâu nay báo chí không thấy đề cập đến, hoặc có thể có nhưng lọt khỏi tầm theo dõi của chúng tôi, điều đó cũng chứng tỏ có những rào cản vô hình trong việc tiếp cận thông tin. Về phía bản thân, sau vụ PMU18 tôi không còn được Báo Thanh Niên giao nhiệm vụ làm những phóng sự điều tra.
Chúng tôi không có ảo tưởng rằng “cái lò” của Tổng Bí thư có thể “đốt” được tới đây, vì cả củi khô lẫn củi tươi khó có thể gom lại được mà đốt. Nó chỉ có thể được cải sửa kiên trì và tiệm tiến bởi những con người không phải là tác giả của cơ chế quản lý Dược hiện hành và không dính dáng xa gần với những lợi ích tạo ra từ cơ chế đó. Nó chỉ có thể là nhiệm vụ của một Chính phủ liêm chính.
Nhưng muốn cải sửa thì trước hết phải mổ xẻ cho hết các khối u cùng dây mơ rễ má của chúng. Đó là nhiệm vụ của các nhà báo và những người có trách nhiệm trong cộng đồng mạng xã hội. Tôi phải nhấn mạnh đến “những người có trách nhiệm”, vì chửi bới mà xuất phát từ những thông tin suy diễn thiếu căn cứ không những không có lợi gì cho việc bảo vệ sức khỏe toàn dân mà còn tiếp tay cho các nhóm lợi ích cố kết lại để đối phó.
Stt này giới thiệu trước 2 kỳ của loạt bài “Ai tạo thế độc quyền cho doanh nghiệp tăng giá thuốc”. Xin lưu ý, kỳ 1: Zuellig Pharma – “kẻ đột nhập”, là chuyện đã cũ có thể không còn mang tính thời sự, nhưng kỳ 2 : Bí ẩn giá thuốc, thì vẫn mang tính thời sự.
Những kẽ hở về luật pháp cũng như sự bất lực, vô trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc các công ty dược nước ngoài thao túng thị trường tân dược Việt Nam. ***
Kỳ 1: Zuellig Pharma – “kẻ đột nhập”
Sau khi báo Thanh Niên và một vài tờ báo khác thông tin về tình hình tăng giá thuốc, trong đó có đề cập đến các hoạt động của Zuellig Pharma Việt Nam (ZPV), trong một bức thư gửi cho báo Thanh Niên mới đây, ZPV khẳng định: “Thị trường dược phẩm Việt Nam là một thị trường mang tính cạnh tranh cao độ với hơn 400 công ty trong nước và nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh dược phẩm. Theo thông lệ quốc tế cũng như những ý kiến đóng góp cho dự thảo Luật Cạnh tranh của Việt Nam gần đây, một công ty được xem là có vị trí độc quyền khi giữ vai trò thống trị và chiếm từ 30% thị phần trở lên trong lĩnh vực kinh doanh của mình, trong khi đó Zuellig Pharma Việt Nam hiện chỉ có được 15% thị phần dược phẩm trong nước và không thể bị coi là có vai trò thống trị”. ZPV còn cho rằng: “Thời gian qua, giá cả bị biến động mạnh do có lúc đồng tiền Việt Nam mất giá nghiêm trọng so với đồng Euro hoặc đồng Frankc Thụy Sĩ hoặc đồng đô la Mỹ. Các lô hàng sản xuất cho Việt Nam thường có số lượng nhỏ hơn so với công suất tối thiểu của dây chuyền sản xuất cũng đã ảnh hưởng đến quyết định điều chỉnh giá sản phẩm của nhà sản xuất”.
Để thay cho lời bình luận về sự khẳng định của ZPV, chúng tôi xin cung cấp thêm những thông tin liên quan để bạn đọc tự rút ra nhận xét.
Trong báo cáo gửi Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm về các giải pháp cấp bách bình ổn giá thuốc, Bộ Y tế nêu rõ: Trong tổng số 500 loại thuốc nước ngoài tăng giá (theo kết quả của những cuộc thanh tra gần đây) thì đã có 157 loại thuốc do Công ty Zuellig Pharma Việt Nam (ZPV) phân phối. Thuốc do ZPV phân phối tăng giá với mức 2%-12%, thậm chí có loại tăng 30%-60% (giá bán sau 1/10/2003 so với giá bán trước đó). Theo giấy phép số 08/GP-KCN-HN, ngày 29/3/1999 và các giấy phép đầu tư điều chỉnh với phạm vi hoạt động trong lĩnh vực dược do Ban Quản lý các khu công nghiệp và khu chế xuất Hà Nội cấp và các quy định có liên quan của Bộ Y tế thì ZPV chỉ được bán dược phẩm cho các doanh nghiệp trong nước có tư cách pháp nhân và chức năng kinh doanh dược phẩm.
Tuy nhiên, Thanh tra Bộ Y tế đã phát hiện, ZPV đã bán hàng cho các đối tượng mà mình không được phép phân phối như: nhà thuốc, bệnh viện… Song việc phân phối thuốc này lại được “hợp pháp hóa” bằng hình thức ký hợp đồng với Công ty cổ phần Dược liệu T.Ư 2 (Phytopharma). Hợp đồng có điều khoản “Phytopharma là bên bán lại các dược phẩm cho các khách hàng do ZPV chỉ định tùy theo từng thời điểm (các khách hàng) trong lãnh thổ, theo các điều khoản và điều kiện của hợp đồng này. Việc chỉ định cho Phytopharma mua các sản phẩm từ ZPV và bán lại các sản phẩm đó cho các khách hàng do ZPV xác định và với giá bán do ZPV quy định” (trích từ điều 01 Hợp đồng mua bán nguyên tắc ký ngày 25.5.2002 giữa Công ty cổ phần Dược liệu T.Ư 2 và Công ty TNHH Zuellig Pharma Việt Nam). Cơ quan thanh tra khẳng định, trên thực tế Phytopharma nhận thông tin chỉ định việc phân phối cho nhà thuốc, bệnh viện, bán lẻ, loại thuốc, giá cả… từ ZPV cung cấp. Phytopharma không trực tiếp thực hiện các công đoạn của quá trình phân phối mà chỉ xuất hóa đơn để cho nhân viên của ZPV tự xuất hàng, giao hàng từ kho của ZPV cho bệnh viện, nhà thuốc, bán lẻ và tự thu tiền.
Rõ ràng là bằng một động tác đơn giản là “mượn danh” (đúng hơn là thuê) một công ty trong nước, ZPV đã lách khỏi sự giới hạn của luật pháp và trở thành doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài duy nhất được quyền phân phối sản phẩm tại Việt Nam. Điều đó đã tạo cho công ty mẹ của ZPV là Zuellig Pharma Singapore (ZPS) có lợi thế hơn tất cả các công ty nước ngoài khác và là lý do để các nhà sản xuất lớn lựa chọn Zuellig là nhà phân phối độc quyền các sản phẩm của họ tại Việt Nam. Trong số 4.467 loại thuốc nước ngoài có số đăng ký với trên 900 hoạt chất thì số hoạt chất thuộc các thuốc do ZPS cung cấp vào Việt Nam đã lên tới 180 hoạt chất (trong đó, 97 hoạt chất chỉ duy nhất có 1 số đăng ký; khoảng 55 hoạt chất có từ 2 – 5 số đăng ký, 18 hoạt chất có 5 số đăng ký nhưng chỉ duy nhất do ZPS cung cấp). Đa số các thuốc do ZPS cung cấp là thuốc được bảo hộ về tên thương mại, nhãn hiệu hàng hóa.
Chỉ chưa đầy 3 năm được phân phối thuốc tại thị trường Việt Nam, ZPV đã giúp cho doanh thu của công ty mẹ tăng đáng kể. Doanh số của ZPS đứmg đầu trong tổng số các doanh nghiệp nước ngoài ký kết hợp đồng mua bán với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam. Cụ thể: năm 2001 khoảng 47 triệu USD, năm 2002 là 64 triệu USD và 9 tháng đầu năm 2003 là 51 triệu USD (doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu chỉ thực hiện dịch vụ nhập khẩu và hưởng phí ủy thác).
Việc ký hợp đồng phân phối sản phẩm giữa ZPV với Phytopharma có thể là không sai luật pháp, nhưng rõ ràng là không bình thường. Vì chỉ riêng việc mượn danh một doanh nghiệp khác để phân phối sản phẩm cũng đã làm cho giá thuốc đội lên. ZPV khẳng định họ “luôn tuân thủ luật pháp Việt Nam”. Chúng tôi cũng không quy kết những hoạt động nói trên của ZPV là sai luật pháp. Vấn đề đặt ra là vì sao ZPV có thể trở thành một doanh nghiệp độc quyền chi phối thị trường dược Việt Nam và họ đã “đột nhập” vào vị trí đó bằng cách nào?
ZPV cho rằng: “…Chỉ trong trường hợp mà nhà sản xuất điều chỉnh giá sản phẩm nào, chúng tôi mới buộc phải điều chỉnh giá sản phẩm ấy. Thời gian qua, giá cả bị biến động mạnh do có lúc đồng tiền Việt Nam mất giá nghiêm trọng so với đồng Euro hoặc đồng Frankc Thụy Sĩ hoặc đồng đô la Mỹ. Các lô hàng sản xuất cho Việt Nam thường có số lượng nhỏ hơn so với công suất tối thiểu của dây chuyền sản xuất cũng đã ảnh hưởng đến quyết định điều chỉnh giá sản phẩm của nhà sản xuất” (trích thư gửi báo Thanh Niên). Lý do mà ZPV đưa ra rõ ràng là không có sức thuyết phục. Thứ nhất là giá ngoại tệ tuy có tăng, nhưng trong vòng 3 năm qua không hề có tình trạng đồng Việt Nam “mất giá nghiêm trọng” so với các loại ngoại tệ. Thứ hai, việc các hãng dược nước ngoài sản xuất riêng các lô hàng để xuất khẩu sang Việt Nam là rất khó hiểu. Thứ ba, có những lô hàng nhập khẩu (ủy thác qua Phytopharma) có mức chênh lệch giữa giá nhập khẩu với giá bán buôn lên tới 20-60%, thậm chí một số loại thuốc chênh lệch tới 150-200%, ZPV giải thích như thế nào về tình trạng đó ?
***
Kỳ 2: Bí ẩn giá thuốc
Từ hãng bào chế cho đến người bệnh ở Việt Nam, một viên (lọ, ống…) thuốc chữa bệnh phải đi qua một mê hồn trận cực kỳ rối rắm với vô số các tầng nấc của lòng tham, cơ chế quan liêu và tình trạng suy đồi y đức…
Theo Bộ Y tế, mạng lưới cung ứng thuốc của Việt Nam đã đáp ứng 2.200 dân có một điểm bán lẻ thuốc, cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn của WHO (tối thiểu 3.000 dân có một điểm bán thuốc). Cùng với các doanh nghiệp nhà nước là hơn 500 công ty tư nhân và 88.000 nhà thuốc đại lý, tạo nên mạng lưới kinh doanh dược rộng, phủ kín các xã trong toàn quốc. Mặc dù có sự phân bố chưa đồng đều giữa thành thị và nông thôn, nhưng theo nhận xét của Ngân hàng Thế giới (WB) thì phạm vi bao phủ của mạng lưới đó là “quá đủ” và Việt Nam “không có dấu hiệu thiếu thuốc”. Thế nhưng, theo báo cáo mang tên “Định giá và bồi hoàn dược phẩm ở Việt Nam” trong đợt làm việc tại nước ta từ ngày 9 – 13/2/2004, WB nhận xét: “Các báo cáo không ngừng khẳng định giá thuốc nhập khẩu, thuốc được bảo hộ bản quyền đã tăng mà không có lý do rõ ràng. Người ta cũng dự đoán rằng nếu không có biện pháp thích hợp của các cơ quan chức năng thì giá thuốc vẫn tiếp tục tăng”. Và WB còn cảnh báo: “Mặc dù có thể lập luận được là đã có thuốc thiết yếu, nhờ vậy đã đảm bảo được chất lượng chăm sóc tối thiểu, nhưng việc tăng giá không ngừng của thuốc nhập khẩu sẽ dẫn đến những bất ổn về chính trị và xã hội, và cuối cùng sẽ hạn chế tiếp cận đối với những thuốc này”. Cần biết, theo ước tính của WB, thuốc sản xuất trong nước tuy chiếm từ 60-70% về khối lượng trên thị trường dược phẩm, nhưng chỉ chiếm 20-30% giá trị của thị phần, điều này cho thấy giá thuốc sản xuất trong nước rẻ hơn rất nhiều so với thuốc nhập khẩu.
Việc tăng giá thuốc được các hãng dược thực hiện qua nhiều tầng nấc, khi hiện khi ẩn, Nhà nước hầu như không kiểm soát được và cũng không có cơ chế kiểm soát.
Như chúng tôi đã thông tin, chỉ trong vòng 1 năm (tháng 3/2004 so với tháng 3 năm ngoái) giá dược phẩm và dịch vụ y tế tăng tới 15,3% (chủ yếu do giá thuốc tăng). Tuy đó là mức tăng rất không bình thường, nhưng vấn đề không phải là việc tăng giá mà ở chỗ giá thuốc ở Việt Nam có nhiều loại cao hơn một cách khó hiểu so với giá cùng một loại thuốc ở các nước châu Âu.
Kết quả thanh tra về giá thuốc mới đây cho thấy trong khi mức chênh lệch giữa giá nhập khẩu của các công ty xuất nhập khẩu dược phẩm và giá bán buôn thuốc của chính công ty này chỉ ở mức từ 5-8% thì các thuốc được nhập khẩu ủy thác qua các công ty nhà nước theo yêu cầu của các công ty TNHH và do chính các công ty này phân phối độc quyền, cắt lô, thì tỷ lệ chênh lệch giữa giá nhập khẩu so với giá bán buôn lên tới 50-300%. Các loại thuốc này được bán vào nhà thuốc bệnh viện, khoa dược bệnh viện, trung tâm y tế hoặc bán ngược lại cho công ty xuất nhập khẩu của nhà nước để đấu thầu bán vào bệnh viện. Đó là việc nâng giá lộ liễu, chỉ cần thanh tra là thấy rõ, nhưng không có cơ chế xử lý.
Nhưng không chỉ có vậy. Nhiều nhà kinh doanh dược phẩm chuyên nghiệp cho chúng tôi biết, nếu chỉ nhìn vào hóa đơn thương mại thì không thể biết mức chênh lệch thật giữa giá nhập khẩu và giá bán buôn là bao nhiêu. Vì có rất nhiều loại thuốc người ta đã nâng giá ngay từ nước ngoài, rồi làm hóa đơn với giá cao xuất vào Việt Nam. Phần lợi nhuận hạch toán tại Việt Nam có thể bé nhỏ, nhưng các khoản lợi nhuận khổng lồ thì để lại ở nước ngoài, không có bất cứ cơ quan nào của Việt Nam có thể kiểm soát được.
Một dược sĩ, giám đốc một công ty dược ở TP Hồ Chí Minh (xin được giấu tên) kể với chúng tôi một câu chuyện sau đây về giá thuốc. Gần đây, một công ty nước ngoài có mời một đoàn bạn hàng dược 20 người ở một quận của TP Hồ Chí Minh đi du lịch tại Ai Cập. Những người này có mời 2 cán bộ một công ty dược nước ngoài ở Việt Nam cùng đi, gồm 1 người nước ngoài và 1 nhân viên Việt Nam làm phiên dịch. Đây là chuyến du lịch Ai Cập đầu tiên do Vietnam Airlines tổ chức. Trong khi đi dạo chơi mấy ngày ở nước bạn, những người này đã vào một hiệu thuốc. Là những người buôn bán dược phẩm, họ rất ngạc nhiên khi thấy nhiều loại thuốc ở đây còn rẻ hơn rất nhiều so với giá bán sỉ ở Việt Nam. Những bạn hàng đó nói với cô phiên dịch của công ty dược nói trên, không biết cô ta nói lại với người bạn nước ngoài như thế nào nhưng cả hai cùng im lặng. Những người này bèn bỏ ra mỗi người 1.000 USD mua những loại thuốc đó. Về đến Thái Lan, số thuốc này bị bắt giữ, nhưng người hướng dẫn du lịch của Vietnam Airlines đứng ra xin cho, anh ta giải thích với Hải quan Thái Lan rằng đây là những người đi nghiên cứu thị trường dược, thuốc đó là thuốc mẫu mang về tham khảo. Hải quan Thái Lan thông cảm cho mang hàng đi. Về Việt Nam, họ đem bán số thuốc đó và lời từ 50 – 100%.
Câu chuyện của các bạn hàng dược mà ông dược sĩ kể lại là sự thật phổ biến. Theo khảo sát của chúng tôi, giá bán sỉ một số loại thuốc ở nước ngoài và ở Việt Nam có mức chênh lệch như sau:
TERNEURINE H5000 (thuốc chữa đau nhức thần kinh), hộp 4+4 ống, giá bán sỉ ở Pháp là 5,34 euro, tương đương với 100.018 đồng. Còn bán sỉ trong nước là 160.000 đồng, gấp 1,6 lần.
TANGANYL (thuốc chữa rối loạn tiền đình), hộp 20 viên, giá 2,96 euro (55.589 đồng); giá bán sỉ trong nước 92.000 đồng, gấp 1,7 lần.
NEOCODION (thuốc ho) hộp 20 viên, giá 0,88 euro (16.526 đồng); giá bán sỉ trong nước và 36.500 đồng, gấp 2,2 lần.
MYCOSTATINE (viên đặt phụ khoa), hộp 12 viên, giá bán sỉ ở Pháp hiện nay là 0,72 euro, tương đương với 13.522 đồng, còn giá bán sỉ ở Việt Nam là 33.000 đồng, cao gấp 2,44 lần.
LÉNITRAL 2,5 mg (thuốc chữa bệnh đau tim), hộp 60 viên, giá 1,82 euro (34.180 đồng), giá bán sỉ ở Việt Nam là 144.000 đồng, gấp 4,2 lần.
PALPAX (thuốc điều chỉnh nhịp tim), hộp 40 viên, 1,91 euro (35.870 đồng), giá bán sỉ trong nước 180.000 đồng, gấp 5 lần. …
Như trên đã nói, ở Việt Nam không thiếu thuốc, không khan hiếm thuốc, nhưng vì sao giá thuốc lại tăng, vì sao giá nhiều loại thuốc lại cao vọt so với giá quốc tế? Câu hỏi đó không khó trả lời. Đó là chính ngành dược nước ta đã tạo sự độc quyền cho các hãng dược nước ngoài. Nhưng trả lời đúng câu hỏi đó thì lại động chạm đến hai yếu tố, một yếu tố trơ lỳ nhất và một yếu tố “nhạy cảm” nhất. Đó là cơ chế và lòng tham của con người. Trong bài trước, chúng tôi có dẫn thư của Công ty Zuellig Pharma Việt Nam (ZPV), họ nói rằng họ mới chiếm 15% thị phần dược phẩm Việt Nam nên không thể coi họ có vị trí độc quyền được. Chúng tôi có thể nói ngay rằng, không những 15% mà dù họ chỉ chiếm 1% hay thấp hơn thì họ vẫn giữ độc quyền, bởi vì theo cơ chế hiện nay, một loại thuốc cấp số đăng ký cho ai thì người đó giữ độc quyền tuyệt đối đối với loại thuốc đó trên thị trường Việt Nam. Kỳ sau chúng tôi sẽ nói rõ về sự trơ lỳ và “nhạy cảm” của cơ chế này…
Vì không chính thức có biện pháp kiểm soát giá, cho nên những người cung cấp thuốc có đủ khả năng tăng giá. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy những người cung cấp sẽ ngày càng tận dụng quyền tự do này để tăng tối đa lợi nhuận thông qua việc tăng giá. (Trích nhận xét của WB về vấn đề giá dược phẩm ở Việt Nam).
Trong Tam Quốc diễn nghĩa kể Viên Thuật và Lưu Bị đánh
nhau to, Lưu Bị có vẻ yếu thế và lực hơn, Nên cầu cứu Lã Bố; Viên Thuật cũng
lôi kéo Lã Bố liên minh với mình để bắt sống Lưu Bị …
Đứng trước sự lựa chọn khó khăn này, Lã Bố muốn giảng hòa
nên đã kéo cả Kỷ Linh bộ tướng của Viên Thuật và Lưu Bị ra cửa Nha Môn bày trò bắn
kích.
[Lã Bố sai quân cắm họa kích ở
đằng xa rồi nói với Lưu Bị, Kỷ Linh: “ Ta
muốn 2 ông bãi binh nhưng các ông không nghe. Từ đây đến đó cách 150 bước, ta bắn
một phát tên nếu trúng ngạnh của họa kích thì hai bên phải bãi binh bởi đó là ý
trời. Nếu ta bắn không trúng hai ông muốn đánh nhau thì đánh. Ta định như thế,
nếu ai không nghe thì sẽ gộp quân với phía bên kia đánh lại…”
Ký Linh thấy họa kích đặt xa như vậy nên tin Lã Bố không
thể bắn trúng. Vả lại nếu không đồng ý cũng không được vì Lã Bố đã bày trò đã
quyết. Còn Lưu Bị thì chỉ còn cách cầu trời khấn Phật cho Lã Bố đừng bắn trật…
Kết cục Lã Bố đã bắn tên trúng ngạnh của thiên phương họa
kích, Kỷ Linh bộ tướng của Viên Thuật đành phải ngậm đắng nuốt cay bãi binh…
Theo La Quán Cơm, việc Trung Quốc động binh ở Biển Đông rất
có thể do Tập Cận Bình bày ra trò này để giảng hòa cuộc chiến giữa Phú Trọng và
Tấn Dũng đang vào hồi quyết liệt…Hành động này của Lã Bố-Tập Cận Bình là muốn
giải vây, cứu Nguyễn Tấn Dũng đang bị rơi vào tình cảnh nguy khốn, tính mạng
đang được tính theo ngày giờ Việt Nam
Hành động tập trận này nhằm răn đe ông Nguyễn Phú Trọng:
chỉ được phép đập ruồi còn hổ thì chỉ có thể đuổi về rừng…nào đó ở Tâu Âu hoặc
Mỹ…Nếu không nghe, không hiểu sự cảnh báo này tất yếu sẽ xảy ra đánh nhau với
Trung Quốc thì khò lòng ngồi yên với nhau mà đập ruồi chứ đừng mong đuổi hổ ?
Tại sai Trung Quốc lại ra tay cứu nguy cho Nguyễn Tấn
Dũng vào thời điểm kịch tính này ? Mặc dù dư luận bấy lâu nay của Việt Nam vẫn
đồn rằng: Ông Nguyễn Phú Trọng theo đường lối thân Tàu; Còn Nguyễn Tấn Dũng
theo đường lối thân Mỹ, muốn Việt Nam rời xa Trung Quốc…
Theo La Quán Cơm thì: nếu nhìn nhận như vậy là nông nổi,
là chỉ căn cứ vào đầu môi chót lưỡi của đám chính khách nhà nghề. Ông Nguyễn
Phú Trọng duyên nợ với Trung Quốc bởi cái bản quyền viện trợ không hoàn lại của
cái dây chuyền “ cơ chế thị trường định hướng XHCN” thuộc tác quyền Tàu…
Khi ông Nguyễn Phú Trọng hướng đất nước, Đảng, nhà nước chỉ
biết dựa vào cái dây chuyền này thì sẽ đẩy Việt nam vào cái tình thế lệ thuộc
tàu dài dài không chỉ đường lối, chính sách, đối nội đối ngoại và cả làm ăn
liên doanh kinh tế…Và Trung Quốc sẽ hưởng lợi dài dài từ cái khoản tiền tác quyền
này…
Trong chuyến thăm Việt Nam năm 2015, Tập Cận Bình một mặt
bắt tay, đích thân mời Nguyễn Tấn Dũng sang thăm Trung Quốc nhưng lại liếc mắt
đưa tình với câu thần chú, phương châm hành khi đàm đạo về quan hệ 2 đảng, 2 nhà nước với
ông Nguyễn Phú Trọng…
Phương
châm 16 chữ(tiếng Trung:十六字方针) (thập lục tự phương châm) đó là:"Sơn thủy tương liên, Lý tưởng tương
thông, Văn hóa tương đồng, Vận mệnh tương quan" nghĩa là sông núi gắn
liền, cùng chung lý tưởng, hoà nhập văn hoá, có chung định mệnh,xác định tư tưởng chỉ đạo và khung tổng
thể phát triển quan hệ hai nước Việt – Trung trong thế kỷ mới…
Còn với ekip Nguyễn Tấn Dũng ?
Ông Nguyễn Tấn Dũng đã từng
tuyên bố'Không đánh đổichủ quyền lấyhữu nghị viển vông'…đừng hiểu là ông chống Trung Quốc mà ông chỉ
chê trách, cười khẩy cái cách bắt tay, chơi với Trung Quốc của ekip Nguyễn Phú
Trọng…
Ý của ông Dũng nếu có đánh
đổi chủ quyền dân tộc thì đổi bằng “tiền
tươi thóc thật”…Điều này đã thể hiện qua hàng loạt dự án liên doanh với Trung
Quốc, vay vốn Trung Quốc và tạo điều kiện cho Trung Quốc thắng thầu… Từ bauxite
Tây Nguyên, đến 90 % nhà máy nhiệt điện do Trung Quốc là nhà thầu xây lắp; Rồi
hàng loạt dự án ngàn tỷ liên doanh với Trung Quốc, có bàn tay ngầm của Trung Quốc
phía sau, có vật tư, máy móc rởm Trung Quốc tuồn vào, giờ đắp chiếu, thành của
nợ; Rồi đường sắt Cát Linh-Hà Đông từ 300 triệu USD đội vốn lên trên 800 triệu
USD mà vẫn chưa chịu xong; rồi Formosa Hà Tĩnh danh nghĩa của Tàu Đài Loan nhưng
ruột là Tạu đại lục…
Tất cả những cú liên doanh
đó đều đẻ là tiền tươi thóc thật, có lợi cho Trung Quốc và chắc chắn chắn sẽ có
một số nhóm lợi ích đã được Trung Quốc chi công hậu hĩnh xảy ra dưới thời Chính
phủ Nguyễn Tấn Dũng ?
Hiếu Gió có đưa lên mạng
đơn tố cáo của Trịnh Xuân Thanh, không biết sắp tới khi ra tòa, Trịnh Xuân
Thanh có “anh dũng” như Nguyễn Xuân Sơn, khai tuốt tuột tuột đó là chuyện ăn bớt
dầu thô hút được ngoài Biển Đông…
Thử hình dung, theo lời
khai của Nguyễn Xuân Sơn, tiền trong tài khoản, trong két, mà các “bố” ở
PETROVIETNAM còn tìm cách chuyển đi chuyển lại để rồi cho mất tiêu hàng ngàn tỷ
VND, hàng trăm triệu USD ? Vậy thì số dầu hút được ngoài Biển Đông ai mà tin được
“ ma đi ăn cỗ’ không hút trộm, múc trộm…
Mấy năm trước, người viết
bài này cũng đã nghe tiếng xì xèo về chuyện trộm dầu thô mà Hiếu Gió đưa lên mạng;
Theo thông tin thì mất trộm già một phần 3…Có nghĩa nếu tổng sản lượng dầu thô
theo kê khai xuất được 30 tỷ USD thì số bị múc trộm cũng cỡ từ 15-20 tỷ USD…
Nên nhớ ½ lượng dầu thô của
Việt Nam hút lên được bán cho Trung Quốc ? Việt Nam cần gì phải sang Panama rửa
tiền…Chỉ cần xuất bán sang Trung Quốc rồi vòng về cái khoản tiền trộm cắp đó, thối
lại đó bằng hàng Tàu rởm, rẻ dễ bán trao tay…
Đó chính là cai duyên nợ,
dây mơ rễ má, cái tiền tươi thóc thật không phải là hữu nghị viển vông mà ông
Dũng nêu thành tiêu chí…Tập Cận Bình tìm cách cứu nguy cho Nguyễn Tấn Dũng xuất
phát từ cái ân tình được quy đổi bằng tiền tươi thóc thật đó…
Đã có năm, một quan chức Bộ Công thương lộ ra con số chênh lệch về côn số kim
ngạch ngoại thương do 2 Bộ của 2 nước kê khai chênh nhau tới 20 tỷ USD?
Theo người viết bài này,
đó là các khoản tiền đen, tiền rửa của các nhóm lợi ích Việt Nam móc ngoặc, làm
ăn với Trung Quốc được Trung Quốc cố tình xì ra để các nhóm này dờ hồn mà cúc
cung trung thành với Tàu. Nếu phản trắc, phía Trung Quốc chỉ cần xì ra cái danh
sách đen này là các chủ toi, bị xé xác tại Việt Nam…
Ekip ông Trọng đã có ý định
“ thanh toán” ông Dũng tại Hội nghị TW 6 khóa XI nhưng đã không thành và ông Trọng
đã phải lên TV mếu máo. Vụ đó, ông Dũng đã được Tập Cận Bình cứu…
Bức ảnh chụp ông Nguyễn Tấn
Dũng gặp Tập Cận Bình ở Nam Ninh, 2 bên mặc comle đồng màu, ca vạt máu xanh nước
biển trước khi diễn ra Hội nghị TW 6 khóa XI chí 4-6 ngày đã hé cho thấy có sự
thỏa thuận ngầm nào đấy mang màu sắc Biển Đông giữa Tập Cận Bình và Nguyễn Tấn
Dũng, mặc dù lúc đó Tập Cận Bình mới là Phó Đảng…
Hội nghị TW 6 khóa XI bế mạc
17/10 thì ngày 7/10/2012 Phạm Viết Đào bắt gặp một đoàn xe 4 chỗ mang biển số
Trung Quốc chạy trên cầu Thăng Long ra Nội Bài quang vài chục chiếc ?
Đoàn này là đoàn gì mà
sang Việt Nam không dám đi xe Việt Nam một quãng đường ngắn từ Hà Nội sang Nội
Bài. Họ đi sang và lên máy bay Trung Quốc về Trung Quốc; chứng tỏ phải là những
nhân vật quan trọng, thực thi những nhiệm vụ quan trọng thì mới cất công mang
xe từ Trung Quốc sang trong cái thời điểm Đảng CSVN đang tổ chực hội nghị để ký
luật ông Dũng?
Theo một nguồn tin vỉa hè
thì việc kỷ luật ông Dũng đã không được đồng thuận cao khi thăm dò trong BCT;
Nghe đâu chỉ có 6 phiếu gồm các ông: T,S,Q,N,D,H…Trớ trêu ông T.H.R bỏ phiếu trắng…Không
biết do thời điểm này nghe nói Trịnh Xuân Thanh có quan hệ mất thiết với con
gái rượu của ông T.H.R và sau đó lá phiếu trắng này được đáp lại bằng việc bố
trí cô này làm CT Hội đồng quản trị một Công ty nhà nước lớn…
Do không đạt được sự đồng
thuận cao trong BCT nên buộc lòng phải đưa ra BCHTW để lấy ý kiến. Trước khi
đưa ra BCHTW, Hội đồng tướng lĩnh đã có một cuộc họp riêng để bàn về vấn đề kỷ
luật ông Dũng. Trong cuộc họp này do sự tác động của tướng N.C.V; có thể có thể
có sự tác động nào đó, răng đe nào đó từ phía Trung Quốc nên Hội đồng tướng
lĩnh nghe nói không đồng ý kỷ luật ông Dũng nên tha ông Dũng đã cầu hòa Trung Quốc. Khi cánh quân đội đại diện là PQT lên tiếng không kỷ luật, tướng T.L thứ trưởng BCA đã phát biểu một câu rất khét: Nếu ký luật vì sai phạm kinh tế thì ký luật ai ngồi đây cũng được...Một ý kiến ngầm răn đe, các chú bỏ phiếu ký luật 3 X thì các chú chờ sẽ đến lượt các chú...
Nếu ai theo dõi sát truyền
hình thời đó sẽ thấy hình bóng ông Dũng cũng mất hút trên truyền hình hơn 1
tháng như trường hợp ông Trần Đại Quang vừa qua…Nếu chú ý theo dõi phiên bế mạc,
ông Trọng đọc diễn văn bế mạc mếu máo khóc thì máy quay quay cảnh phía dưới,
ông Đinh La Thăng ngồi tự tin vẻ đầy đắc thắng. Xem lại clip này hiện hình ảnh
này của ông Thăng đã bị cắt…
Tóm lại, theo La Quán Cơm,
với 3 kịch bản đã trình bày cho thấy: Trung Quốc có quan hệ với nhiều nhóm
trong chính trường Việt, có lợi ích, ân tình với nhiều nhóm và không muốn mất
ai giống như Lã Bố muốn hưởng lợi từ Viên Thuật nhưng lại không muốn mất bạn
Lưu Bị…
Hành động động binh của
Trung Quốc trên Biển Đông là ngầm ý đó: các chú phải bãi binh đi, nếu không
nghe ta sẽ gộp với phía bên kia oánh lại. Thông thường trong lịch sử mỗi khi Việt
Nam đứng trước sự đe dọa thách thức ngoại xâm phương bắc, người Việt thường chủ
động cởi bỏ oán thù cá nhân để đoàn kết với nhau bảo vệ đất nước !
Trần Hưng Đạo đã bỏ oán
thù riêng với Trần Cảnh để dốc lòng ra trận đánh quân Nguyên-Mông. Trung Quốc động
binh vừa mang thông điệp hòa giải của Lã Bố bắn kích cửa Viên Môn, vừa kích hoạt
tình thần đoàn kết Trần Hưng Đao-Trần Cảnh…để hòa giải của chiến Nguyễn Phú Trọng-Nguyễn
Tấn Dũng…
Với 3 kịch bàn này, Trung Quốc muốn phát đi tín hiệu cho các
phe nhóm đương chức đương quyền từng làm
ăn, từng tình sâu nghĩa nặng với Trung cộng thì cứ nên gắn bó với Trung Quốc…Xin
mượn lời trong 1 ca khúc của Tóc Tiên vợ của cầu thủ bóng đá xứ Nghệ Công Vinh:
“Cứ ăn cắp đi vì cuộc đời cho phép; Cứ ngu đi có Trung Quốc
bảo kê rồi…Ai lừa ai, ai hờn ai; Ai giận
ai, ai thù ai; Cho qua
đi.” ( Vì tôi còn sống )
Qua các hành động nhãn tiền, không khó đoán giải, diễn nghĩa
ý đồ của Trung Quốc.
Cái dây chuyền công nghệ của Trung Quốc vẫn đặt trọng tâm,
nhắm bỏ trứng vào tay các nhóm lợi ích đã và từng làm ăn với Trung Quốc. Cái dây
chuyền công nghệ này khác và tương khắc với cái dây chuyền công nghệ mà Mỹ và
Tây Âu đang khuyến khích Việt Nam tiếp nhận: Bỏ trứng vao tay và túi của nhân dân;
động lực chính của dây chuyền…
Những vụ tội phạm tầy trời xẩy ra liên tiếp trong thời gian gần đây, với sự gia tăng cả về tần suất lẫn mức độ tàn bạo, là những tiếng chuông báo động tình trạng suy đồi đạo đức và băng hoại lương tri trong xã hội.
Đặc biệt, sự xuất hiện của những tội phạm cực kỳ nguy hiểm nhưng có gương mặt sáng sủa trí thức như Nguyễn Đức Nghĩa, có tuổi đời non choẹt như Lê Văn Luyện, có nghề nghiệp tử tế như cô giáo Nguyễn Thị Thuận, …buộc chúng ta phải xem xét lại vấn đề từ gốc rễ:
Bản tính con người là thiện hay ác?
Hơn 2500 năm trước, Đạo Khổng – Mạnh đã trả lời rành mạch: “Nhân chi sơ tính bản thiện” – Con người sinh ra vốn có bản tính thiện.
Nhưng hơn hai trăm năm sau, Tuân tử lại nêu lên học thuyết về “tính ác”, khẳng định bản chất con người là ác, vì ác nên mới cần phải giáo hoá.
Trên thực tế, học thuyết của Khổng tử đã thắng thế tại Đông phương. Trong mỗi người Việt Nam chúng ta, ít hay nhiều đều đã chịu ảnh hưởng của Khổng giáo (Nho giáo). Tuy nhiên, học thuyết của Sigmund Freud trong thế kỷ 20 về cái Eros và Thanatos lại phù hợp với tư tưởng của Tuân tử. Thậm chí trên thế giới ngày nay, đặc biệt tại Mỹ, nhiều dự án nghiên cứu tội phạm học chủ trương tìm kiếm gien tội phạm, tức là đang vô tình tìm cách xác minh luận điểm của Tuân tử bằng thực nghiệm.
Vậy đâu là sự thật? Học thuyết nào đúng?
Sống trong một nền văn hoá pha trộn ảnh hưởng của Nho giáo truyền thống với các trào lưu tư tưởng Tây phương hiện đại, nhiều người trong chúng ta dễ rơi vào tình trạng do dự nước đôi. Nhưng Francois Julien, một triết gia Pháp hiện đại, trong cuốn “Xác lập cơ sở cho đạo đức”[1], đề nghị phải có một câu trả lời dứt khoát.
Loạt bài “Luận về bản tính thiện/ác” là một cuộc lội ngược dòng lịch sử từ Sigmund Freud tới Tuân tử, Khổng tử, suy ngẫm những kiến giải sâu sắc của cổ nhân kết hợp với thực tiễn xã hội ngày nay để từ đó đi tới một câu trả lời dứt khoát về bản tính con người.
Học thuyết của Freud về Eros và Thanatos
Sigmund Freud (1856-1939) là một trong những nhà khoa học được liệt kê trong cuốn “On Giants’ Shoulders” (Đứng trên vai những người khổng lồ) của Melvyn Bragg, bên cạnh những tên tuổi vĩ đại khác như Archimedes, Galileo Galilei, Isaac Newton, Henri Poincaré, Albert Einstein.
Công lao chủ yếu của Freud là khám phá ra vô thức (unconsciousness) như tầng tư duy nền tảng định hướng mọi hành vi của con người.
Khám phá này được coi như một cuộc cách mạng trong nhận thức về bản chất của hành vi, bởi trước đó nền văn minh có xu hướng đề cao ý thức như phần tư duy chủ yếu của con người.
Con người luôn tin rằng mình hơn hẳn loài vật ở chỗ có ý thức. Ý thức là tầng tư duy vượt lên trên bản năng, kiềm chế bản năng. Loài vật hành động thuần tuý theo bản năng. Vì thế ý thức phải là tư duy đặc trưng của con người, chỉ loài người mới có. Ý thức là đặc ân của Thượng đế ban phát cho loài người.
Nhưng Freud kéo loài người về vị trí khiêm tốn hơn: tư duy chủ yếu quyết định hành vi thực ra không phải là ý thức, mà là vô thức.
Vô thức là gì? Đó là trạng thái tư duy dẫn tới những lời nói và việc làm mà không biết rõ mình đang nói gì, làm gì. Nói cách khác, đó là tình trạng tư duy theo bản năng, không có sự can thiệp của lý trí, hoặc lý trí quá yếu, không thể chế ngự hành vi.
Ngủ mê là một biểu hiện rõ nhất của vô thức. Có những người ngủ mê đang giải một bài toán rắc rối, tranh luận hung hăng, lập luận lộn xộn, vừa logic vừa phi logic. Có những giấc mơ kỳ lạ như giấc mơ của Mendeleev: nhờ ngủ mê mà khám phá ra Bảng nguyên tố tuần hoàn.
Mặc dù đến nay người ta chưa biết bản chất của vô thức là gì – một ẩn số vĩ đại của Tự Nhiên – nhưng sự tồn tại của vô thức là điều không ai còn tranh cãi. Freud khẳng định sự hiện hữu của vô thức, phân biệt nó một cách rành mạch với ý thức mà bao lâu trước đó người ta vẫn còn lẫn lộn. Ông nói: “Tinh thần, bất kể bản chất nó có thể là cái gì, bản thân nó là vô thức”[2]. Muốn tìm hiểu vô thức, hãy tìm hiểu các giấc mơ. “Giấc mơ thường sâu nhất khi nó điên rồ nhất”, Freud nói.
Tuy nhiên vô thức không chỉ hoạt động trong giấc mơ, mà hoạt động ngay cả khi ta tỉnh thức. Nói một cách bóng bẩy, nếu coi vô thức là “tư duy trong mơ” thì cuộc đời quả thật là một giấc mơ, một ảo mộng, một ảo ảnh, một kiếp phù du, một kiếp tạm bợ, … bởi vì theo Freud, vô thức choán hầu hết tư duy của con người. Vô tình, tư tưởng về vô thức của Freud đã giải thích thuyết vô minh của Phật giáo – con người chủ yếu sống theo bản năng nên nói chung là vô minh. Theo Phật giáo, ý nghĩa của kiếp sống là tu luyện để thoát khỏi vô minh (giác ngộ).
Một người suốt ngày chỉ biết tất bật chạy chợ làm ăn là một người tư duy chủ yếu bằng vô thức. Kiếm được nhiều tiền thì hỉ hả, không kiếm được tiền thì buồn lo, ấy là vô minh. Tuy nhiên, ngay cả những “bậc chữ nghĩa đầy mình”, bề ngoài ta tưởng họ tư duy chủ yếu bằng ý thức, nhưng thực ra phần lớn cũng hành động theo vô thức.
Chẳng hạn, một nhà khoa học tham gia vào việc sản xuất bom hạt nhân. Ông ta là một người có học, thừa trí tuệ để giải quyết những bài toán khoa học và kỹ thuật phức tạp, nhưng có thể hoàn toàn vô thức về ý nghĩa của công việc mình đang làm. Những khái niệm về đạo đức vốn thuộc về ý thức, nhưng không đủ mạnh để ngăn trở ông ta tham gia vào một công việc mang tính chất chống nhân loại. Khi ấy, cái vô thức hướng dẫn ông ta lao vào làm việc say mê. Sự hướng dẫn này có thể xuất phát từ những bản năng rất thô sơ – bản năng sinh tồn (kiếm tiền), bản năng bầy đàn (người khác làm thì mình cũng làm), bản năng phục tùng trong bầy đàn (làm theo sự chỉ huy của cấp trên), hay thậm chí cao cấp hơn là bản năng thoả mãn trí tò mò (bản thân trí tò mò vẫn chỉ là bản năng. Nếu nó dẫn tới một hành vi có lợi thì sẽ được gọi là khát vọng sáng tạo. Ngược lại thì không đáng được gọi như thế).
Hãy suy ngẫm về trường hợp Werner Heisenberg[3], cha đẻ của Nguyên lý Bất định nổi tiếng trong Cơ học lượng tử, từng là Giám đốc chương trình chế tạo bom nguyên tử của Đức quốc xã trong Thế chiến II. Có vẻ như nghịch lý khi gán cho một nhà bác học xuất chúng như Heisenberg cái “tội” vô thức hoặc vô minh. Nhưng nếu không kết tội như thế thì chẳng lẽ nói rằng Heisenberg cam tâm phục vụ Hitler sản xuất bom nguyên tử là một hành động xuất phát từ ý thức hay sao? Điều đáng tiếc là cho đến nay giới học thuật khoa bảng vẫn né tránh việc nhắc đến sai lầm của Heisenberg. Có lẽ vì truyền thống trọng vọng những người tài giỏi uyên bác đã ngăn cản họ phê phán Heisenberg. Nếu vậy thì bản thân thói sùng bái này cũng là vô thức và vô minh.
Tất nhiên không phải nhà bác học nào cũng như Heisenberg. Albert Einstein là một tâm hồn nhân bản sâu sắc khi ông lên tiếng mạnh mẽ chống đối vũ khí hạt nhân. Nhưng có bao nhiêu nhà khoa học có tinh thần nhân bản mạnh mẽ như Einstein? Có bao nhiêu nhà khoa học có ý thức rõ ràng về công việc mình đang làm? Nếu tất cả các nhà khoa học đều có ý thức mạnh mẽ về lương tri thì tại sao thế giới lại hiện hữu một kho vũ khí hạt nhân khổng lồ đủ sức xoá sạch 6 lần bản đồ thế giới? Tại sao có vũ khí sinh học, hoá học? Tại sao có không biết bao nhiêu phương tiện huỷ diệt khác?
Vào thời của Freud, thế giới thô sơ hơn hiện nay rất nhiều, nhưng bản chất con người chẳng khác gì hôm nay. Freud nhìn thấu bản chất ấy và nhận ra hai xu hướng bản năng đối lập mà ông gọi là Eros và Thanatos[4]:
– Eros là một từ gốc Hy-Lạp, Ἔρως, được Freud sử dụng để biểu thị cái “libido” hoặc bản năng sống hướng tới thoả mãn các ham muốn dục vọng và sự sống còn. Ham ăn, ham uống, ham sắc dục, ham của cải vật chất, ham tiền bạc, ham danh lợi, … là những thứ ham muốn nằm trong cái Eros nói chung. Những ham muốn này là tự nhiên, xuất phát từ bản năng sinh tồn. Đối lập với bản năng sinh tồn là bản năng Thanatos.
– Thanatos cũng là một từ gốc Hy-Lạp, Θάνατος, dịch ra tiếng Anh là “death wish”. Freud sử dụng thuật ngữ này để chỉ trạng thái “muốn huỷ hoại” – một trạng thái tâm lý tiêu cực như muốn đập phá, huỷ hoại mọi thứ bất chấp cái chết để giải quyết những bế tắc, căng thẳng trong cuộc sống. Biểu lộ thấp nhất của cái Thanatos là thói tự ái, nóng giận, nổi khùng mà ai cũng có thể có. Rất nhiều đổ vỡ trong hôn nhân hay trong quan hệ giữa người với người nói chung xuất phát từ những cơn tự ái bất chấp. Đó là lúc bản năng Thanatos trỗi dậy, không thể kiểm soát. Sự ghen tức, đố kị dẫn tới hãm hại lẫn nhau là biểu hiện cao hơn của Thanatos. Thù oán, giận dữ đến mức giết hại đồng loại là biểu hiện tột cùng của Thanatos.
Cả hai bản năng nói trên không chỉ tồn tại trong từng cá thể, mà có thể tồn tại ngay cả trong một cộng đồng xã hội, tạo nên một xu thế sống trong cộng đồng đó. Những vụ tự tử tập thể là một bằng chứng. Chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan, bề ngoài được che đậy bởi mục tiêu tôn giáo, nhưng thực chất cũng là một biểu hiện của cái Thanatos lên tới cực điểm. Có thể chỉ ra hàng đống ví dụ khác để thấy vai trò của Thanatos tác động tiêu cực đến xã hội loài người như thế nào.
Tất nhiên bản năng vô thức bị kiềm chế bởi lý trí – ý thức làm cho con người hơn hẳn con vật. Nhưng khả năng kiềm chế của lý trí lớn đến đâu? Lý trí có thể chiến thắng bản năng Eros và Thanatos hay không? Đây chính là câu hỏi khó nhất và cũng là quan trọng nhất khi nhận định về tương lai của nền văn minh. Nếu lý trí thắng, nền văn minh sẽ tiến lên. Nếu bản năng thắng, nền văn minh sẽ sụp đổ.
Thực tế cho thấy tuỳ theo từng trường hợp, từng hoàn cảnh cụ thể, từng cá nhân mỗi con người hoặc từng xã hội, khả năng và mức độ kiểm soát của lý trí đối với bản năng Eros và Thanatos là khác nhau.
Những cá nhân như Nguyễn Đức Nghĩa và Lê Văn Luyện có lẽ thuộc loại thuần tuý bản năng. Trước khi thực hiện hành vi man rợ, chúng tính toán kế hoạch rất tỉ mỉ. Những kế hoạch này càng quỷ quái ranh ma bao nhiêu càng chứng tỏ cái bản năng Eros và Thanatos lớn bấy nhiêu.
Có những xã hội cũng hành động điên rồ như những cá nhân tội phạm. Chủ nghĩa quốc xã Đức là cái gì nếu không phải là một tập thể hành động theo cái Eros (tranh giành quyền lợi) và Thanatos (tiêu diệt người Do Thái, lập nên những trại tập trung, lò thiêu người, …). Những mồ chôn tập thể của Khơ-Me đỏ những năm 1970 hay của Gaddafi mới được phát hiện trong Tháng 9/2011 vừa qua là cái gì nếu không phải là kết quả của một nền chính trị bị chi phối bởi những con quỷ Eros và Thanatos?
Đôi khi những con quỷ ấy bị nguyền rủa như một thứ “bản năng dã thú” hay “bản năng súc vật”. Sự nguyền rủa này có phần oan uổng cho loài vật, vì thú dữ chỉ dữ khi chúng đói hoặc bị tấn công. Khi chúng được ăn no, chúng trở nên hiền lành đến mức có thể sai bảo. Đó là bí quyết của các môn xiếc động vật. Nói cách khác, bản năng của động vật là có giới hạn, và giới hạn này do Tự Nhiên quy định, đó chính là luật cân bằng sinh thái.
Chỉ có con người mới phá vỡ luật cân bằng sinh thái, đơn giản vì cái Eros và Thanatos ở con người không có giới hạn, đúng như ngạn ngữ Việt Nam đã nói: “Lòng tham không đáy!”. Thật vậy, cái Eros của con người vượt xa con vật. Đã có 1 tỷ đô-la lại muốn có 10 tỷ, bỏ ngoài tai lời tâm sự của Warren Buffet[5]: “Khi tôi đã có 1 tỷ, mọi đồng tiền kiếm thêm đều vô nghĩa”. Trong hơn 6 tỷ người trên trái đất, có bao nhiêu người thấm thía ý kiến của Honoré de Balzac trong “Tấn trò đời”: “Đằng sau những tài sản kếch xù đều là máu và nước mắt”? Bao nhiêu người lắng nghe Lão tử: “Hoạ mạc đại ư bất tri túc; cữu mạc đại ư dục đắc. Cố tri túc chi túc, thường túc hĩ” (Không cái hoạ nào lớn hơn là không biết tri túc; không sai lầm nào lớn hơn là tham lam. Cho nên kẻ biết cái đủ là đủ thì không bị nhục và bao giờ cũng thấy đủ)?[6]
Vì thế không ngạc nhiên khi thấy Sigmund Freud, ngay từ năm 1930, trong tác phẩm “Civilization and Its Discontents”[7] (Nền văn minh và sự bất mãn của nó), đã sớm có một cái nhìn đầy bi quan về mối quan hệ xung đột giữa nền văn minh với chính chủ thể sáng tạo ra nền văn minh đó: Nền văn minh muốn tiến lên để đem lại hạnh phúc cho con người, nhưng luôn luôn bị chệch hướng và thậm chí bị huỷ hoại bởi cái Eros và Thanatos.
Freud đáng được thông cảm, bởi ông đã chứng kiến cuộc Thế chiến I. Ở một mức nào đó, cảm nhận của ông về tương lai của nền văn minh nhuốm vẻ tiên tri – chưa bao giờ xã hội loài người lâm vào tình trạng mất cân đối nghiêm trọng như hiện nay: mất cân bằng sinh thái; chiến tranh khu vực; khủng bố; suy đồi đạo đức; khủng hoảng tội ác; đám mây hạt nhân treo lơ lửng trên bầu trời; bất công xã hội lên đến mức vô đạo (90% của cải vật chất tập trung vào 5% dân số thế giới, bất chấp ngót 1,5 tỷ người đang sống nghèo đói và bệnh tật); v.v.
Bình luận về vấn đề này, học giả David Peat viết[8]:
“Lý trí, cái vốn được coi là nền tảng chắc chắn của một xã hội, thực ra chỉ là bề nổi của một đại dương vô thức mênh mông – một tầng tâm lý nằm sâu bên dưới, ẩn giấu những khát vọng điên cuồng và những cơn bốc đồng thôi thúc. Sức mạnh của cái vô thức này thường xuyên đe doạ nổ tung trong cuộc sống tỉnh thức của chúng ta… Theo Freud, tình trạng căng thẳng này là không thể giải quyết được, do đó không bao giờ có thể có một xã hội thật sự lý tưởng, cũng như không bao giờ có một hạnh phúc và sự hài hoà thuần khiết của con người. Có lẽ đây là lý do căn bản để sự cùng khốn, bất công xã hội, và sự bất bình đẳng chính trị châm ngòi cho sự bùng nổ bạo lực và những căng thẳng xã hội.
Tuy nhiên nguồn gốc sâu xa của những căng thẳng đó chính là cái Thanatos – trạng thái muốn huỷ hoại được phóng chiếu lên các quốc gia, các nhóm sắc tộc, và các cá nhân. Vì cái Eros và Thanatos không thể hoà giải được với nhau nên tội lỗi của con người và sự thiếu vắng của một hạnh phúc trọn vẹn là điều khó tránh. Tất cả mọi hình thái của nền văn minh, từ nền tảng cốt lõi của chúng, đã là một sự đối kháng đối với xu thế bản năng và khát vọng căn bản nhất của chúng ta”.
Đáng tiếc là Freud có một số quan điểm thái quá khi bàn đến bản năng dục vọng, vì thế số người chống đối ông không ít (bao gồm cả tác giả bài viết này). Cách nhìn bi quan của ông về con người và tương lai của nền văn minh cũng khiến một số người kết tội ông là hạ thấp gía trị của con người, thiên về cái xấu của con người thay vì đề cao giá trị của ý thức.
Tuy nhiên, sẽ có ý nghĩa tích cực nếu ta coi ý kiến của Freud như những lời cảnh tỉnh. Chẳng hạn, ông nói: “Cái tôi không phải là ông chủ trong căn nhà của chính nó” (The ego is not master in its own house), đại ý ông muốn nói: thay vì làm chủ được chính mình, con người chỉ là những tên nô lệ của bản năng mà thôi. Nhận định này có thể đúng với người này, sai với người khác. Nhưng người nào càng tự phụ cho rằng ý thức của mình mạnh hơn bản năng, người ấy càng có nguy cơ rơi vào cạm bẫy của bản năng nhiều hơn.
Cảm nhận bi quan của Freud về tương lai của nền văn minh có thể là sai, và mong rằng nó sẽ sai, nhưng đó là tiếng chuông cảnh báo để tất cả chúng ta phải tỉnh thức!
Chú thích:
[1] “Xác lập cơ sở cho đạo đức”, Francois Julien, bản dịch tiếng Việt của Hoàng Ngọc Hiến, NXB Đà Nẵng, năm 2000.
[2] Những ý kiến của Freud trích dẫn trong bài này có thể tìm thấy trên trang mạng:
[3] Xem loạt bài “Chương trình chế tạo bom nguyên tử của Hitler” của Phạm Việt Hưng trên Khoa học & Đời sống từ 27/06/2005 đến 15/07/2005, hoặc trên các trang mạng: http://vietsciences.free.fr/ và https://viethungpham.wordpress.com/
[4] Eros và Thanatos là hai nhân vật đối lập trong thần thoại Hy-Lạp: Eros là vị thần của sắc đẹp, tình yêu nhục dục và sự sinh sản; Thanatos là thần chết.
[5] Đại tỷ phú Mỹ, tuyến bố sẽ hiến tặng hầu hết tài sản cho từ thiện sau khi ông mất. Ngay bây giờ ông đã hiến tặng một phần đáng kể tài sản. Ông kêu gọi các tỷ phú khác cũng làm như ông. Ông đang sống trong một căn nhà bình dân, đi một chiếc xe bình dân như mọi người bình dân khác.
[6] Đạo Đức Kinh, Lão tử, NXB Văn học, 2001, trang 58.
[7] Xuất bản lần đầu bằng tiếng Đức dưới tiêu đề “Das Unbehagen in der Kultur” (Sự bất ổn trong nền văn hoá), được xem là một trong những công trình quan trọng nhất và được phổ biến rộng rãi nhất của Freud.
[8] Xem “From Certainty to Uncertainty”, David Peat, Joseph Henry Press, Washington, D.C., 2002
Theo Epoch Times France, các nhà lý luận thuyết âm mưu tuyên bố rằng: Trái đất có thể phải “chấm dứt” vào 1 tháng tới trong năm nay bởi sự va chạm của Trái đất với một hành tinh bí ẩn khổng lồ. Họ cũng nói thêm rằng “Nhật thực toàn phần” ngày 21 tháng 08 vừa qua tại Mỹ chính là một dấu hiệu cảnh báo.
“Nhật thực toàn phần” ở Mỹ xảy ra vào ngày 21 tháng 8 vừa qua, khiến các nhà lý luận âm mưu lo sợ rằng vào tháng Chín tới đây sẽ là mốc đánh dấu của ngày “tận thế” nếu hành tinh Nibiru va vào Trái Đất.
Nibiru, được biết tới với cái tên “Hành tinh X” ở rìa hệ Mặt trời của chúng ta, và nó không được đánh dấu trên bản đồ chiêm tinh.
Theo tờ Daily Star, nhà chiêm tinh học và nhà số học, David Meade dựa vào quan sát của mình, ông cho biết “Hành tinh X” sẽ xuất hiện trên bầu trời vào ngày 23 tháng 9 – được đề cập trong cuốn sách “Planet X – The 2017 Arrival” của ông, và rằng nó sẽ đến rất gần Trái đất bởi từ tính của nó.
Nhưng, một suy đoán khác chỉ đơn giản là nó sẽ đâm vào trái đất vào tháng Chín! Chúng ta hy vọng rằng suy đoán này sẽ không xảy ra.
“Nhật thực toàn phần ở Mỹ vào ngày 21 tháng 8 năm 2017, là một báo hiệu lớn,”Meade nói. Ông đã so sánh điều này với những sự kiện trong kinh “Cựu Ước ” của Isaiah, Chương 13 trong các câu thơ của Kinh Thánh. Ông phát hiện rằng có một số sự trùng hợp liên quan đến số 33.
Mặt Trăng bắt đầu rời khỏi vị trí thẳng hàng với Trái Đất và Mặt Trời vào khoảng 1h chiều ngày 21/8. Ảnh: AP
David Meade nói thêm rằng “Khi nhật thực toàn phần bắt đầu vào ngày 21 tháng 8, mặt trời sẽ tối sầm, giống như tiên đoán trong kinh Cựu Ước Isaiah. Mặt trăng vào thời điểm đó được gọi là “mặt trăng đen”. Điều này diễn ra 33 tháng một lần. Trong Kinh thánh, một trong những danh xưng của Đức Chúa Trời là Elohim đã xuất hiện 33 lần trong Sáng thế kỷ,”.
“Nhật thực toàn phần bắt đầu ở Lincoln Beach, tiểu bang Oregon – bang thứ 33 – với điểm kết thúc ở vị trí 33 độ của thành phố Charleston, Nam Carolina. Nhật thực đã không xảy ra kể từ năm 1918, tức là 99 năm – một bội số của 33 “, ông kết luận.
Tuy nhiên, NASA giấu sự tồn tại của Nibiru mặc dù nghiên cứu được công bố đã chỉ ra sự hiện diện của nó, theo báo cáo của trang The Sun.