Thứ Bảy, 21 tháng 10, 2017

NGẪU NHIÊN: NGÀY 18/10 PHẠM VIẾT ĐÀO GỬI ĐƠN KHIẾU NẠI TỚI BỘ TT-TT; NGÀY 19/10 CẢ TBT VÀ PHÓ TBT INFONET BỊ ĐÌNH CHỈ...

Tạm đình chỉ Tổng Biên tập, Phó Tổng Biên tập báo điện tử Infonet

Công Lý  13 liên quan
Hai lãnh đạo Báo điện tử Infonet bị tạm đình chỉ chức vụ để làm rõ trách nhiệm cá nhân trong những sai phạm của tờ báo này.
Tam dinh chi Tong Bien tap, Pho Tong Bien tap bao dien tu Infonet - Anh 1
Trang chủ báo điện tử Infonet. Ảnh chụp màn hình
Chiều nay, 19/10, Bộ trưởng Bộ TT&TT Trương Minh Tuấn đã ký các quyết định số 1824/QĐ-BTTTT và 1825/QĐ-BTTTT về việc tạm thời đình chỉ chức vụ đối với ông Võ Đăng Thiên, Tổng Biên tập Báo điện tử Infonet và ông Phạm Thanh, Phó Tổng Biên tập trong thời gian 15 ngày để làm rõ trách nhiệm cá nhân đối với những sai phạm của báo điện tử Infonet trong thời gian vừa qua.
Trong thời gian ông Võ Đăng Thiên tạm đình chỉ công tác, ông Nguyễn Văn Bá được giao nhiệm vụ làm Phó Tổng Biên tập phụ trách Báo điện tử Infonet.
PV

 

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập-Tự do-Hạnh phúc
Hà Nội, ngày 18/10/2017

ĐƠN KHIẾU NẠI
(Về việc Tổng Biên tập Báo điện tử Infonet đăng thông tin sai sự thật, xâm phạm lợi ích hợp pháp, quyền nhân thân của công dân Phạm Viết Đào.)

Kính gửi: -Bộ trưởng Bộ Thông tin-Truyền thông
-Cục trưởng Cục Báo chí-Bộ Thông tin-Truyền thông
-Chánh thanh tra Bộ Thông tin-Truyền thông

Tôi là Phạm Viết Đào, công chức đã nghỉ hưu; 
Số Chứng minh thư nhân dân: ...
Địa chỉ nơi cư trú: Số nhà...
Tôi gửi đơn khiếu nại  về việc Tổng Biên tập báo điện tử INFONET, cơ quan chủ quản: Bộ Thông tin Truyền thông đã cho đăng bài: “Nhà báo “tố” TAND Cầu Giấy tạo tiền lệ khiến các báo sạt nghiệp?” tác giả Tiến Anh ngày 14:14 - 06/10/2017
Bài báo đã đưa một số thông tin sai sự thật, xâm phạm lợi ích hợp pháp, đời tư, quyền nhân thân của tôi, công dân Phạm Viết Đào.
Tôi xin xuất trình bằng chứng về những thông tin sai trái của Báo điện tử INFONET đã đưa lên công luận xâm phạm lợi ích hợp pháp của tôi:
Chứng cứ 1: “Theo phản ánh của nhà báo Phạm Ngọc Dương trên trang facebook cá nhân của mình thì vào năm 2013, nhà văn Phạm Viết Đào đăng hàng loạt video "vong hồn" tử tù Bùi Đức Lợi nhập cô đồng Sinh kêu oan. Trong đó có nhiều thông tin đáng sợ.
Đây là thông tin sai sự thật, bịa đặt, vu cáo tôi, vì năm 2013 tôi không hề lập facebook cá nhân trên mạng !
Năm 2013 tôi không hề có bất cứ bài viết nào đưa lên mạng như báo INFONET đưa tin:” nhà văn Phạm Viết Đào đăng hàng loạt video "vong hồn" tử tù Bùi Đức Lợi nhập cô đồng Sinh kêu oan. Trong đó có nhiều thông tin đáng sợ…”
Đề nghị Tổng Biên Tập báo INFONET xuất trình chứng cứ ?
Chứng cứ 2: “Nhà báo Phạm Ngọc Dương viết trên trang cá nhân: "Tôi đang điều tra, thì nhận được đơn tố cáo của bà Mùi là mẹ Lợi, kêu oan. Tôi liên lạc và về Vân Đồn, được bà tiếp đón, cung cấp chứng cứ. 9h tối, tôi chụp ảnh chân dung bà. Tất nhiên, bà ngồi nhìn vào ống kính, đèn flast sáng loà. Tài liệu bà cung cấp, ghi âm đầy đủ.
Tôi đi điều tra kỹ, gặp thân nhân những người bị sát hại và viết bài công tâm. Mục đích viết bài để làm sáng tỏ sự thật, để giải đáp cho dư luận, giúp dư luận tránh hiểu sai về các cơ quan tố tụng và đi tin vào cô đồng. Cũng là muốn bà mẹ nhận ra sự thật, không mê muội, tốn kém cho luật sư và kẻ kích động đằng sau.
Tôi đăng bài trên VTC.VN thì không vấn đề gì, nhưng bài đăng trên ấn phẩm Gia đình và Cuộc sống thì gặp rắc rối vì tấm ảnh chân dung bà Mùi xuất hiện trên báo.
Sau khi bài đăng, ông Phạm Viết Đào gặp lãnh đạo báo, đề nghị viết bài tố Công an tỉnh Quảng Ninh giết người. Báo không đồng ý thì ông Đào kích động bà Mùi kiện lên Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông. Thanh tra Bộ phạt báo 9 triệu vì đăng ảnh cá nhân không có văn bản đồng ý…”
Việc Báo điện tử INFONET đưa lại thông tin cá nhân của nhà báo Phạm Ngọc Dương mà không có nguồn kiểm chứng có cơ sở là hành vi vi phạm Luật báo chí.

Đây là hành vi từng đã được Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Võ Văn Thưởng cảnh báo:” có tình trạng báo chí bị mạng xã hội dẫn dắt, tồn tại những bất cập trong việc sử dụng, thông tin trên mạng xã hội của một số phóng viên, nhà báo...” (Có tình trạng báo chí bị mạng xã hội dẫn dắt-http://dantri.com.vn/chinh-tri/co-tinh-trang-bao-chi-bi-mang-xa-hoi-dan-dat-2017062016595513.htm )

Là người được báo nêu đích danh trong bài viết, tôi hoàn toàn bác bỏ thông tin cho rằng: “Sau khi bài đăng, ông Phạm Viết Đào gặp lãnh đạo báo, đề nghị viết bài tố Công an tỉnh Quảng Ninh giết người. Báo không đồng ý thì ông Đào kích động bà Mùi kiện lên Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông. Thanh tra Bộ phạt báo 9 triệu vì đăng ảnh cá nhân không có văn bản đồng ý…”
Đây là thông tin sai sự thật, bịa đặt, vu cáo tôi, công dân Phạm Viết Đào; Tôi không hề có các hành vi “tố cáo Công an Quảng Ninh giết người; Không có hành vi kích động bà Mùi kiện…”; Tôi không hề kích động Thanh tra Bộ Thông tin-Truyền thông xử phạt Báo Gia đình Việt Nam ?
Tôi yêu cầu Tổng Biên tập báo điện tử INFONET xuất trình bằng chứng chứng minh hành vi nêu trên của tôi, nếu có ?
Chứng cứ 3: Báo điện tử INFONET đưa tin: “Cơ quan chủ quản phạt thì nộp thôi. Có văn bản phạt thì bà Mùi tiến hành kiện. Đúng lúc đó ông Đào bị bắt vì tội chống phá nhà nước. Ra tù, ông Đào hỗ trợ bà Mùi khởi động lại vụ kiện…”
Tôi xác nhận, thứ nhất: tôi có tư vấn hỗ trợ pháp lý cho bà Nguyễn Thị Mùi, địa chỉ Vân Đồn, Quảng Ninh gửi Đơn khiếu nại lên Thanh tra Bộ Thông tin-Truyền thông và làm đơn khởi kiện Tổng Biên tập báo Gia đình Việt Nam; Những hành vi tư vấn pháp lý này được pháp luật cho phép. Bởi vì tôi nguyên là Trưởng Phòng Thanh tra báo chí-xuât bản Bộ Văn hóa-Thông tin, có kiến thức pháp luật về lĩnh vực này.
Thứ 2: Tôi bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tuyên phạt tù tại Bản án số 305/2014/HSPT về hành vi vi phạm Điều 258 của Bộ Luật Hình sự:”Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân”…
Báo điện tử INFONET lại đưa tin về tôi ” Đúng lúc đó ông Đào bị bắt tội chống phá nhà nước” là tội được quy định tại Điều 88 của Bộ Luật Hình sự- Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam…
Điều 13 BLTTHS 2015, quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật…”
Như vậy, Tổng biên tập INFONET đã vi phạm Điều 13 của Bộ Luật Tố tụng Hình sự, tùy tiện kết tội tôi vi phạm Điều 88; Đó là tội danh mà không một phiên tòa, bản án nào kết án tôi ?
Vậy thì Tổng Biên tập INFONET lấy quyền gì dùng công luận để buộc tội tôi vi phạm Điều 88 của Bộ Luật Hình sự ?
Với những thông tin bị đặt, vu cáo của Tổng Biên tập báo điện tử INFONET đối với tôi, tôi Phạm Viết Đào gửi đơn khiếu nại tới Bộ Thông tin-Truyền thông, Cục Báo Chí, Thanh tra Bộ Thông tin-Truyền thông, là những cơ quan hữu quan, quản lý nhà nước về báo chí:
Yêu cầu 1: Thanh tra Bộ Thông tin-Truyền thông xử phạt Tổng Biên tập báo INFONET về các hành vi thông tin sai sự thật, vi phạm đời tư, quyền nhân thân của công dân Phạm Viết Đào.
Yêu cầu 2: Buộc Tổng Biên tập Báo Điện tử INFONET, phải cải chính xin lỗi tôi về các thông tin vu cáo, bịa đặt, sai sự thật xâm phạm danh dự, nhân phẩm, quyền nhân thân của tôi, công dân Phạm Viết Đào.
Yêu cầu 3: Tổng Biên tập báo điện tử INFONET phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho cá nhân tôi do việc đưa lên công luận những thông tin sai trái, vi phạm quyền nhân thân của tôi…
Người làm đơn:
Phạm Viết Đào.

BÀI ĐĂNG TRÊN INFONET: 
Nhà báo “tố” TAND Cầu Giấy tạo tiền lệ khiến các báo sạt nghiệp?
Theo phản ánh của nhà báo Phạm Ngọc Dương trên trang facebook cá nhân của mình thì vào năm 2013, nhà văn Phạm Viết Đào đăng hàng loạt video "vong hồn" tử tù Bùi Đức Lợi nhập cô đồng Sinh kêu oan. Trong đó có nhiều thông tin đáng sợ.
Nhà báo Phạm Ngọc Dương viết trên trang cá nhân: "Tôi đang điều tra, thì nhận được đơn tố cáo của bà Mùi là mẹ Lợi, kêu oan. Tôi liên lạc và về Vân Đồn, được bà tiếp đón, cung cấp chứng cứ. 9h tối, tôi chụp ảnh chân dung bà. Tất nhiên, bà ngồi nhìn vào ống kính, đèn flast sáng loà. Tài liệu bà cung cấp, ghi âm đầy đủ.
Tôi đi điều tra kỹ, gặp thân nhân những người bị sát hại và viết bài công tâm. Mục đích viết bài để làm sáng tỏ sự thật, để giải đáp cho dư luận, giúp dư luận tránh hiểu sai về các cơ quan tố tụng và đi tin vào cô đồng. Cũng là muốn bà mẹ nhận ra sự thật, không mê muội, tốn kém cho luật sư và kẻ kích động đằng sau.
Tôi đăng bài trên VTC.VN thì không vấn đề gì, nhưng bài đăng trên ấn phẩm Gia đình và Cuộc sống thì gặp rắc rối vì tấm ảnh chân dung bà Mùi xuất hiện trên báo.
Sau khi bài đăng, ông Phạm Viết Đào gặp lãnh đạo báo, đề nghị viết bài tố Công an tỉnh Quảng Ninh giết người. Báo không đồng ý thì ông Đào kích động bà Mùi kiện lên Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông. Thanh tra Bộ phạt báo 9 triệu vì đăng ảnh cá nhân không có văn bản đồng ý.
Cơ quan chủ quản phạt thì nộp thôi. Có văn bản phạt thì bà Mùi tiến hành kiện. Đúng lúc đó ông Đào bị bắt vì tội chống phá nhà nước. Ra tù, ông Đào hỗ trợ bà Mùi khởi động lại vụ kiện. Bà Mùi đòi đền bù hơn 200 triệu tiền tổn hại uy tín, làm ăn, tinh thần...
Nhà báo “tố” TAND Cầu Giấy tạo tiền lệ khiến các báo sạt nghiệp?© Infonet Nhà báo “tố” TAND Cầu Giấy tạo tiền lệ khiến các báo sạt nghiệp?
Toà Cầu Giấy bác đơn thì bà Mùi gửi đơn kiện cả toà Cầu Giấy và Báo Gia đình Việt Nam lên toà Hà Nội. Do đó, toà Cầu Giấy buộc phải thụ lý. Lần này bà Mùi tăng tiền bồi thường lên 325 triệu.
Toà Cầu Giấy, chánh án là ông Giang, xử báo Gia Đình Việt Nam phải bồi thường cho bà Mùi gần 70 triệu (không chấp nhận bồi thường thiệt hại thu nhập) vì đăng ảnh chân dung không có sự đồng ý bằng văn bản.
Như đã nói ở trên, ngoài việc bà Mùi đồng ý cho chụp ảnh, thì với trách nhiệm của nhà báo, phải phanh phui làm rõ những tiêu cực, sai trái, nên mặt nào cũng không sai.
Việc toà Cầu Giấy xử như vậy sẽ tạo tiền lệ cực xấu: Hàng vạn cá nhân xuất hiện trên báo sẽ kiện đòi bồi thường vì không có văn bản đồng ý dùng ảnh cá nhân. Các báo sẽ sạt nghiệp".
Trao đổi với PV Báo điện tử Infonet về vụ việc, bà Trần Thị Phương Hiền – Chánh án TAND quận Cầu Giấy, Hà Nội cho biết bà có biết thông tin nhà báo Phạm Ngọc Dương viết trên facebook về nội dung nêu trên.
Khi được hỏi về việc tòa xử báo như vậy đúng hay sai bà Trần Thị Phương Hiền nói: “Tôi không có nhận xét về vấn đề này. Tôi là người quản lý chung, không nắm từng việc cụ thể. Tuy nhiên, theo tôi thì hội đồng xét xử như vậy là không sai”.
Ngoài ra bà Hiền cũng cho biết: “Báo Gia đình Việt Nam và người được cho là bị hại đang tiến hành kháng cáo, không chấp nhận bản án mà tòa án Cầu Giấy đưa ra”.
Để hiểu rõ đúng sai về vụ việc, bà Hiền hẹn với phóng viên rằng sẽ cung cấp tài liệu về vụ kiện để phóng viên nghiên cứu nhưng tới nay đã gần hết 1 tuần mà chúng tôi vẫn chưa thấy tòa Cầu Giấy hồi âm.

(http://infonet.vn/nha-bao-to-tand-cau-giay-tao-tien-le-khien-cac-bao-sat-nghiep-post238902.info)







Ngày 22/9/2017, Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, Hà Nội đã mở phiên tòa sơ thẩm  lần 2 xem xét Đơn khởi kiện Tổng Biên tập Báo Gia đình Việt Nam ( ông Hồ Minh Chiến Cơ quan chủ quản:Trung ương Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam) của bà Nguyễn Thị Mùi, địa chỉ: Vân Đồn, Quảng Ninh.
Chú thích: sơ thẩm lần 1, Tòa án nhân dân Cầu Giấy đã bác đơn khởi kiện Tổng Biên tập báo Gia đình Việt Nam của bà Nguyễn Thị Mùi; Bà Nguyễn Thị Mùi đã kháng án lên Tòa phúc thẩm Hà Nội; Tòa phúc thẩm đã xem xét và ra bản án phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và yêu cầu Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy xét xử lại…
Sau khi nghe bà Nguyễn Thị Mùi ( bên nguyên) không thuê luật sư trực tiếp trình bày về 5 hành vi của TBT Báo Gia đình Việt Nam: đã cho đăng trên 5 kỳ trên phụ bản của báo có tên Gia đình và Cuộc sống từ số 34 tới số 38 năm 2013 loạt bài: “Sự thật chuyện tử tù phạm trọng tội hiếp dâm và giết người hàng loạt kêu oan…”
Theo bà Nguyễn Thị Mùi: Loạt bài này đã có 5 hành vi vi phạm Luật Báo chí, Nghị định 51?2002/ NĐ-CP, Luật Dân sự 2005 về quyền sở hữu hình ảnh cá nhân, quyền bảo vệ bí mật thông tin đời tư của bà…
Bảo vệ cho bên bị là 2 luật sư Phạm Ngọc Minh và Đào Trung Kiên Công ty TNHH Everest, Đoàn luật sư Hà Nội đã tranh tụng với các chứng cứ do bà Nguyễn Thị Mùi đưa ra tại Tòa…
Sau khi nghe bên nguyên và bên bị trình bày và tranh tụng, tại phiên tòa sơ thẩm lần 2, Hội đồng xét xử sơ thẩm Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy đã ban hành Bản án sơ thẩm số 23/2017/DS-ST ngày 22/9/2017 đã xử:
1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Mùi về việc yêu cầu Báo Gia đình Việt Nam ( Tổng biên tập là ông Hồ Minh Chiến) cỉ chính, xin lỗi công khai và bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần.
2. Báo Gia đình Việt Nam ( Tổng biên tập ông Hồ Minh Chiến) có trách nhiệm phải đăng nguyên văn văn bản Quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí số 507/QĐ-XPHC ngày 13/6/2013 của Thanh tra Bộ Thông tin-Truyền thông cùng với lời xin lỗi đối với bà Nguyễn Thị Mùi theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 51/2002/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Báo chí.
3. Báo Gia đình Việt Nam ( Tổng Biên tập Hồ Minh Chiến ) có trách nhiệm bồi thường cho bà Nguyễn Thị Mùi số tiền 72.726.000 đ…”
Sau khi nhận được bản án sơ thẩm số 23, bà Nguyễn Thị Mùi đã gửi đơn kháng án 2 nội dung mà bản án sơ thẩm đã xử:
1/“ Không đồng ý với khoản tiền mà Tòa buộc TBT báo Gia đình Việt Nam phải bồi thường thiệt hại cho bà là 72.726.000 đ, đó là khoản tiền mà Tòa đã buộc TBT báo Gia đình Việt Nam bồi thường không đầy đủ cho các tổn thất do bà Nguyễn Thị Mùi buộc phải chi cho các khoản: Tiền thuê luật sư tư vấn; Tiền theo biên lai gửi đơn thư, tài liệu qua bưu điện; Tiền tàu xe đi về từ Vân Đồn, Quảng Ninh lên Hà Nội; Tiền bồi thường tổn thất về mặt tinh thần…
Tòa đã không buộc TBT báo Gia đình Việt Nam bồi thường khoản thu nhập, kinh doanh không có hiệu quả của bà Nguyễn thị Mùi do bởi sự tác động của các hình ảnh, thông tin mà báo Gia đình Việt Nam đã đăng về đời tư của mình. Trong đơn khởi kiện bà yêu cầu TBT Báo Gia đình Việt Nam phải bồi thường cho bà 300 triệu VNĐ, trong đó khoản tiền do thiệt hại không kinh doinh có hiệu quả trong 3 năm là 230 triệu Đ.
2/ Bà Nguyễn Thị Mùi đã kháng án việc Tòa sơ thẩm đã bác bỏ 1 nội dung khởi kiện TBT báo Gia đình Việt Nam của bà:”Đối với ý kiến của bà Mùi đề nghị Tòa án cảnh cáo
TBT và Báo Gia đình Việt Nam về hành vi không tôn trọng luật pháp; không tôn trọng quyết định của cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành là Bộ Thông tin-Truyền thông. Báo Gia đình Việt Nam là một cơ quan ngôn luận của Chính phủ mà không nghiêm chỉnh chấp hành luật pháp, “ cãi chày cãi cối”, “ cãi cùn”, không tôn trọng Tòa, vi phạm quyền nhân thân của bà Mùi. Xét yêu cầu này không thuộc thẩm quyền của Tòa án nên Tòa không xem xét.” trang 10 phần NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN-Bản án sơ thẩm số 23)…
Nội dung trên trong Đơn khởi kiện TBT Báo Gia đình Việt Nam của bà Nguyễn Thị Mùi là căn cứ vàoĐiều 21. Các hình thức xử phạt và nguyên tắc áp dụng của bộ Luật vi phạm Hành chính số 15/2012:
1. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính bao gồm:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền;
Bà Nguyễn Thị Mùi đã kháng án và yêu cầu Tòa phúc thẩm Hà Nội xem xét điều chính lại Bản án sơ thẩm số 23 hai nội dung kể trên…

P.V.

Lịch sử thăng trầm 4000 năm của người Do Thái (P.1)

Posted on  by The Observer

Print Friendly, PDF & Email
Lastman,_Pieter_-_Abraham's_Journey_to_Canaan_-_1614
Tác giả: Đặng Hoàng Xa
Mọi sự đều sẽ hết, nhưng người Do Thái thì không. Tất cả các thế lực khác sẽ qua đi, nhưng Họ vẫn còn. Bí mật trong sự bất tử của Họ là gì?” – Văn hào Mark Twain
Người Do Thái trên vùng đất Israel (Canaan)
Sự ra đời của đức tin
Người Do Thái có nguồn gốc từ người Hebrew cổ đại xuất hiện tại Trung Đông vào 4.000 năm trước. Theo truyền thuyết, người Do Thái và người Ả Rập là con cháu dòng dõi từ Abram (tên lúc sinh của Abraham) là người đã vâng theo lời gọi của Thượng Đế rời bỏ quê hương ở thành Ur thuộc phía Bắc vùng Mesopotamia (Lưỡng Hà) – nay là Đông-Nam Thổ Nhĩ Kỳ, đến lập nghiệp tại xứ Canaan, một vùng đất kéo ngang từ bờ sông Jordan tới biển Địa Trung Hải ngày nay.
Đó là vào khoảng năm 2.000 TCN. Theo Sách Xuất Hành trong Kinh Thánh, Abram cùng gia đình rời bỏ quê hương ở Ur đi đến Harran. Tại đó, Abram đã nhìn thấy Thượng Đế trong giấc mơ và được Người chỉ đường tới vùng đất Canaan. Thượng Đế cũng lập Giao Ước với Abram rằng: “Ta là Thiên Chúa toàn năng, và Ta lập Giao Ước với ngươi. Ngươi sẽ là tổ phụ của nhiều dân tộc, và để đánh dấu Giao Ước này, ngươi sẽ đổi tên thành Abraham (có nghĩa là “cha của nhiều dân tộc”). Ta sẽ giữ lời hứa, và xứ Canaan sẽ thuộc về ngươi và dòng dõi của ngươi đời đời; và Ta sẽ là Thiên Chúa của họ.” Xứ Canaan về sau được gọi là Đất Hứa (Promised Land) là vì vậy. Abraham chấp nhận Giao Ước, và nguyện sẽ tôn thờ Thượng Đế – Đức Jehovah[1] – là Thiên Chúa duy nhất của vũ trụ.
Lịch sử của dân tộc Do Thái bắt đầu với câu chuyện của gia đình Abraham như thế. Họ trở thành một thị tộc (clan), rồi phát triển lớn hơn thành một bộ tộc (tribe), và cuối cùng cắm rễ để trở thành một dân tộc (nation) – dân tộc Do Thái.
Theo Kinh Thánh, Thượng Đế tạo nên trái đất, sau đó tạo ra con người. Tên của con người đầu tiên là Adam. Con cháu của Adam và Eva dẫn tới Noah.[2] Con trai lớn của Noah là Shem trở thành tổ tiên của các giống dân Do Thái và Ả-rập. Do đó, phát sinh danh từ ‘Semites’ để gọi chung người Do Thái và Ả-rập, có nghĩa là ‘con cháu của Shem’. Con cháu của Shem dẫn đến Abraham. Abraham cưới Sarah nhưng không có con cho nên Abraham lấy Hagar làm vợ thứ. Hagar sinh cho Abraham một con trai là Ishmael, và rồi cùng lúc người vợ đầu Sarah may mắn có bầu và sinh con trai đặt tên là Isaac. Sarah sau đó đòi Abraham đầy Hagar và Ishmael ra khỏi bộ tộc. Kinh Koran của Hồi giáo theo sát Kinh Thánh Cựu Ước cho đến thời điểm này nhưng bắt đầu tách ra từ đây. Theo Kinh Koran, Ishmael đi tới Mecca và con cháu của Ishmael phát triển mạnh khắp bán đảo Ả-rập và trở thành người Hồi giáo. Còn con cháu của Isaac vẫn ở lại Palestine và trở thành tổ tiên của người Hebrew mà sau này chúng ta gọi là Israelites rồi Jews, gọi chung trong tiếng Việt là người Do Thái. Trong rất nhiều thế kỷ người Hồi giáo và người Do Thái, mặc dù cùng chung một nguồn gốc, vẫn không hết thù ghét nhau phần lớn là do kỳ thị tôn giáo. Phải chăng đây là một lời nguyền nghiệt ngã mà Thượng Đế đã đặt lên số phận người Do Thái và người Ả Rập!
Tiếp tục với câu chuyện về gia đình Abraham. Sau khi Abraham chết, trách nhiệm lãnh đạo được truyền lại cho con trai của ông là Isaac, và rồi đến con trai của Isaac là Jacob. Jacob về phần mình có mười hai người con trai. Tất cả từ Abraham, Isaac, Jacob cho đến mười hai người con trai của Jacob được gọi là ‘tổ phụ (Patriarchs) tức là tổ tiên của dân tộc Do Thái. Chữ Israellần đầu tiên được dùng trong Kinh Thánh có liên quan đến Jacob. Một đêm, Jacob nằm mơ vật lộn với một người lạ, và sau đó, chính người lạ ấy – hình bóng của Thượng Đế – đã chúc phúc và đặt cho Jacob cái tên Israel, có nghĩa là ‘Kẻ chiến đấu với Thượng Đế’. Kể từ đó, người Hebrew được gọi là Bnei Yisrael – ‘Son of Israel’ (Những người con của Israel) – hoặc Israelites.
Theo thời gian, từ dân tộc Do Thái đã ra đời ba tôn giáo lớn nhất và ảnh hưởng nhất trên thế giới, khởi đầu là Do Thái giáo vào khoảng năm 1500 TCN, tiếp theo là Ki-tô giáo được Chúa Jesus sáng lập vào giữa thế kỷ 1 như một nhánh ly khai từ Do Thái giáo, và sau đó là Hồi giáo được nhà tiên tri Muhammad sáng lập vào thế kỷ 6. Tuy nguyên thủy không phải là một nhánh ly khai từ Do Thái giáo hay Ki-tô giáo, Hồi giáo tự cho mình là sự tiếp nối hoàn hảo và thay thế cho hai tôn giáo nói trên. Sự ra đời của ba tôn giáo cùng những bản văn thiêng liêng đã tạo nên Kinh Thánh – cuốn sách được đọc rộng khắp nhất qua mọi thời đại. Kinh Torah của Do Thái giáo (hay còn được gọi là Kinh Cựu Ước theo Ki-tô giáo) đã đem lại nguồn cảm hứng cho 14 triệu tín đồ Do Thái giáo, hai tỷ tín đồ Ki-tô giáo, và được kể lại trong Kinh Koran cho 1,5 tỷ tín đồ Hồi giáo.
Canaan và người Canaan ( Canaanites)
Canaan nằm ở nơi giao nhau của các nền văn minh, kết nối ba châu lục Phi, Âu và Á. Nếu như ngày nay người ta tin rằng con người có nguồn gốc từ châu Phi, thì tổ tiên của tất cả người châu Á và châu Âu chắc chắn đã đi qua vùng đất này.
Khi các Đế quốc lần lượt nổi lên thì vùng đất Canaan trở thành địa điểm chiến lược. Nó trở thành một hành lang nằm giữa biển và sa mạc, cung cấp cho các đoàn thương nhân và các đạo quân chinh phục một con đường độc nhất xuyên giữa các quốc gia rộng lớn và hùng mạnh xung quanh. Những trận đánh dữ dội đã diễn ra trên và quanh vùng đất Canaan. Tất cả những điều này khiến Canaan trở thành lời nguyền cũng như phước lành cho các dân tộc nhỏ sống ở đó. Trong số các dân tộc này có tổ tiên của người Do Thái.
Có rất ít bằng chứng vật chất về người Do Thái đầu tiên. Phần lớn những điều chúng ta biết về người Do Thái là qua Kinh Torah – một tài liệu rất có khả năng thiếu sót nếu được xem là một tư liệu tham khảo lịch sử.
Như đã nói trong Kinh Thánh, sự tồn tại của người Canaan (gọi là Canaanites) của Palestine có thể được xác nhận, cũng như người Moabites, Amorites, và Edomites ở phía đông, vương quốc Aram ở phía bắc. Những bảng đất sét Ebla (Ebla Tablets) có chạm khắc trong khoảng thời gian rất sớm là năm 2350 TCN được đào thấy ở thành cổ Ebla thuộc miền Bắc Syria cho biết manh mối về người Canaan. Những lá thư giao dịch Mari (Mari Letters[3]) và Amarna (Amarna Letters[4]) đều viện dẫn đến những người du mục lang thang gọi là Habiru hay Apiru, tựa như rất giống người Hebrew. Habiru hoặc Apiru là tên gọi đã được tìm thấy trong các nguồn di tích khác nhau từ Sumerian, Ai Cập, Akkadian, Hittite, Mitanni, Ugaritic (trong khoảng thời gian giữa 1800-1100 TCN) cho một nhóm người xâm lăng du cư trong các khu vực của Fertile Crescent (vùng Lưỡi liểm Phì nhiêu) từ đông bắc Mesopotamia và Iran đến biên giới của Ai Cập ở Canaan. Tùy thuộc vào nguồn và thời đại, những người Habiru này được mô tả là dân du mục hoặc bán du mục, phiến quân, ngoài vòng pháp luật, cướp, lính đánh thuê, tôi tớ, nô lệ, lao động phục dịch, vv…
Một giả thuyết khá thuyết phục hiện nay cho rằng người Do Thái cổ đại mà chúng ta gọi là Hebrew là pha trộn của người Canaan và người Habiru, hoặc dân cướp Shasu Bedouin là những người sau này khẳng định có nguồn gốc từ Ur. Theo thời gian có vẻ như họ đã đạt tới biểu tượng của nền văn minh, với một ngôn ngữ mẹ đẻ tinh tế. Tiếng Hebrew thuộc cùng hệ ngôn ngữ Semitic[5] như tiếng Canaanite, Phoenician và Punic, nhưng cho đến nay chỉ có tiếng Hebrew là còn sót lại. Người Canaan cũng phát triển bảng chữ cái phụ âm đầu tiên của thế giới trong thế kỷ 18 và 17 TCN. Được phổ biến bởi người Phoenician thông qua thương mại, bảng chữ cái này hình thành các mẫu (template) cho các hệ thống mẫu tự Hebrew, và sau đó cho tiếng Hy Lạp, Latinh và tiếng Ả Rập.
Về chính trị, Abraham, Isaac và Jacob chỉ là những diễn viên nhỏ tại vùng đất Canaan giữa vô số những bộ lạc lớn hơn xung quanh. Trong suốt thiên niên kỷ thứ 2 TCN, Canaan chỉ là một tỉnh của một trong những cường quốc trong khu vực hồi đó: Ai Cập ở phía nam, Babylon[6] và Mesopotamia ở phía bắc. Những cường quốc này tự phụ là có những hệ thống quản trị tiên tiến, sở hữu công nghệ quân sự mới nhất, và buôn bán mở mang vượt ra khỏi biên giới. Không ai thoát khỏi ảnh hưởng của họ cả về vật chất như nghệ thuật và kiến trúc, cũng như tinh thần.
Những truyền thuyết và các chuẩn mực xã hội của Mesopotamia rõ ràng đã ảnh hưởng và đem lại màu sắc cho những phong tục tập quán của người Do Thái những ngày đầu.
Di cư đến Ai Cập
Pharaoh[7] Djoser [2650-2575 TCN] xây dựng kim tự tháp đầu tiên vào năm 2650 TCN tại Saqqara và khởi đầu cho Cổ Vương Quốc Ai Cập (Old Kingdom of Egypt) đóng đô tại Memphis. Cổ Vương Quốc đã bị tan rã trước tình trạng hỗn loạn vào năm 2180 TCN. Trong khoảng 200 năm, Ai Cập bị chia đôi thành Vương quốc miền Bắc và Vương quốc miền Nam và cuối cùng thống nhất thành Vương Quốc Ai Cập (Middle Kingdom of Egypt) vào khoảng năm 2000 TCN dưới quyền trị vì của Pharaoh Mentuhotep II đóng đô tại Thebes.
Sau năm 1800 TCN, bùng nổ kinh tế ở Ai Cập đã lôi kéo hàng ngàn người ngoại quốc di cư đến đây, trong đó có cả người Palestine. Họ lập nên những cộng đồng riêng và có cả vua riêng của họ.
Tại Canaan, một trăm năm sau Abraham, vào thời đại của Jacob, đất Canaan rơi vào cảnh mất mùa đói kém. Dân Do Thái lại phải tiếp tục di cư tìm kiếm những đồng cỏ mới. Lúc này, đất Ai Cập với phù sa sông Nile là vựa lúa của vùng Địa Trung Hải và là miền đất hứa cho các dân tộc quanh đó tìm đến khi gặp đói kém hoạn nạn. Toàn thể gia tộc của Jacob với nhân số khoảng 70 người dưới sự dẫn dắt của Jacob di cư sang Ai Cập. Chuyến đi tị nạn tưởng chỉ một đôi vụ mùa, ngờ đâu kéo dài tới 400 năm. Mười hai người con trai của Jacob phát triển thành 12 chi tộc sống ở Goshen, vùng đất phì nhiêu của Ai Cập, thuận lợi cho việc trồng trọt và chăn nuôi. Người Do Thái chuyển từ cuộc sống du mục sang cuộc sống định cư nông nghiệp. Rồi thời thế lại thay đổi, 70 người di dân nay phát triển thành hàng trăm ngàn người, và trở thành mối lo ngại cho người Ai Cập rằng sự phát triển của người Do Thái có thể gây tổn hại đến Đế chế Ai Cập. Các Pharaoh về sau quay lưng lại ngược đãi người Do Thái, bóc lột họ như nô lệ, ép họ phải đi lao dịch nặng nhọc và độc ác nhất là ra lệnh dìm chết tất cả những bé trai Do Thái mới lọt lòng nhằm dần dần tiêu diệt dân Do Thái.
Những tư liệu của Ai Cập chưa bao giờ đề cập đến sự tồn tại của người Do Thái dọc theo sông Nile. Thậm chí Kinh Thánh không nói gì trong quãng thời gian 400 năm giữa thời Joseph (con cả của Jacob) và Moses. Tuy nhiên điều đó không phải là không chứng minh sự có mặt của người Do Thái ở Ai Cập. Trong khoảng thời gian 1700-1550 TCN, một nhóm người gọi là Hyksos nổi lên và có vẻ như đã loại trừ tất cả các thủ lĩnh người bản địa. Câu hỏi rằng nhóm người này gốc gác ở đâu cho đến nay vẫn là một ẩn số. Một vài học giả cho rằng đó là người Semite, một vài người khác cho rằng đó là người Ấn-Âu (Indo-European) từ Anatolia (Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại). Nhiều sử gia, quay lại tham khảo sử gia Ai Cập Manetho (thế kỷ 3 TCN), suy luận rằng đó là người Do Thái.
Moses
Giữa hoàn cảnh nô lệ đầy khổ cực của người Do Thái, một cứu cánh đã đến, như một phép màu, đã giải cứu dân Do Thái khỏi ách nô lệ. Đó là sự xuất hiện của Moses vào khoảng thế kỷ 15-14 TCN.
Theo lời kể lại trong Kinh Thánh, Moses là một người kiệt xuất: nhà lãnh đạo dân tộc, nhà thông thái, người mang tư tưởng kiến thiết xã hội, người thầy thực tế, một con người đầy lòng trắc ẩn, cấp tiến, và đôi khi cũng là một bạo chúa. Moses là người đã dẫn dắt dân Do Thái trong cuộc hành trình Exodus ra khỏi Ai Cập. Moses cũng là người Hebrew đầu tiên đã có ảnh hưởng lên thế giới cổ đại. Người Hy Lạp đã xếp Moses đứng cùng hàng với các vị thần và anh hùng của họ.
Nguồn thông tin duy nhất mà chúng ta có về cuộc đời của Moses là từ Kinh Torah. Không có bất cứ một hé lộ nào về Exodus trong các tư liệu của Ai Cập. Tuy nhiên vị trí tâm điểm của Moses đối với Do Thái giáo là không thể chối cãi.
Tên gọi ‘Moses’ có thể có nguồn gốc Ai Cập. Theo lời kể trong Kinh Thánh, Moses được sinh ra ở Ai Cập, bố là Amram người Levite, và mẹ là Jochebed người Do Thái. Người Do Thái sống gần 400 năm trong sự hòa đồng với người Ai Cập trên vùng đất Goshen phía đông của đồng bằng sông Nile. Khi một Pharaoh mới lên cầm quyền và ra lệnh giết tất cả những trẻ sơ sinh trai Do Thái, người chị của Moses là Miriam đã dấu Moses trong một bụi cây bồ hoàng cho đến khi công chúa Thermuthis con gái Pharaoh phát hiện ra. Công chúa mang bé trai về cung và đặt tên là Moses. Từ đó Moses được nuôi dưỡng và lớn lên như một hoàng tử trong hoàng cung.
Một hôm, Moses giết chết một người lính Ai Cập khi chứng kiến người lính này đánh đập một người nô lệ Do Thái. Lo sợ bị phạt, Moses bỏ trốn hoàng cung chạy đến Ethiopia làm người chỉ huy quân đội. Sau đó ông di chuyển đến sa mạc Jordan làm người chăn cừu cho linh mục Jethro người Midianites. Trong thời gian này, Moses cưới con gái của Jethro, Zipporah, và sinh con trai là Gershom.
40 năm sau, liên quan đến Exodus, theo Sách Xuất Hành 2-3 (Kinh Thánh Hebrew), một lần trong khi Moses dẫn cừu đi sâu vào vùng núi thiêng Sinai (thuộc bán đảo Sinai của Ai Cập ngày nay), bỗng nhiên Thiên Chúa hiện ra ở giữa một bụi gai đang bốc cháy. Rồi Moses nghe tiếng Thiên Chúa nói, “Ta đã thấy nỗi thống khổ của dân ta ở Ai Cập, nơi họ đang bị đối xử như nô lệ. Ta sẽ giải phóng chúng khỏi đất nước tàn bạo đó, và ban cho chúng một mảnh đất khác tốt lành, đượm sữa và mật. Vì thế, ngươi, Moses, phải dẫn dắt dân ta ra khỏi Ai Cập về Miền Đất Hứa”.
Thế là Moses, cầm theo cây gậy linh thiêng của Thiên Chúa ban cho, cùng với vợ con lên đường trở lại Ai Cập đặng giải thoát dân Do Thái đang bị câu thúc. Biến cố ly kỳ này được ghi lại trong Sách Xuất Hành, mô tả chi tiết hành trình gian truân về Miền Đất Hứa (sử hiện đại gọi cuộc hành trình này là The Exodus) của khoảng bốn chục vạn dân Do Thái, chạy trốn khỏi Ai Cập, vượt qua Biển Đỏ (Red Sea), đi về hướng đông qua nhiều sa mạc hoang vu và lưu lạc ở đó suốt 40 năm, cuối cùng trở về chinh phục vùng đất Canaan mà Thượng Đế đã hứa cho họ từ thời Abraham. Riêng Moses, dù sống thọ đến 120 tuổi, Moses đã không được vào Miền Đất Hứa mà phải chết trong sa mạc.
Trong hành trình gian truân về Miền Đất Hứa, một sự kiện rất trọng đại đã xảy ra có liên quan đến ‘Mười Điều Răn’ (The Ten Commandments) của Thiên Chúa. Đó là thời điểm khi người Do Thái dừng chân tại vùng núi thiêng Sinai. Từ ngọn núi này, Thiên Chúa đã truyền ban Mười Điều Răn và Lề Luật cho dân Do Thái thông qua Moses. Mười Điều Răn tuyệt đối này, rất căn bản cho đời sống của người Do Thái giáo, được tìm thấy trong Sách Xuất Hành 20:1-17 và Sách Đệ Nhị Luật 5:6-21 của Kinh Thánh Hebrew.
Trước đây, Thượng Đế giao ước riêng với Abraham, còn lần này, Ngài giao ước với toàn thể dân tộc Do Thái qua những lần Moses lên đỉnh núi Sinai để trực tiếp gặp Ngài. Qua những lần gặp gỡ Thượng Đế, Moses chuyển giao lại cho dân tộc Do Thái các huấn thị của Ngài. Thượng Đế lúc này tỏ lộ danh xưng là ‘YHWH’, gọi là Jehovah, nghĩa là ‘Ta là kẻ ta là’. Và đặc điểm của Giao Ước lần này cũng rất rành rọt, đó là chừng nào dân Ngài chọn còn vâng lời Ngài, chừng đó họ sẽ được Ngài che chở.
Những tư liệu pháp lý liên quan đến sự kiện trên núi Sinai đã trở thành những tư liệu quan trọng nhất trong Kinh Thánh Hebrew. Theo Sách Sáng Thế, các nguyên lý căn bản của Do Thái giáo thực sự được mặc khải[8] tuần tự theo dòng dõi các tổ phụ, từ Adam đến Jacob. Tuy nhiên, Do Thái giáo thực sự được hình thành như là một tôn giáo chỉ khi Moses nhận lãnh Mười Điều Răn trên núi Sinai, cùng với hệ thống tư tế và các nghi thức thờ phụng tại Ngôi Đền Jerusalem sau khi dân tộc này được giải cứu khỏi Ai Cập.
Nhiều câu hỏi rằng tại sao Moses lại dẫn dắt đoàn người quẩn quanh trong sa mạc tới 40 năm trước khi trở về Miền Đất Hứa? Làm sao một dân tộc quen sống trong cảnh sung túc rồi chịu làm nô lệ hàng trăm năm có đủ tính cách và bản lĩnh để có thể chinh phục vùng đất trước mặt và xây dựng một quốc gia hùng mạnh trong tương lai? Làm sao Giao Ước của Thượng Đế, vốn thuần túy chỉ là những hứa hẹn, được pháp chế hóa thành luật lệ và thiêng liêng hóa trong những ràng buộc mang tính tôn giáo?
Theo truyền thống Do Thái giáo, để có đủ năng lực tiếp nhận Miền Đất Hứa và xứng đáng làm người chủ của nó, Moses đã buộc phải dẫn dắt dân Do Thái trải qua những cuộc thanh tẩy đạo đức cùng thao luyện nghiệt ngã trong suốt 40 năm trong sa mạc cho đến khi một thế hệ mới trưởng thành có đủ bản lĩnh để chinh phục Miền Đất Hứa. Moses được mô tả trong Thánh Kinh là một lãnh tụ tôn giáo, người công bố luật pháp, nhà tiên tri đầu tiên của Do Thái giáo. Ông được xem là người viết Kinh Torah (năm sách đầu tiên của Kinh Thánh Hebrew, còn gọi là Ngũ thư Kinh Thánh hay Ngũ kinh Moses) trong quãng thời gian 40 năm trong sa mạc. Moses còn được coi là một thiên tài quân sự và là một vị anh hùng dân tộc của người Do Thái. Buổi đầu sự nghiệp của ông khá giống với vua Cyrus Đại Đế – vị Hoàng đế khởi lập Đế quốc Ba Tư. Ông cùng với vua Cyrus Đại Đế đều đóng vai trò vô cùng lớn lao trong lịch sử của dân tộc mình.
Trên thực tế, ngoài những hiểu biết dựa theo các tài liệu trong Kinh Thánh Hebrew, chúng ta không có những tư liệu lịch sử đáng tin cậy khác về hành trình của Moses, và vì vậy những câu chuyện trong Kinh Thánh Hebrew cho ta cảm giác về những huyền thoại không xác thực. Chúng ta chỉ có thể phán đoán rằng khi Moses dẫn người Do Thái đến đỉnh núi Sinai thì ông ta chỉ làm theo tập tục lâu đời của người Ai Cập có hàng ngàn năm trước đó trong những cuộc viễn chinh săn tìm đá quí. Câu chuyện về cuộc sống lang thang 40 năm trong sa mạc cũng thế, thoạt nghe tưởng như khó tin, song giờ đây lại có vẻ hợp lý với một dân tộc quen sống du mục; và cuộc chinh phục xứ Canaan nói cho cùng chỉ là trường hợp một bộ tộc du mục đói khát tấn công một cộng đồng định cư yên ổn để giành đất sống. Sau hết, phải chăng cuộc đối thoại giữa Moses và Thượng Đế trên đỉnh núi Sinai cũng chỉ là cách Moses bầy đặt ra để dễ bề cai trị một đám dân du mục gồm hàng ngàn người cứng đầu cứng cổ trong hành trình Exodus đầy gian khó?
Khi đề cập đến câu chuyện 40 năm này, bà Golda Meir, người “đàn bà sắt” và cũng là thủ tướng thứ tư của Israel [1969-1974], đã có lần nói vui rằng: “Hãy để cho tôi nói cho các bạn nghe về một điều mà tôi chống lại Moses. Đó là ông ta đã dẫn dắt chúng tôi 40 năm lang thang trong sa mạc để rồi cuối cùng đưa chúng tôi đến một vùng đất ở Trung Đông (tức là Canaan) không có lấy một giọt dầu mỏ.”. Quả là một nghịch cảnh.
Trong những ngày cuối đời, Moses chuyển giao quyền lãnh đạo sang cho Joshua, con một người gác trại thân cận của Moses. Không chỉ là một nhà lãnh đạo quân sự, Joshua giờ có trong tay quyền lực qua phước lành của Moses. Nhưng liệu Joshua có thể tập hợp và gắn kết các bộ tộc với nhau hay không?
Bài viết được trích từ chương 1 cuốn sách “Câu chuyện Do Thái 2: Văn hóa, Truyền thống và Con người”, của tác giả Đặng Hoàng Xa, dự định xuất bản vào đầu năm 2016.
Hình: Hành trình của Abraham tới Canaan. Nguồn: Wikipedia.
(Còn tiếp)
Xem thêm các phần khác của chuỗi bài tại đây: Lịch sử Do Thái
——————
[1] Jehovah: trong Kinh Thánh Torah, Jehovah là tên riêng của Thượng Đế, như đã mặc khải cho Moses trên núi Sinai [xem “Câu chuyện Do Thái: lịch sử thăng trầm của một dân tộc”].
[2] Noah: theo Sách Sáng thế, ông Noah đóng con tàu lớn mà ngày nay gọi là tầu Noah để tự cứu ông và gia đình, bảo tồn thế giới động vật, thực vật khỏi bị diệt vong bởi trận trừng phạt đại hồng thủy của Thiên Chúa.
[3] Mari Letters: là một bộ sưu tập các thư từ hoàng gia từ Mari, một nhà nước thành phố cổ trên sông Euphrates.
[4] Amarna Letters: thư từ ngoại giao, trên bảng đất sét, chủ yếu giữa chính quyền Ai Cập và đại diện của họ ở Canaan và Amurru trong khoảng thời gian những năm 1300 TCN.
[5] Semitic là nhóm các ngôn ngữ có liên quan với nhau được nói bởi 470 triệu người tại Tây Á, Bắc Phi, và Sừng châu Phi. Chúng là một nhánh của họ ngôn ngữ Phi-Á. Ngôn ngữ Semitic được nói nhiều nhất hiện nay là tiếng Ả-rập, Amharic, Hebrew, Tygrinia và Aramaic.
[6] Babylon: một thành quốc của Lưỡng Hà cổ đại, nằm ở Al Hillah, tỉnh Babil, Iraq, khoảng 85 km về phía nam thủ đô Baghdad (Iraq). Tất cả những gì còn lại của thành phố Babylon cổ đại nổi tiếng ngày nay chỉ còn là một gò đất…
[7] Pharaoh: tước hiệu của vua Ai Cập cổ đại.
[8] mặc khải: là một từ thần học hay được dùng trong Ki-tô giáo, có nghĩa  vén mở ra bức màn bí mật để cho thấy một điều  đó.

Sự thay đổi của Trung Quốc dưới thời Tập Cận Bình; Pew: Hầu hết người Việt Nam coi Trung Quốc là một mối đe doạ lớn

Trung Quốc đã có một số thay đổi về kinh tế, môi trường, dân số và quân sự trong 5 năm dẫn dắt của ông Tập Cận Bình.


Trong bài phát biểu tại đại hội đảng thứ 19 ngày 18/10, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình vạch ra tham vọng biến Trung Quốc thành một siêu cường hàng đầu thế giới vào năm 2050.
Các quan sát viên cho rằng tham vọng "siêu cường" này của ông Tập được xây dựng trên nền tảng những thành quả về kinh tế, môi trường và quân sự  mà Trung Quốc đã đạt được trong 5 năm đầu tiên dưới nhiệm kỳ của ông, nhưng chúng vẫn còn tiềm ẩn nhiều thách thức không nhỏ, theo CNN.
Kinh tế
su-thay-doi-cua-trung-quoc-duoi-thoi-tap-can-binh
Đồ họa: CNN.
Trong quá trình cải cách kinh tế, khoảng 40 triệu việc làm trong khu vực nhà nước của Trung Quốc đã bị cắt giảm từ năm 1995 đến 2002. Nhiều người tìm được việc làm thay thế trong các doanh nghiệp tư nhân nhưng một số khác lâm vào cảnh thất nghiệp.
Trong khi tỷ lệ thất nghiệp đã có sự cải thiện nhỏ dưới thời ông Tập, từ 4,13% năm 2011 lên 3,95% trong năm nay, điều này có thể không kéo dài. Chính phủ Trung Quốc năm ngoái nói rằng họ muốn cắt giảm ít nhất 1,8 triệu việc làm trong ngành than và thép nhằm giảm tình trạng dư thừa năng suất.
Bắc Kinh nhắm tới mục tiêu xóa bỏ "công ty thây ma" - các công ty nhà nước đã ngừng hoạt động nhưng vẫn giữ nhân viên. Một số báo cáo cho rằng Trung Quốc có thể cắt giảm thêm hơn 5 triệu việc làm.
Dù tỷ lệ thất nghiệp vẫn là mối lo ngại lớn, tăng trưởng kinh tế nói chung vẫn ổn định và thu nhập bình quân đầu người tăng từ 5.060 USD năm 2011 lên 8.260 USD vào năm 2016.
su-thay-doi-cua-trung-quoc-duoi-thoi-tap-can-binh-1
Đồ họa: CNN.
Chính quyền dường như cũng đang kiểm soát tốt hơn vấn đề bất bình đẳng thu nhập. Dù vẫn là một trong những quốc gia có khoảng cách giàu nghèo lớn nhất thế giới, khoảng cách này đã thu hẹp một chút trong 5 năm cầm quyền của ông Tập.
Dù vậy, sự tăng trưởng nóng của nền kinh tế Trung Quốc trong hàng thập kỷ qua đã gây ra hệ lụy về mặt môi trường. Tình trạng ô nhiễm không khí ở Bắc Kinh và nhiều tỉnh thành lân cận đã đến mức báo động, buộc chính phủ phải có những biện pháp quyết liệt để giảm bớt nỗi bức xúc của người dân.
Môi trường
Môi trường đã trở thành vấn đề lớn đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc khi Bắc Kinh nhiều lần chìm trong sương mù ô nhiễm.
Năm 2010-2015, lượng phát thải khí CO2 bình quân đầu người từ các nhà máy sản xuất, nhà máy điện than và xe cộ ở Trung Quốc đã tăng từ 6,7 tấn lên 7,54 tấn. Trung Quốc vẫn là một trong những nước phát thải khí nhà kính nhiều nhất thế giới.
su-thay-doi-cua-trung-quoc-duoi-thoi-tap-can-binh-2
Đồ họa: CNN.
Chính phủ Trung Quốc cho biết họ muốn thay đổi điều này. Đại sứ Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc Lưu Kết Nhất nói rằng đến năm 2020 họ cam kết "giảm 40-45% khí carbon so với năm 2005".
"Trung Quốc ngày càng quan tâm đến vấn đề môi trường hơn trong những năm gần đây", Matthew Evans, chuyên gia tại Đại học Hong Kong, nói.
Điều này được thể hiện qua các khoản đầu tư lớn vào năng lượng tái tạo. Trung Quốc đã trở thành nước dẫn đầu thế giới về năng lượng mặt trời. Lượng năng lượng mà nước này thu được từ gió và mặt trời đã tăng từ 64 gigawatt vào năm 2011 lên 287 gigawatt năm ngoái, vượt xa Mỹ ở mức 123 gigawatts.
su-thay-doi-cua-trung-quoc-duoi-thoi-tap-can-binh-3
Đồ họa: CNN.
Tuy nhiên, một số chuyên gia cho rằng lời nói của Trung Quốc không đi đôi với việc làm vì nước này thực chất đang cố gắng chuyển việc phát thải khí, các dự án đầu tư vào than đá và các nguồn năng lượng bẩn sang nhiều nước khác.
Dân số
Một trong những thay đổi chính sách đáng kể nhất dưới sự dẫn dắt của ông Tập là việc Trung Quốc từ bỏ chính sách một con vốn đã áp dụng trong hàng chục năm qua.
Việc buộc các cặp vợ chồng chỉ có một con cùng với truyền thống thích con trai đã tạo ra sự mất cân bằng giới tính lớn. Chính sách này cũng tạo ra nhiều gánh nặng xã hội khi chỉ có một người con để chăm sóc cho cha mẹ già.
Tỷ lệ dân số trên 65 tuổi của Trung Quốc đã tăng từ 8,59% năm 2011 lên trên 10% năm 2016, mặc dù thấp hơn Nhật hay Mỹ nhưng gần gấp đôi con số 5,8% của nước láng giềng Ấn Độ.
su-thay-doi-cua-trung-quoc-duoi-thoi-tap-can-binh-4
Đồ họa: CNN.
Các nhà nhân khẩu học không dự đoán việc từ bỏ chính sách một con sẽ dẫn đến bùng nổ sinh sản. Điều đó có nghĩa là Trung Quốc sẽ phải đối mặt với vấn đề của xã hội lão hóa: chi phí y tế và phúc lợi cao, lực lượng lao động sụt giảm.
Quân sự
Một sự thay đổi lớn khác dưới thời ông Tập là tập trung hơn vào chủ nghĩa dân tộc và quân sự. Ông Tập đã nắm chặt quân đội trong tay và thực hiện một loạt cuộc tập trận và duyệt binh lớn.
su-thay-doi-cua-trung-quoc-duoi-thoi-tap-can-binh-5
Đồ họa: CNN.
Kể từ khi ông Tập lên nắm quyền, chi tiêu quân sự đã tăng từ mức tương đương 1,82% GDP lên 1,92%, vẫn còn khoảng cách khá xa với mức 3,29% của Mỹ.
Trung Quốc vẫn duy trì mức quân số chính quy 2,2 triệu người, dù ông Tập và những người khác đã kêu gọi hiện đại hóa lực lượng vũ trang và giảm số lượng binh lính.
su-thay-doi-cua-trung-quoc-duoi-thoi-tap-can-binh-6
Đồ họa: CNN.
Ông Tập đã đề ra kế hoạch cải tổ lực lượng quân đội, cắt giảm quân số, xây dựng cấu trúc chỉ huy theo mô hình phương Tây nhằm tăng cường khả năng tác chiến cho quân đội nước này trên môi trường biển lớn.
Tuy nhiên, kế hoạch này của ông Tập có thể vấp phải phản ứng từ khoảng 300.000 quân nhân bị cắt giảm biên chế, tạo ra một lượng lao động dôi dư cho xã hội với nhiều vấn đề về chính sách hậu phương quân đội.
Việc Trung Quốc mạnh tay chi cho quốc phòng cũng gây ra nhiều lo ngại cho dư luận thế giới, đặc biệt là trong bối cảnh nước này đang có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với một loạt quốc gia trong khu vực.
Phương Vũ


Trung Quốc đang tiến hành Đại hội Đảng Cộng sản lần thứ 17 với những báo cáo thành tựu rực rỡ, nhưng cách một số nước châu Á khác nhìn họ thì không được tích cực cho lắm, trong đó có Việt Nam.

Một cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở TP. Hồ Chí Minh năm 2014. Ảnh: Le Quang Nhat | AFP | Getty Images
Đây là  kết quả khảo sát mới được công bố của Trung tâm Nghiên cứu Pew – một hãng thăm dò của Mỹ – về quan điểm của người dân bảy nước châu Á – Thái Bình Dương gồm Việt Nam, Philippines, Indonesia, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ và Australia.

Trong bảy quốc gia kể trên, Việt Nam thường nằm trong số hai quốc gia có cái nhìn tiêu cực nhất về Trung Quốc trong các mục câu hỏi. Ta hãy cùng xem qua từng điểm một.

1. Phần lớn người Việt Nam coi việc tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc là một điều tệ hại.


Khi được hỏi việc tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc có ý nghĩa như thế nào với Việt Nam, có đến 64% số người được hỏi cho rằng đó là một điều tệ hại (bad thing), chỉ 26% cho đó là một việc tốt (good thing).

Trong số bảy nước được hỏi, Việt Nam tỏ ra gay gắt nhất về vấn đề này, khi bỏ sau nước thứ hai là Ấn Độ (51%).

Trong nhiều năm qua, Trung Quốc luôn là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam, với kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới gần 72 tỷ USD năm 2016. Với 11,2 tỷ USD vốn đăng ký, Trung Quốc cũng nằm trong số 10 nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất ở Việt Nam. Riêng trong 7 tháng đầu năm 2017, vốn đầu tư của Trung Quốc cũng đứng thứ tư với 1,2 tỷ USD.

Điều đáng nói là trong số gần 72 tỷ USD kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều thì Việt Nam chỉ xuất sang Trung Quốc được gần 22 tỷ USD và nhập từ Trung Quốc về tới xấp xỉ 50 tỷ USD. Trung Quốc là thị trường mà Việt Nam nhập siêu lớn nhất trong nhiều năm qua.

Trong khi đó, phần lớn người Australia và Nhật Bản lại coi tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc là điều tốt lành với nước họ. Gần một nửa người dân ở Indonesia, Philippines và Hàn Quốc cũng có thái độ tương tự.

2. Người Việt Nam gần như thống nhất trong việc coi sự nổi lên về quân sự của Trung Quốc là một điều tệ hại.


Gần như không có tranh cãi, tuyệt đại đa số người Việt Nam, Hàn Quốc và Nhật Bản lo ngại về sức mạnh quân sự ngày càng lớn của Trung Quốc. Có ít nhất chín trong số mười người được hỏi bày tỏ thái độ này.

Hầu hết người dân ở các nước còn lại cũng có thái độ tương tự, ngoại trừ Indonesia (48%).

Điều này khá dễ hiểu khi đây đều là các nước láng giềng đang có tranh chấp lãnh thổ cả trên bộ lẫn trên biển với Trung Quốc, ngoại trừ Australia. Bạn có thể tìm hiểu thêm về vấn đề Biển Đông ở đây.

Trong khi đó, ngân sách quốc phòng của Trung Quốc tăng đều đặn 9% mỗi năm trong một thập niên qua, lên tới 150 tỷ USD năm 2017, trở thành nước chi tiêu cho quân sự lớn thứ hai thế giới, sau Mỹ (khoảng 600 tỷ USD). 

3. Tuyệt đại đa số người Việt Nam coi sự nổi lên của Trung Quốc là một mối đe doạ.


Sự nổi lên của Trung Quốc, nhìn chung, không được đón nhận ở hầu hết trong số bảy nước được khảo sát.

80% người Việt Nam coi đó là một mối đe doạ lớn, 12% coi đó là một mối đe doạ nhỏ, và chỉ 5% không coi đó là một mối đe doạ.

Hàn Quốc và Nhật Bản cũng có cái nhìn rất tiêu cực với hiện tượng Trung Quốc.

Pew cũng cho biết, ở bên ngoài khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trung bình chỉ có 27% số người được hỏi cho rằng sự nổi lên của Trung Quốc là một mối đe doạ lớn với nước họ. Trong khi đó, con số này ở châu Á – Thái Bình Dương lên tới 47%. Chỉ 35% coi ảnh hưởng của Mỹ là một mối đe doạ lớn với đất nước họ.

4. Phần lớn người Việt Nam không tin Xi Jinping (Tập Cận Bình) trong các vấn đề quốc tế.  


Trong khi Xi Jinping được cho là sẽ tiếp tục cầm quyền ở Trung Quốc trong năm năm tới, thậm chí còn lâu hơn, phần lớn người Việt Nam không tự tin cho rằng ông ta sẽ làm được điều gì đúng đắn trong quan hệ quốc tế.

Người Việt Nam cũng tin tưởng Tổng thống Mỹ Donald Trump hơn là vị Chủ tịch Trung Quốc, trong khi ở hai nước đồng minh của Mỹ là Hàn Quốc và Australia thì Tổng thống Trump lại không bằng Xi Jinping.

Để biết thêm về Xi Jinping, mời bạn đọc thêm bài ở đây.

By TRẦN HÀ LINH


(Luật Khoa)