Thế hệ mẹ tôi, ai cũng phải chịu đựng chiến tranh. Nhưng mẹ tôi, không chỉ chịu cuộc chiến với kẻ thù mà trong bà còn một cuộc chiến không phần thưởng, khốc liệt đến cuối đời.
Những năm 1948- 1950 ba tôi là Bí thư Xứ uỷ Nam kỳ, ngoài 40 tuổi hoạt động ở miệt vườn Nam bộ.
Tại đây ông đã gặp mẹ tôi, lúc đó là Trưởng đoàn phụ nữ cứu quốc tỉnh Cần Thơ. Khi biết chuyện ba tôi có ý thương bà, mẹ tôi hết sức bàng hoàng. Bà chỉ thấy anh Ba là nhà lãnh đạo uyên bác rất đáng tôn kính.
Bà chỉ biết ghi chép những chỉ thị, nghị quyết, đường lối của ông để học tập, thi hành. Nhưng cũng từ đây bà bắt đầu để ý ông. Bà thấy ông luôn tự chọn cuộc sống đạm bạc đến khắc khổ. Ông chỉ có một chiếc xuồng tam bản. Đến cơ quan, cơ sở nào làm việc thì anh em lên nhà ngủ, ông vẫn ngủ dưới ghe.
Một lần ông kể, mẹ ông làm nghề nấu cao dán mụn nhọt giúp người bệnh. Khi ông bị giặc bắt, thư gửi về được bà cho vào cái túi khâu lại đeo vào cổ như người đeo bùa. Bà chết, cái túi vẫn ở cổ bà…
Một lần, ông Sáu Thọ nói với mẹ tôi:
– Anh Ba thương chị vì biết chị là người chung thuỷ, sống có tình. Tổ chức xin ý kiến và được Bác Hồ đồng ý. Ý chị thế nào?
Thế là một đám cưới rất kháng chiến được tổ chức. Những ngày tháng đầu tiên được làm vợ, bà không chỉ được gần gũi một nhà cách mạng cao cả mà ông còn dành cho bà một tình yêu chân thành và hết sức hồn nhiên thơ trẻ. Khi mẹ tôi mang thai chị Vũ Anh, có đêm bà nằm mơ được ăn quả xoài xanh khiến tỉnh dậy thèm chảy nước miếng. Bà kể với ông. Vậy mà trưa đi họp về ông đã cố tìm đâu được trái xoài tượng đem về cho vợ…
Năm 1952, mẹ tôi sinh chị Lê Thị Vũ Anh. Năm 1954, mẹ tôi có mang tôi. Hiệp định Giơ-ne-vơ ký kết. Tất cả cán bộ lãnh đạo Cộng sản miền Nam phải quay ra Bắc theo nghị quyết Hiệp định gọi là Tập kết. Gia đình tôi đứng đầu danh sách này.
Ba tôi nghĩ: nếu tất cả lãnh đạo Xứ uỷ đều ra Bắc thì sự nghiệp cách mạng miền Nam sẽ khó khăn, mục tiêu giải phóng, thống nhất sẽ vô cùng xa vời. Ông liên tục gửi ba bức điện cho Bác Hồ xin ở lại miền. Bác và Trung ương đồng ý nhưng phải giữ bí mật.
Mẹ tôi kể đó là một đêm mùa đông. Bà đang có mang tôi, khệ nệ những túi, bì, tay nải tư trang và bế trên tay đứa con ba tuổi theo chồng lên con tàu Kéreinski quốc tịch Ba Lan chở 2000 con người về Bắc. Đúng 12 giờ đêm, khi chỉ còn vài tiếng nữa tàu nhổ neo thì ba tôi phải quay lại bờ. Ông nói với bà: “Anh thương mẹ con em bao nhiêu thì anh cũng thương đồng bào đồng chí miền Nam bấy nhiêu. Anh mong rằng sau này em sẽ hiểu quyết định hôm nay của anh!”.