Thứ Năm, 29 tháng 12, 2016

Em họ Đặng Tiểu Bình tiết lộ thảm trạng bán và ăn thịt người trong 3 năm Nạn Đói Lớn

Em họ của Đặng Tiểu Bình tiết lộ trong cuốn hồi ký của mình rằng, trong khoảng thời gian 3 năm Nạn Đói Lớn ở Trung Quốc vào thế kỷ trước, vùng Nghi Tân, tỉnh Tứ Xuyên đã xảy ra thảm trạng bán và ăn thịt người.

Trung Quốc, nạn đói lớn, bán thịt người, an thit nguoi,
(Ảnh: Internet)
Ông Đặng Tự Lực, em họ của Đặng Tiểu Bình, từng nhậm chức phó Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị, phó Chủ nhiệm Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc. Năm 1958, ông là Bí thư đầu tiên của vùng Lô Châu, Tứ Xuyên, bởi thuận theo ý dân đề xuất giải tán nhà ăn chung mà bị gán mác “phần tử chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh số một tỉnh Tứ Xuyên”.Đặng Tự Lực trong cuốn hồi ký “Nhân sinh trắc trở” của mình đã tiết lộ một sự thật trong thời Nạn Đói Lớn từ năm 1959 đến năm 1961. Ông kể rằng, ngày đó bệnh phù thũng trong nông dân hoành hành, thi thể người chết khắp nơi, thảm thiết không dám nhìn, con người ta nhìn thấy cái gì cũng đều muốn ăn.“Lương thực không đủ thì tìm thực phẩm thay thế, nào là lá đậu tằm, củ chuối, rong rêu, rễ cỏ dại… đều dùng để lót dạ. Về sau những thứ này không còn nữa, có người bắt đầu ăn đất sét trắng. Sau khi ăn đất sét trắng thì bụng phình to, không thể bài tiết, mấy ngày sau thì bị trướng chết …”.
Nạn đói càng lúc càng nghiêm trọng, về sau sự việc đáng sợ nhất là bán thịt người và ăn thịt người cũng đã phát sinh. “Thành phố Nghi Tân đã xảy ra vụ việc lừa gạt trẻ con đến nhà, sau đó giết chết lrồi đem nấu chín, nói đó là thịt thỏ đem ra chợ bán. Ngoài ra còn tung tin nhảm ăn thịt người có thể trị bệnh phù thũng. Thế là có những người mắc bệnh phù thũng liền cắt thịt từ những thi thể của người chết nấu chín mà ăn. Toàn quốc thiếu lương thực trầm trọng, nhưng chính phủ đều lẩn tránh không dám nhìn thẳng“.
Ông Đặng Tự Lực sau khi bị giáng chức thì đến huyện Trường Ninh tỉnh Tứ Xuyên nhậm chức phó Bí thư huyện ủy, tận mắt nhìn thấy tình trạng bi thảm của huyện này: “Trường Ninh cục diện rối rắm, nhân khẩu hơn 200 nghìn người thì đã chết đói hơn 70 nghìn người, bệnh phù thũng tràn lan…”.
Trung Quốc, nạn đói lớn, bán thịt người, an thit nguoi,
Trong 3 năm Nạn Đói Lớn, người dân khắp Trung Quốc phải ăn rong rêu, rễ cỏ dại, vỏ cây để lót dạ. Tiếp đó là ăn thịt chính đồng loại của mình.
ĐCSTQ gây nên 3 năm Nạn Đói Lớn chưa từng có khiến hàng chục triệu người chết đói
Đảng cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) bắt đầu cuộc vận động Đại Nhảy Vọt từ năm 1958, kết quả dẫn đến 3 năm Nạn Đói Lớn chưa từng có, hơn hàng chục triệu người dân chết đói, thậm chí nhiều nơi còn xuất hiện hiện tượng ăn thịt người bi thảm nhất hành tinh. ĐCSTQ đến nay vẫn bưng bít thông tin về số người đã chết bởi Nạn Đói Lớn.
Theo một bài viết tường thuật về Nạn Đói Lớn trong cuốn sách“Ghi chép thực tế lịch sử nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa”được nhà xuất bản Hồng Kỳ xuất bản vào tháng 2/1994: “Những cái chết bất thường và số lượng nhân khẩu giảm thiểu từ năm 1959 đến năm 1961 vào khoảng 40 triệu người… Nhân khẩu Trung Quốc giảm đi 40 triệu người, đây có thể được xem là nạn đói lớn nhất thế giới trong thế kỷ này”.
Cuốn sách “Bia mộ: Tài liệu thật về nạn đói năm 60 ở Trung Quốc”, tác phẩm chấn động thế giới của ông Dương Kế Thằng, cựu ký giả cấp cao của Tân Hoa Xã, được cho là cuốn sách tường thuật một cách rõ ràng chi tiết nhất liên quan đến Nạn Đói Lớn, một trong những ghi chép đáng tin cậy nhất.
Nghiên cứu của ông Dương Kế Thằng cho thấy, từ năm 1958 đến năm 1962, Trung Quốc đã đói chết 36 triệu người; bởi đói khát nên tỉ suất sinh đẻ giảm thấp một cách nghiêm trọng, ước tính khoảng 40 triệu người; hai cái cộng lại là 76 triệu người.
Trong cuốn sách “Bia mộ” cho biết, năm 1959, 1960, 1961 – ba năm này thật ra là mưa thuận gió hòa, nguyên nhân thật sự tạo thành Nạn Đói Lớn hoàn toàn là nhân họa. Thói quá lời trong thời Đại Nhảy Vọt của ĐCSTQ, khiến cho các nơi trong toàn quốc đưa ra những chỉ tiêu cao, dự đoán sản lượng cao, trưng thu cao, kết quả khẩu phần lương thực của nông dân đã bị khoét sạch. Lương thực mà những người nông dân giao nộp không đạt được con số báo cáo láo của chính phủ, chính phủ liền ép buộc nông dân giao nộp hết toàn bộ khẩu phần, lương thực, hạt giống đều bị buộc phải giao nộp hết. Nông dân không còn lại gì cả, cuối cùng nạn đói bùng phát, hàng trăm thậm chí hơn hàng chục triệu con người đã chết đói.
Ông Dương Kế Thằng nói, người ta đói quá rồi sẽ đi ăn vỏ cây, rễ cỏ, đất sét trắng, thậm chỉ ăn thịt người chết. “Vùng Tín Dương, Hà Nam năm đó có 8 triệu nhân khẩu, trong đó có 1 triệu người đã chết đói. Người dân thậm chí đi ăn xác người chết. Vào mùa đông, tử thi nơi nghĩa địa chôn không sâu lắm, liền bị người ta đào lên ăn. Còn xuất hiện hiện tượng người ăn thịt người, có người còn ăn thịt cả đứa con của mình”. Theo những thống kê khác nhau, ông dự đoán trên toàn Trung Quốc năm đó đã xảy ra đến bốn, năm nghìn vụ ăn thịt người.
Ông Dương Kế Thằng từng cho biết, chết đói là phương thức tử vong đau khổ nhất, chẳng khác nào “nghìn dao xẻ thịt” bên trong thân thể người. Từ lúc tiêu hao năng lượng, tiêu hao sức lực cho đến khi chết, đại khái là khoảng 1 tháng, quá trình này vô cùng tàn khốc, vô cùng đau khổ, giống như “hành quyết lăng trì” từ bên trong cơ thể người.
Tuy vậy, mãi cho đến hôm nay, ĐCSTQ vẫn dùng “ba năm thiên tai” để dối gạt dân chúng, che đậy nguyên nhân thật sự của Nạn Đói Lớn này.
Theo epochtimes.com

Thủ tướng muốn thay đổi lớn

Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc trong cuộc trò chuyện với ông Frank-Walter Steinmeier, Bộ trưởng Ngoại giao Đức, tại Hà Nội hôm 31/10/2016.
Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Xuân Phúc trong cuộc trò chuyện với ông Frank-Walter Steinmeier, Bộ trưởng Ngoại giao Đức, tại Hà Nội hôm 31/10/2016.
 AFP photo

Nam Nguyên, phóng viên RFA

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2016-12-28
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc liên tiếp hàm ý sẽ có nhiều cải cách xóa bỏ những thể chế lỗi thời kìm hãm phát triển và cần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật.
Xóa bỏ thể chế lỗi thời
Người đứng đầu Chính phủ Việt Nam đã có những phát biểu gây chú ý trong hai sự kiện diễn ra tại Hà Nội. Ngày 27/12/2016 tham dự Hội nghị tổng kết năm 2016 của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc kêu gọi giới khoa học nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật. Đây là câu nói của Tổng Bí thư Trường Chinh tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6, quyết định chủ trương Đổi mới để chặn đứng nguy cơ sụp đổ kinh tế và chính trị vào giữa thập niên 1980.
Một ngày trước, hôm 26/12/2016 báo chí giật tít lớn ‘Thể chế do chúng ta đặt ra mà lại sợ nó’. Đó là lời người đứng đầu chính phủ phát biểu tại Hội nghị Tổng kết năm 2016 của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn. Nguyên văn lời Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc : “Thể chế do chúng ta đặt ra, nghĩ ra, nhưng mà chúng ta lại sợ nó. Thể chế ràng buộc sự phát triển thì phải bãi bỏ ngay, đừng để các thể chế đó bắt chúng ta phải chạy theo, phải sợ nó một cách vô lý…”
Thủ tướng đã không đề cập trực diện thể chế Kinh tế Thị trường Định hướng Xã hội Chủ nghĩa chính là thể chế mẹ, đẻ ra những thể chế con đầy bất cập mà nay đang kìm hãm sự phát triển.
Trả lời Nam Nguyên vào tối ngày 27/12/2016, Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội từ Saigon nhận định:
“Ở trong nước thì nói là cơ chế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa, nhưng khi làm việc với nước ngoài các lãnh đạo Việt Nam từ Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cho tới Thủ tướng và cả Chủ tịch Quốc hội đều yêu cầu nước ngoài nên công nhận Việt Nam đã có nền kinh tế thị trường mà không có nói là theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.
Tôi nghĩ Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có sự đồng ý trong Bộ Chính trị, trong Trung ương rồi thì ông mới có thể nói được. Ông ấy không thể nói cái gì vượt qua những quy định của Đảng vì ông ấy là Ủy viên Bộ Chính trị…
- Luật sư Trần Quốc Thuận 
Như vậy điều đó cho thấy việc Việt Nam cơ bản công nhận kinh tế thị trường, yêu cầu các nước khác công nhận có nền kinh tế thị trường thì tự thân mình cũng nghĩ ra điều đó. Làm việc với Châu âu với Nhật nhất là với Hoa Kỳ gần đây vẫn thường nhắc là mình có nền kinh tế thị trường, mà không dùng từ định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tôi cho là đó là việc phải tiến tới, bởi vì thị trường nó là quy luật tự nhiên, đâu có phải là sản phẩm của ai đâu, bây giờ đã đến lúc phải thừa nhận nó, không nên nói ỡm à ỡm ự nữa.”
Những nhận xét của Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, làm chúng tôi liên tưởng tới phát biểu của Ngoại trưởng Hoa Kỳ John Kerry vào hôm 10/10/2016 tại một cuộc Hội thảo ở California về  an ninh mạng và vai trò của Internet đang làm thay đổi thế giới. Phát biểu của ông Kerry được tóm lược: “…Việt Nam ngày nay không còn dấu vết của chủ nghĩa Cộng sản, hiểu theo nghĩa là một kế hoạch và lý thuyết kinh tế…Ở đó là chủ nghĩa tư bản cuồng nhiệt, có internet và người dân được tiếp cận. Đó vẫn là quốc gia độc đảng và độc đoán, và không may vẫn còn vi phạm nhân quyền và nhiều thứ khác…nhưng theo thời gian đất nước này chứng tỏ đang thay đổi…”
Liên tiếp nói rất mạnh về cải cách thể chế hàm ý cả thể chế kinh tế lẫn chính trị, vấn đề đặt ra là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc không thể một mình đưa ra những đột phá quan trọng. Luật sư Trần Quốc Thuận từ Saigon trả lời câu hỏi này. Ông nói:
“Tôi nghĩ rằng, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã có sự đồng ý trong Bộ Chính trị, trong Trung ương rồi thì ông mới có thể nói được. Ông ấy không thể nói cái gì vượt qua những quy định của Đảng vì ông ấy là Ủy viên Bộ Chính trị…”
Tới lúc sửa Hiến pháp
000_Was8943962-400.jpg
Tổng bí thư ĐCSVN Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Mỹ Barack Obama tại Nhà Trắng ở Washington, DC, ngày 07 tháng 7 năm 2015.AFP photo
Luật sư Trần Quốc Thuận từng 14 năm đảm nhiệm chức vụ Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, lập lại sự kiện lãnh đạo Việt Nam đi gặp nhiều nước khác kể cả Hoa Kỳ, Tổng Bí thư đề nghị là Hoa Kỳ nên công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường, chứ không hề đề nghị người ta công nhận Kinh tế Thị trường Định hướng Xã hội Chủ nghĩa. Luật sư Trần Quốc Thuận tiếp lời:
“Như vậy có hai lời nói, một ở trong nước và một ở nước ngoài, tôi cho là lời nói ở nước ngoài có giá trị hơn, bởi vì đó là một thị trường thực sự. Còn thị trường trong nước chỉ là thị trường nội địa, nó có những hạn chế của nó…Dĩ nhiên Việt Nam muốn làm như vậy nhưng bây giờ mới là hô hào khẩu hiệu, nhưng muốn làm điều đó thì phải làm một việc quan trọng hơn là phải sửa hiến pháp và nhiều luật pháp liên quan. Trong Hiến pháp cũng nói rằng kinh tế quốc doanh sở hữu Nhà nước là nền tảng, như thế làm sao mà bình đẳng được, nó có nhiều ưu thế hơn. Nhưng bây giờ người ta đang hô hào phải công nhận các thành phần kinh tế là bình đẳng thì mới có kinh tế thị trường được. Tôi cho rằng lời nói đó có thể dẫn tới việc trọng đại hơn là những qui định trong Hiến pháp mà ràng buộc thì đã đến lúc cần phải sửa.”
Tại Hội nghị Tổng kết năm 2016 của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn tổ chức hôm 26/12 ở Hà Nội, nguyên Bộ trưởng Cao Đức Phát hiện là Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương nêu ví dụ về những điểm nghẽn thể chế. Theo đó, điều 193 Luật Đất đai là một rào cản về việc tích tụ ruộng đất và cần sửa đổi. Điều này quy định chỉ được chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp trong cùng một xã, phường. Như vậy người có vốn và kinh nghiệm không thể đầu tư vào nông nghiệp.
Vẫn theo thông tin báo chí, ông Cao Đức Phát còn đề cập tới một trong những quy định ngăn trở tích tụ ruộng đất đó là những tổ chức kinh tế, hộ gia đình và cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp thì không được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Quy định này cũng cản trở việc đầu tư vào nông nghiệp.
Tôi cho rằng lời nói đó có thể dẫn tới việc trọng đại hơn là những qui định trong Hiến pháp mà ràng buộc thì đã đến lúc cần phải sửa.
- Luật sư Trần Quốc Thuận
Trong cuộc phỏng vấn của Nam Nguyên vào tối 27/12/2016, Giáo sư Bùi Chí Bửu, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam nhận định là, chính sách chia nhỏ đất đai từng giúp người nông dân nghèo có đất canh tác, ngày nay không còn thích hợp trong xu thế phát triển và hội nhập của Việt Nam. Bên cạnh đó biến đổi khí hậu khắc nghiệt cũng làm cho đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp không đáng kể. Từ Saigon Giáo sư Bùi Chí Bửu nhận định:
“Đặc biệt đầu tư đất đai thì hiện nay nông dân sở hữu cái sổ đỏ, muốn đi mua đất trong khi luật lệ chưa cho phép thì người ta không dám phiêu lưu chuyện đó. Thành ra có lẽ phải chờ một sự tháo gỡ cơ chế, sửa lại một số luật lệ trong Luật Đất Đai và cho phép mở rộng hạn điền thì có lẽ hiện thực hơn…sau đó doanh nghiệp mới mạnh dạn đầu tư được còn hiện nay vẫn chỉ là dạng liên kết giữa nhà nông và nhà doanh nghiệp; trong liên kết với quy mô chật hẹp như vậy thì không có ông doanh nghiệp nào dám ký hợp đồng với 1.000 ông nông dân một lúc, người ta hay dùng từ gọi là phá kèo, cam kết giữa hai bên dễ dàng bị gãy đổ.”
Theo Luật sư Trần Quốc Thuận, nguyên Phó chủ nhiệm văn phòng Quốc hội, có lý do để tin tưởng sẽ có cải cách sâu rộng để giúp đất nước vượt qua khó khăn ách tắc, từ đó nâng cao mức sống của người dân. Cựu quan chức Quốc hội ghi nhận ý kiến chung là, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc có những phát biểu trúng vào những điều mà người dân mong đợi và cần có thời gian để Thủ tướng thực hiện.

Biển Đông: Trung Quốc tận diệt trai tượng khổng lồ

Thùy Dương

mediaMột trai tượng khổng lồ vùng Đông TimorẢnh : Wikipedia
Với sự khuyến khích của chính quyền, trong một thời gian rất dài, ngư dân Trung Quốc đã tận diệt loài trai tượng khổng lồ, trong vùng Biển Đông mà nước này đang có tranh chấp chủ quyền với các nước láng giềng Đông Nam Á như Philippines, Việt Nam và Indonesia, khiến hệ sinh thái và đặc biệt là rạn san hô ở Biển Đông bị tàn phá nặng nề.
Trong bài viết có tiêu đề « Đổ xô đánh bắt « ngà voi » của Biển Đông », nhật báo Le Monde cho biết trai tượng khổng lồ sống dưới đáy biển, có thể dài tới hơn 1m và nặng tới 200 kg. Ở Trung Quốc, trai tượng là một sản vật quý hiếm và được bán với giá rất cao. Thịt trai tượng được coi là đặc sản quý, còn vỏ trai tượng thì cũng được ưa chuộng vì nó vừa giống ngà voi, vừa giống đá cẩm thạch, với nhiều màu sắc. Người Trung Quốc gọi đó là « vàng trắng », hay «ngà voi biển ».
Vỏ trai tượng được chạm khảm thành đồ trang sức, tác phẩm nghệ thuật như tượng Phật, tượng cá hay cả một đàn ngựa. Những tác phẩm nghệ thuật này được bán với giá vài ngàn euro cho du khách nước ngoài, hoặc cho khách hàng Trung Quốc giàu có. Hiện nay, tại Trung Quốc có tới vài trăm trang Internet bán đồ trang sức, tác phẩm nghệ thuật hay vật dụng làm từ vỏ trai tượng.
Tuy nhiên, Le Monde cho biết, hậu quả của việc tận diệt loài nhuyễn thể quý hiếm ở các đảo san hô và quần đảo Trường Sa là các rạn san hô bị tàn phá nghiệm trọng. Trong phán quyết ngày 12/07 về vụ kiện Biển Đông giữa Philippines và Trung Quốc, Tòa Trọng Tài Thường Trực Quốc Tế đã chỉ rõ là Trung Quốc đã có nhiều hoạt động gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới hệ sinh thái Biển Đông, đặc biệt là các rạn san hô do các hoạt động đánh bắt trai tượng, san hô trái phép.
Trong một bức thư gửi Tòa Trọng Tài, ông John McManus, chuyên gia sinh vật biển thuộc Đại học Miami, cho biết quy mô tàn phá hệ sinh thái biển Đông đã vượt quá những gì ông đã từng chứng kiến trong suốt hơn 4 thập kỷ nghiên cứu về sự tàn phá rạn san hô. Hoạt động đánh bắt, tận diệt trai tượng khổng lồ đã diễn ra trên toàn quần đảo Trường Sa.
Giáo sư McManus cho biết ngư dân Trung Quốc đã thả chân vịt cỡ lớn xuống rặng san hô rồi cho thuyền đi vòng xung quanh. Các chân vịt này nghiền nát rặng san hô để ngư dân bắt các con trai tượng đang vùi mình trong cát phía dưới rặng san hô. 69 km2 san hô trên quần đảo Trường Sa đã bị phá hủy bởi phương pháp tận diệt này. Trong khi đây là một trong những rạn san hô có đa dạng sinh học phong phú nhất thế giới, với hơn 400 loài san hô.
Tuy nhiên, ẩn sau câu chuyện về sinh thái còn là câu chuyện về địa chính trị. Việc săn bắt trai tượng không phải là một hoạt động mới của ngư dân Trung Quốc mà đã tồn tại từ nhiều thập kỷ. Nhưng nó chính thức bùng nổ vào năm 2012, khi Tập Cận Bình lên nắm quyền lãnh đạo Trung Quốc và tăng cường hoạt động trên quần đảo Trường Sa đang có tranh chấp chủ quyền. Vào thời điểm đó, ngư dân Trung Quốc đã được cho phép, thậm chí là được chính quyền khuyến khích tăng cường đánh bắt trai tượng với danh nghĩa là để « bảo vệ chủ quyền quốc gia ». Nhiều ngư dân cho biết họ đã kiếm được cả một gia tài nhờ đánh bắt trai tượng.
Sau 4 năm cho phép ngư dân tận diệt trai tượng, vào năm 2015, chính quyền Trung Quốc đã ra quy định mới, theo đó, hoạt động đánh bắt và buôn bán trai tượng có giá trên 500.000 nhân dân tệ (69.000 euro) bị coi là phạm tội.
Trên quần đảo Scarborough, đánh bắt trai tượng và rùa biển cũng đã chính thức bị cấm từ năm 2015. Nhưng theo đánh giá của tờ Le Monde, nhìn vào những gì mà trước đây nhà chức trách Trung Quốc cho phép và khuyến khích ngư dân làm, thì quy định mới này chỉ « mang tính đạo đức giả ».
Trung Quốc: Đánh thuế chất thải gây ô nhiễm 
Ngày 25/12, lần đầu tiên trong lịch sử, Quốc Hội Trung Quốc thông qua dự luật đánh thuế xả thải các chất gây ô nhiễm môi trường đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp. Luật này sẽ bắt đầu có hiệu lực từ tháng Giêng năm 2017, và sẽ được áp dụng cho hoạt động xả chất thải vào nước, không khí, đất và cả các hoạt động gây ô nhiễm âm thanh.
Theo nhật báo Le Monde, đây là một tiến bộ nhưng có lẽ chưa đủ vì luật này không đề cập tới chất CO2 - tác nhân chính gây hiệu ứng nhà kính và rác thải hạt nhân.
Theo bộ trưởng Môi Trường Trung Quốc, thuế xả chất thải gây ô nhiễm môi trường có thể mang về cho chính quyền tới 30 tỉ nhân dân tệ/năm. Tuy nhiên, ông cũng cho biết mục đích chính của luật này không phải là tăng thuế mà là để khuyến khích các doanh nghiệp giảm xả chất thải: xả thải nhiều thì phải trả tiền nhiều, xả thải ít thì chỉ phải đóng ít tiền.
Một giáo sư về công nghiệp và môi trường ở Bắc Kinh đánh giá đây là một bước ngoặt: “Thông điệp gửi tới các doanh nghiệp là rất rõ ràng: hoặc là thay đổi, hoặc là chết”.
Trong khi đó, tổ chức phi chính phủ Hòa Bình Xanh thì đánh giá mức thuế quá thấp nên sẽ không phát huy hiệu quả, nhưng dẫu sao đây cũng là một tiến bộ đáng kể trong cuộc đấu tranh bảo vệ môi trường. Trước tiên, đó là vì không dễ để dung hòa lợi ích địa phương, lợi ích quốc gia và lợi ích của các cấp chính quyền. Hơn nữa, việc để chính quyền địa phương hưởng số tiền thuế đó sẽ thúc đẩy địa phương kiểm soát hiệu quả hơn việc xả thải gây ô nhiễm môi trường.

Thứ Tư, 28 tháng 12, 2016

NGUYÊN THỨ TRƯỞNG BỘ THỦY LỢI TRẦN NHƠN: BÌNH LUẬN VỀ 10 TỒN TẠI, VƯỚNG MẮC CỦA NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG BÁO CÁO CỦA CHÍNH PHỦ.

Xin có mấy lời bình luân (nhân đọc bài "10 tồn tại, vướng mắc của nền kinh tế Việt Nam dưới góc nhìn của Chính phủ" trên báo VnEconomy):

1/ Báo cáo của Chính phủ nêu 10 tồn tại, vướng mắc. Như vậy là dàn trải và dài dòng quá, trùng lắp khó nhớ, khó khắc phục, sửa chữa.

2/ Tôi thấy cần phải nhấn mạnh một điều cốt lõi mà Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã bắt được bệnh và nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần, là "phải chấm dứt cơ chế xin cho", nhưng dường như Thủ tướng nói cứ nói, các Bộ ngành cứ bỏ ngoài tai: Vần cứ làm theo lối mòn xưa cũ. Cơ chế "xin - cho" vẫn còn rất nặng nề, đang làm triệt tiêu mọi nội lực và động lực phát triển. Năng suất thấp, hiệu quả kém, nợ công ngập đầu, nợ nước ngoài ngày càng chồng chất... (dường như vô phương cứ chữa?) cũng từ đó mà ra.

3/ Đề nghị lập một Tổ (không cần ban bệ, Tổ chỉ cần quy tụ một số ít cán bộ lãnh đạo và chuyên gia có năng lực, có uy tín) giúp Thủ tướng Chính phủ rà soát và kiến nghị dẹp bỏ các loại cơ chế "xin - cho" hiện hữu, với lộ trình và bước đi thích hợp. Tổ bắt đầu hoạt động từ ngày 1/1/2017.

4/ Kính mời quý vị và các bạn xem lại bài viết của tôi cách đây 1/4 thế kỷ:
BỐN BÀI HỌC QUẢN LÝ KINH TẾ VĨ MÔ (*)

TS Trần Nhơn (Nguyên Thứ trưởng)

Từ những thành bại trong đời sống kinh tế - xã hội nước ta, có thể rút ra bốn bài học quản lý kinh tế vĩ mô (nôm na, dễ nhớ) như sau:

1. Tiền đâu, đầu tiên

Nhân dân đã tổng kết "Tiền đâu, đầu tiên". Ta không quan tâm đến khía cạnh mỉa mai chống tiêu cực, mà chỉ lưu ý đến sự khái quát nghiêm túc về một tất yếu khách quan của câu tổng kết đó: làm việc gì cũng phải có vốn, có chi phí, có đầu tư, phải có cân đối tài chính. Không thể chỉ lên kế hoạch suông một cách chung chung về những mục tiêu mong muốn chủ quan, duy ý chí.
Trong chiến lược kinh tế - xã hội đến năm 2000, thì phương án cân đối tài chính cũng chưa được rõ. Phải tiếp tục xây dựng chính sách tài chính quốc gia để có cơ sở làm rõ khâu quan trọng này thì các mục tiêu chiến lược mới có thể đạt được một cách vững chắc.

2. Đầu tư từ đâu?

Trong quá trình đổi mới để thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội, nhân dân lại tổng kết và đặt thành câu hỏi: Đầu tư từ đâu? Rõ ràng là, nói chung, và nhất là trong tình hình ngân sách hạn hẹp và cân đối rất khó khăn như hiện nay, vốn đầu tư chủ yếu phải được lấy từ hiệu quả kinh tế của hàng ngàn dự án đầu tư đã được thực hiện trong nhiều chục năm qua, với tài sản cố định hàng chục vạn tỷ đồng. Đây là nguồn vốn to lớn, nếu có chính sách và cơ chế đúng đắn, vốn có thể được huy động, tái tạo để tái đầu tư. Chẳng hạn, đối với xí nghiệp quốc doanh quản lý các hệ thống công trình kết cấu hạ tầng sản xuất, chỉ cần tăng mức trích khấu hao cơ bản trong giá thành sản phẩm bình quân 2%, ngân sách có thể có thêm nhiều nghìn tỷ đồng để đẩy mạnh nhịp độ đầu tư xây dựng cơ bản trong những năm tới bằng chính sức mạnh của nội bộ nền kinh tế nước nhà. Đương nhiên, trong bối cảnh quen được trợ giá một phần hoặc toàn phần khấu hao cơ bản, thậm chí còn hỗ trợ sửa chữa lớn và cả bảo dưỡng vận hành nữa, các chủ thể sản xuất kinh doanh không dễ dàng tiếp thụ và đón nhận chính sách mới này. Nhưng chúng ta cần khẳng định rằng, hỗ trợ đầu vào quá lớn là một khuyết điểm, một sai lầm chứ không phải là "ưu việt" như cách nghĩ trước đây. Vì thế chúng ta kiên quyết sửa chữa sai lầm. Đương nhiên, phải có cách làm và bước đi thích hợp. Và chúng ta sẽ không hoang mang khi nghe những tiếng kêu, những lời răn đe, lời phản đối: "không chịu nổi", "không khuyến khích sản xuất", "bóp chết sản xuất", "thị trường và người tiêu dùng không chấp nhận nổi", "nông dân sẽ bỏ ruộng", v.v... Vấn đề là cần bình tĩnh lắng nghe, xem xét, đâu là tiếng kêu thật, đâu là tiếng kêu giả, nguyên nhân thật sự là ở đâu. Và xin lưu ý một điều: có khi những người kêu to nhất lại chính là những người đang làm ăn dư dả trên sự bao cấp của Nhà nước qua chính sách trợ giá đầu vào lâu nay; còn biết bao người ở các vùng chưa được đầu tư bao nhiêu, chỉ chịu đựng âm thầm hay chỉ có tiếng kêu nhỏ bé hầu như không được ai để ý tới, mới chính là những người thật sự khó khăn cần được quan tâm giúp đỡ. Đầu tư không phải là cho không, cũng không phải là việc làm từ thiện, càng không thể là cho không, là làm từ thiện đối với những người, những vùng đã được đầu tư (cho không) khá lớn trong nhiều chục năm qua. Và tiếc thay thực tiễn lại chứng minh rằng, sự bao cấp nặng nề qua trợ giá đầu vào theo kiểu "làm từ thiện" đó đã không đến được tay người lao động bao nhiêu, mà chủ yếu bị thất thoát, bị "ăn chặn" ở các khâu trung gian.
Vì thế, cứ kiên quyết tính đúng tính đủ: "Dùi đánh đục, đục sẽ đánh chạm". Tác động dây chuyền do tính đúng, tính đủ nhất định sẽ làm tăng giá thành và giá bán các sản phẩm, các dịch vụ. Nhưng trong cơ chế thị trường, sự đội giá đầu vào do tính đúng, tính đủ đó sẽ là sức ép mạnh mẽ thúc đẩy có hiệu quả việc giảm các khoản "ăn chặn", thất thoát và các khoản chi phí không cần thiết để bảo đảm đầu ra thị trường có thể chấp nhận. Mặt khác, sự tăng giá đó nhất định rồi sẽ đi tới ổn định cùng với các biện pháp đồng bộ kiên quyết hạn chế, đẩy lùi lạm phát. Theo chúng tôi, trong điều kiện nước ta hiện nay, nếu không kiên quyết đi tới tính đúng, tính đủ đầu vào, cả đối với các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế, thì việc hạn chế, đẩy lùi lạm phát chỉ là khẩu hiệu suông, vô phương tháo gỡ. Tuy nhiên, tính đúng, tính đủ đầu vào chưa phải là tất cả. Nếu không đồng thời kiên quyết thực hiện các biện pháp đồng bộ khác để tích cực hạn chế và đẩy lùi lạm phát thì mặt bằng giá cũng sẽ cứ nâng mãi, không ổn định được. Đành rằng các biện pháp đồng bộ và kiên quyết đó là không giản đơn và rất phức tạp, khó khăn. Nhưng một đằng là khó khăn, phức tạp, song cố gắng thì còn thấy lối ra, còn một đằng là vô phương tháo gỡ. Vậy ta chọn đằng nào?

3. Kinh tế là phải kê tính, kê đầy đủ và tính sòng phẳng từ A đến Z

Nhiều chục năm qua, nền kinh tế nước ta chìm đắm trong cơ chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp, cho nên nói "kinh tế" mà thực chất chúng ta chưa "làm kinh tế" (vì chưa chịu “kê tính”). Chúng ta "cấp phát và giao nộp", chúng ta "cho vốn và xin vốn", chúng ta "ăn" vào vốn ngân sách, "ăn" vào vốn vay nước ngoài. Cơ chế đó làm triệt tiêu mọi động lực năng động sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, làm xói mòn nghiêm trọng tinh thần trách nhiệm bảo tồn và phát triển vốn, nương nhẹ kẻ lười biếng, và trên chừng mực nào đó, khuyến khích kẻ cơ hội, bất tài, kém đạo đức. Ta cũng đã nói đến "hạch toán kinh tế" trong nhiều chục năm qua và cũng đã có những chuyển biến chậm chạp trong lĩnh vực này. Song về căn bản chỉ là hạch toán hình thức trên một nền bao cấp nặng nề. Đem phần bao cấp từ A đến P trộn lẫn vào phần hạch toán kinh doanh từ Q đến Z để làm ra lãi giả, lỗ thật, gây nên bao tổn thất nặng nề cho ngân sách. Nay trong công cuộc đổi mới, càng ngày ta càng thấm thía: Kinh tế là kê tính, kê đầy đủ và tính sòng phẳng từ A đến Z.

4. “Đổi mới” là giảm “đòi moi” ngân sách, tiến tới chấm dứt "đòi moi" và đóng góp ngày càng tích cực hơn cho ngân sách
Trong công cuộc đổi mới, những tấm gương tự lực cánh sinh, tự lực tự cường trong sản xuất, kinh doanh của nhiều đơn vị, địa phương, cơ sở càng giúp chúng ta khẳng định rõ thêm một nhận xét là: Nếu ai đó nói "đổi mới" mà còn tiếp tục "đòi moi" ngân sách hỗ trợ, cấp phát, bao cấp cho đơn vị mình, ngành mình quá lớn, thì tức là người đó chỉ hô khẩu hiệu suông, nói không đi đối với làm. Chúng ta đang gặp phải những khó khăn chưa từng có về cân đối ngân sách trong những năm đầu của thập kỷ 90 này. Nếu không quán triệt bài học thứ tư này thì mục tiêu đổi mới khó mà thực hiện được. Nhưng công bằng mà nói, không thể đổ hết khuyết điểm "đòi moi" cho các đơn vị, địa phương và cơ sở. Thực trạng “đòi moi” này chủ yếu là do cơ chế vĩ mô sản sinh ra, vì vậy phải sửa từ trên xuống. Nhiều anh em ở đơn vị cơ sở, địa phương tâm sự: biết là ngân sách khó khăn như vậy, nhưng trên còn "cho" thì chúng tôi còn "xin". Người khác còn xin được thì chúng tôi cũng phải xin cho bằng được chứ! Tự trên chứ đâu phải tự chúng tôi! Đề nghị trên phải sửa chính sách cơ chế và phải tuyên truyền giáo dục để quán triệt sâu rộng, làm sao không còn tình trạng: khi tôi còn ở trung ương thì tôi “cắt giảm”, khi tôi về địa phương, cơ sở thì tôi "đòi moi", mai kia lên trung ương tôi lại "cắt giảm"… Tức là làm sao cho trên dưới đều nhất trí đồng lòng là phải huy động cao sức dân để phục vụ dân kịp thời, có hiệu quả hơn, trên cơ sở xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tích lũy và tiêu dung, tích lũy từ nội bộ nền kinh tế để xây dựng ngân sách ngày càng tăng trưởng, bảo đảm cân đối tài chính cho yêu cầu chiến lược kinh tế - xã hội đến năm 2000, làm sao chỉ có đạt và vượt mức huy động như kế hoạch đề ra, theo phương châm “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn phần dân liệu cũng xong”. Nếu trong bước ngoặt lịch sử khó khăn to lớn này, mọi chủ trương, chính sách được nghiên cứu chu đáo, đưa ra dân biêt, dân bàn, để dân làm, dân hưởng, dân chi trả, đóng góp, thì nhất định chúng ta sẽ vượt qua được thử thách to lớn này để vươn lên tiến kịp và sánh vai cùng với cộng đồng quốc tế./.

(*) Báo Nhân Dân (11/12/1991); Thời báo Kinh tế (tháng 10/1991)

HÀNG LOẠT NHÂN SỰ CỦA BỘ CÔNG THƯƠNG BỊ THU HỒI QUYẾT ĐỊNH BỔ NHIỆM...ĐẦU TÊU LÀ TRỊNH XUÂN THANH, VŨ QUANG HẢI ( CON VŨ HUY HOÀNG); Kiểm tra dấu hiệu vi phạm của 2 lãnh đạo bổ nhiệm Vụ phó 26 tuổi

Trịnh Xuân Thanh từng được quy hoạch làm thứ trưởng Bộ Công thương
28/12/2016 17:30 GMT+7
TTO - Chiều 28-12, Bộ Công thương chính thức ban hành nghị quyết xử lý một số trường hợp cán bộ được bổ nhiệm không đúng quy định đã được nêu tại kết luận của Ủy ban Kiểm tra trung ương.
Theo đó, Ban cán sự đảng Bộ Công thương đã chỉ đạo các đơn vị chức năng của bộ triển khai rà soát và thống nhất báo cáo Ban tổ chức trung ương đưa ba trường hợp Trịnh Xuân Thanh, Nguyễn Xuân Sơn và Võ Thanh Hà ra khỏi quy hoạch chức danh thứ trưởng Bộ Công thương giai đoạn 2016-2021.
Đồng thời, Ban cán sự Đảng yêu cầu Bộ trưởng Bộ Công thương thu hồi các quyết định tiếp nhận, bổ nhiệm, điều động cán bộ không đúng quy định, bao gồm các trường hợp:
Ông Trịnh Xuân Thanh: Thu hồi quyết định tiếp nhận và bổ nhiệm chức vụ phó chánh Văn phòng Bộ Công thương, trưởng đại diện Văn phòng bộ tại TP Đà Nẵng; quyết định bổ nhiệm chức vụ vụ trưởng, chánh Văn phòng Ban cán sự Đảng, thường trực Ban Đổi mới và phát triển doanh nghiệp Bộ Công thương.
Ông Vũ Quang Hải: Thu hồi quyết định bổ nhiệm kiểm soát viên kiêm nhiệm tại Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam; quyết định bổ nhiệm hàm phó vụ trưởng; quyết định đồng ý điều động ông Vũ Quang Hải đến nhận công tác tại Tổng công ty cổ phần Bia - rượu - nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) và đề cử tham gia hội đồng quản trị Sabeco.
Đồng thời, giao bộ phận đại diện phần vốn nhà nước tại Sabeco báo cáo hội đồng quản trị, đại hội đồng cổ đông Sabeco xem xét miễn nhiệm theo trình tự luật định các chức danh ủy viên hội đồng quản trị, phó tổng giám đốc Sabeco của ông Vũ Quang Hải.
Ông Vũ Đình Duy: Thu hồi quyết định tiếp nhận và bổ nhiệm chức vụ phó cục trưởng Cục Kỹ thuật an toàn và môi trường công nghiệp đối với ông Vũ Đình Duy.
Bà Vũ Thúy Huệ: Thu hồi quyết định điều động và bổ nhiệm bà Vũ Thúy Huệ giữ chức vụ phó Vụ trưởng Bộ Công thương, đại diện Tổng cục Năng lượng tại TP.HCM. Đồng thời, đồng ý để bà Huệ được thôi việc theo nguyện vọng cá nhân.
Ông Võ Thanh Hà: Thu hồi quyết định bổ nhiệm chức vụ chánh Văn phòng Bộ Công thương đối với ông Võ Thanh Hà.
Ban cán sự Đảng cũng đã ra nghị quyết hủy bỏ mục 3, phần III, thông báo số 619-TB-BCSĐ ngày 26-9-2015 của Ban cán sự đảng Bộ Công thương về việc điều động ông Vũ Hùng Sơn, giám đốc Trung tâm thông tin Công nghiệp và thương mại giữ chức chánh Văn phòng kiêm thư ký bộ trưởng.
Theo Bộ Công thương, các quyết định nói trên được thực hiện dựa trên thông báo của Ủy ban Kiểm tra trung ương về kết luận kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với Ban cán sự Đảng Bộ Công thương và ông Vũ Huy Hoàng, nguyên ủy viên Trung ương Đảng, nguyên bí thư Ban cán sự Đảng, nguyên bộ trưởng Bộ Công thương, cũng như thực hiện ý kiến chỉ đạo của Tổng bí thư và ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về việc xử lý một số trường hợp được bổ nhiệm không đúng quy định.
TRẦN VŨ NGHI


Kiểm tra dấu hiệu vi phạm của 2 lãnh đạo bổ nhiệm Vụ phó 26 tuổi

VOV.VN - Ủy ban Kiểm tra TƯ sáng 28/12 đã công bố Quyết điểm kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm trong công tác cán bộ đối với 2 cán bộ BCĐ Tây Nam bộ
Sáng 28/12, tại trụ sở Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, ông Nguyễn Thanh Sơn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương cùng đoàn công tác đã công bố Quyết định kiểm tra đảng viên có dấu hiệu vi phạm trong công tác cán bộ đối với hai Lãnh đạo Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ. Đó là ông Nguyễn Phong Quang, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ; ông Nguyễn Quốc Việt, Bí thư Đảng ủy, Phó Trưởng ban Chỉ đạo Tây Nam bộ. 
kiem tra dau hieu vi pham cua 2 lanh dao bo nhiem vu pho 26 tuoi hinh 1
Quyết định chuyển công tác cho Vũ Minh Hoàng do ông Nguyễn Quốc Việt ký
Đoàn công tác của Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã công bố quyết định kiểm tra dấu hiệu vi phạm của ông Nguyễn Phong Quang và Nguyễn Quốc Việt liên quan đến công tác tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ tại Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ trong thời gian qua; trong đó, có việc tuyển dụng, bổ nhiệm ông Vũ Minh Hoàng, 26 tuổi, quê ở tỉnh Bắc Ninh giữ chức Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế gây xôn xao dư luận.
Tháng 6/2014, thừa lệnh Trưởng ban, Chánh Văn phòng Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ Nguyễn Thanh Hải ký quyết định tuyển dụng ông Vũ Minh Hoàng về làm việc tại Phòng nghiên cứu - tổng hợp; được hưởng 85% lương theo ngạch chuyên viên với thời gian tập sự 12 tháng. Đầu tháng 9/2014, ông Vũ Minh Hoàng đi du học, nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Nhật Bản với thời hạn 2 năm và không được hưởng lương cũng như bảo hiểm xã hội.
Khi ông Vũ Minh Hoàng hết thời gian tập sự (31/7/2015), 5 tháng sau đó, dù còn tham gia học tập ở nước ngoài, ngày 15/1/2016, ông Nguyễn Quốc Việt, Phó Trưởng ban Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ đã ký quyết định điều động, bổ nhiệm ông Hoàng làm Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế thuộc Ban chỉ đạo Tây Nam bộ.
Hơn 1 tháng sau, ngày 17/2/2016, ông Nguyễn Quốc Việt tiếp tục ký quyết định cho ông Hoàng chuyển công tác về UBND TP. Cần Thơ theo công văn số 517 gửi cùng ngày từ UBND Thành phố Cần Thơ về việc xin cán bộ.
Ông Sơn Minh Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ thừa nhận, đây là một trong số rất ít trường hợp được bổ nhiệm quá nhanh và lạ như thế./.
PV/VOV - ĐBSCL

Người Việt Nam thế kỷ XIX qua lăng kính một sử gia Nhật Bản

Pháp Việt giao binh ký – Một tài liệu quý cho sự tu sử nước nhà

Pháp Việt giao binh ký là cuốn sách chép cuộc chiến tranh của nước Việt Nam với nước Pháp từ những năm đầu triều Nguyễn đến những năm 1880. Nội dung cuốn sách chủ yếu xoay quanh mấy vấn đề như địa lý, phong tục, sản vật, diên cách lịch sử Việt Nam, mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cùng cách thức mà Trung Quốc và Việt Nam đối phó với Pháp.
Tác giả của Pháp Việt giao binh ký là Sone Toshitora (曾根 俊虎/ Tăng Căn Tuấn Hổ) (1847-1910), một võ sĩ thời Bakumatsu (幕末/ Mạc mạt), Đại úy Hải quân Nhật Bản, được coi là nhân vật quan trọng nhất của thuyết Liên Á trong lịch sử cận đại Nhật Bản và là một trong những người sáng lập Hưng Á hội. Sone Toshitora từng là học trò của Watanabe Hiromoto (1848-1901), Fukuzawa Yukichi (1835-1901) và Yoshida Kensuke (1838-1893).
Phap-Viet-giao-binh-ky-sone-toshitora.jpg
Pháp Việt giao binh ký chép bằng chữ Hán, xuất bản lần đầu tại Tokyo (Đông Kinh), Nhật Bản, năm Minh Trị thứ mười chín, tức là năm 1886. Sau này ảnh ấn của cuốn sách được in trongCận đại Trung Quốc sử liệu tùng san, tập 62 近代中國史料叢刊第六十二輯, xuất bản năm 1966, Văn Hải xuất bản xã, tại Đài Bắc.
Về cuốn sách Pháp Việt giao binh ký, Nguyễn Thuật hiệu Hà Đình trong Vãng tân nhật ký[1] cũng có ghi lại đôi dòng: “Ngày 6 tháng 12 năm 1883, Tăng Căn Khiếu Vân[2] 曾根 嘯雲 đến thăm, tôi và ông ấy ngồi ở đình Vọng Sơn, trò chuyện hồi lâu. Khiếu Vân có lấy ra hai cuốn sách cho tôi xem, một cuốn là Nam phiêu ký sự 南漂記事 trong sách đề năm Khoan Chính thứ sáu (năm thứ 59 niên hiệu Càn Long triều Thanh, năm thứ 56 niên hiệu Cảnh Hưng triều Lê nước ta, tức là năm 1794)... Một cuốn nữa là Pháp Việt giao binh kỷ lược 法越交兵紀略 ghi chép rất nhiều câu chuyện, bài viết được đăng trên nhật báo, quá nửa là sai lầm, không chính xác. Nên ông ấy có nhờ tôi nhuận chính lại, tôi có rút bỏ khoảng hơn mười bài, giản lược bớt và sửa chữa...”[3]
Trong lời tựa đầu sách, Sone Toshitora cũng có trình bày đại ý việc biên soạn Pháp Việt giao binh ký vì ông thấy các cường quốc Âu châu đang xâm chiếm các nước Đông phương, trong khi Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam là những nước đồng văn đồng chủng, cùng chung giáo hóa, thì lấy làm lo nên đã đứng ra lập một hội, với mục đích bênh vực các nước Đông phương, gọi là “Hưng Á hội”. Vì vậy xuyên suốt cuốn sách này, Sone Toshitora chỉ ra hết những biện pháp bóc lột của Pháp, rồi một mực kêu gọi, hô hào các chí sĩ châu Á ra tay cứu giúp một nước đang trong cảnh nguy vong là nước Việt Nam.
Thời ấy, Sone Toshitora cũng giao lưu với nhiều anh tài Trung Hoa, như Vương Thao, một nhà báo trứ danh ở Hương Cảng. Vương Thao cũng là một tay quen biết rộng nhiều, hay thư từ qua lại với một số vị đại thần nước ta như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Tư Giản. Vì thế, khi Nguyễn Thuật đi sứ sang Tàu, nhờ Vương Thao giới thiệu, có được đọc qua bản cảo Pháp Việt giao binh ký của Sone Toshitora và có để ít nhiều lời bình trong sách.
Do vậy khi cuốn sách được đem in, ngoài Sone Toshitora đứng tên ra, thì trên bìa sách người ta còn thấy có đề tên Nguyễn Thuật, Hà Đình, người Việt Nam đứng hiệu duyệt kế sau Vương Thao, người Tàu đứng san toản. Và trong sách thỉnh thoảng cũng có những lời phê vắn tắt của ông Nguyễn Thuật, nhưng rất ít.
Cuốn sách bao gồm 5 quyển, với rất nhiều lời đề tựa của Taruhito (熾仁); Yokoi Tadanao (横井 忠直); Akamatsu Toriyoshi (赤松 則良); Kawada Oukou (川田 甕江); Kurimoto Joun (栗本 鋤雲); Vương Thao (王韜); Ngũ Diên Phương (伍廷芳), Sone Toshitora... Nội dung cuốn sách chủ yếu là tổng hợp thông tin về tình hình chính trị Pháp – Việt trên nhật báo Việt Nam, Hồng Kong, Trung Hoa. Tuy nhiên trong quyển đầu, Sone Toshitora cũng dành một vài trang để viết về tính cách, phong tục, ăn ở... của người Việt. Mặc dù có nhiều chi tiết ngày nay không còn chính xác nữa nhưng đó cũng được coi như tấm gương phản chiếu để người Việt nhìn lại chính mình của hơn một trăm năm về trước.

Người Việt Nam thế kỷ XIX qua mắt của Sone Toshitora[4]

Thể chất

“Thân thể gầy còm, tinh thần suy yếu, tuy có khi sấn sướt làm mình ra mạnh mà rồi cũng trở nên biếng nhác tức thì. Có lẽ tại họ không có lòng kiên nhẫn. Bởi vậy, những việc khó nhọc lắm và phải làm lâu lai thì họ ắt không kham”.
“Người An Nam đa phần nhỏ thó, cái mặt trẹt, cái tai phẳng, cái mũi thấp, con ngươi đen, hơi giống người Tàu. Da hơi đen, có lẽ là bởi những người đó làm ruộng và dang nắng. Chứ còn như những người sang và các cô gái trẻ thì da cũng có trắng. Tuy vậy, đại để An Nam không có người đẹp. Người nào da trắng thì trắng như sáp, còn đen thì như đồng đen. Cũng có người da hơi vàng, giống người Mông Cổ. Con trai con gái hồi còn trẻ tuy cũng có vẻ đậm đà dễ coi, nhưng sau khi có vợ có chồng rồi thì tuồng mặt đổi hẳn, không còn được như trước nữa. Cũng có nhiều kẻ tốt tóc, nhưng ngoài hai mươi tuổi thì tóc đã trở nên xác xơ, không láng ngời nữa. Họ thường búi tóc. Kẻ nào ưa làm dáng thì hay búi bằng chang, con trai con gái đều như vậy. Nhiều người mặt mày xấu xí, cách đi đứng quê kệch, lại từ đỉnh đầu đến gót chân, thường lộ ra những nét cong queo nghiêng lệch. Đó là tại hồi còn nhỏ, người mẹ hoặc người vú hay để đứa trẻ chàng hảng hai chân ngồi lên trên hai chân của mình mà cho ăn cho bú, nên lâu ngày rồi nó như thế”.
Nguyễn Thuật có phê rằng: “Dân cày và đàn bà nhà quê mới có nhiều người tuồng mặt xấu xí; chứ còn các hàng quan thân văn sĩ hầu hết người nào cũng có nghi dung tuấn tú, không phải xấu xí cả đâu”.

Y phục, trang sức

“Về y phục, đồ mặc thường của họ quá chật. Nhưng, đàn ông mặc như thế thì được tiện và nhanh nhẹn. Đàn bà, áo dài hơn đàn ông, may bịt bùng hết, không có chỗ hở da. Đó là vì ngừa thói dâm của phụ nữ mà khiến họ có sự bất tiện. Lễ phục thì hai tay áo dài và rộng”.
“Đàn ông, đầu đội khăn; đàn bà dùng cái nón lớn để che nắng che mưa. Dân thường thì dùng một miếng vải nhỏ che trên đầu; khi đi ra đồng, đội nón lá; còn miếng vải nhỏ, vắt trên vai để thay khăn tay. Đó là điều không giống với nước nào hết.”
“Họ lại có dùng cái dải trắng và đỏ đeo hai cái đãy ngang lưng, đó cũng là điều khác với các nước nữa. Trong đãy chứa trầu cau, trái trám, để ăn. Khi ra ngoài, đeo hai cái đãy trên vai. Trong nhà thì trưng bày những đồ như cái hộp bằng đồng hoặc bằng bạc để đựng trầu cau cùng vật ăn được”.
Nguyễn Thuật phê rằng: “Cái tục mang đãy nay không còn có nữa”.
“Họ thường ăn trầu cau hoặc trái trám, cho nên răng đều vàng ra hay đen đi. Đàn bà họ lại ưa dùng đồ trang sức bằng ngà voi”.
Nguyễn Thuật nói rằng: “Ăn trầu thì có; còn trái trám thì là thức ăn phụ, coi như đồ gia vị, chớ không dùng để ăn thường”.

Đi đứng

“Đàn ông đàn bà đi ra ngoài đều đi chân không. Duy có ông già cùng người đàn bà làm tốt thì có mang giày, mà giày thì ngắn, khi mang vào, thường để hai gót ra ngoài, cho nên dáng đi cũng xấu xí. Từ ngày có người Pháp đến ở trong nước, người An Nam nào có thông hôn với người Pháp thì có đi giày đen và tất trắng”.

Nhà cửa

“Nhà làm nhỏ hay lớn, cao hay thấp là tùy người giàu nghèo sang hèn khác nhau. Đại khái nhà đều thấp, tối tăm và xấu xí; cột dùng gỗ, nghèo thì dùng tre. Trên nhà, lợp bằng lá dừa nước, hoặc tranh, hoặc rạ; cũng có lợp ngói, nhưng phải là giàu mới lợp ngói được. Trong nhà chia làm mấy ngăn, ngăn bằng ván hoặc phên. Bốn phía tường dùng ván, có khi dùng lá dừa, nên hay bị mất trộm lắm. Đồ vặt trong nhà không có mấy, vài ba bộ ván hoặc giường để mà ngồi nằm, lại với tủ hoặc rương để đựng quần áo. Nhà giàu sang thì có cái kỷ nhỏ, bày đồ trà để đãi khách”.

Vệ sinh, ăn uống

“Người An Nam đến sự ở nhà không sạch sẽ, mặc áo quần dơ bẩn thì thôi, khắp thế giới không nước nào bằng! Cũng có kẻ mặc đồ hàng lụa, áo kép, áo lót, nhưng vẫn như là lam lũ. Thật ra thì kiểu y phục của họ không thích hợp với mùa lạnh mùa nóng, còn nhà thì không thích hợp với sự ăn ở. Họ hay ăn mặn quá hoặc cay quá, chua quá, cũng có thể tại đó mà thể chất trở nên yếu đuối, tâm thần trở nên thất thường. Lại thêm khí hậu không tốt, làm cho người suy nhược. Người An Nam ít sống lâu, trẻ con phần nhiều không nuôi được. Họ đẻ con rất dễ dàng, nhưng vì ăn ở bẩn thỉu, không biết vệ sinh cho nên chúng hay chết non. Từ ngày biết phép chủng đậu, trẻ con cũng có bớt chết”.

Tính cách

“Người An Nam không thiếu người có tài có trí. Họ có tánh giỏi nhớ, tuy chưa thể vào sâu trong mọi sự, chứ được cái học mau biết. Người Pháp đến An Nam mới mười năm nay mà người An Nam học tiếng Pháp cũng đã đủ dùng, nói chuyện thường không đến nỗi ngập ngợ; vả lại viết bằng chữ Pháp cũng được nữa.
Họ không phải là không dũng khí. Nếu cai trị có phương pháp, lấy pháp luật mà chỉnh tề, lấy đạo nghĩa mà cố kết thì sự dũng cảm của người An Nam được việc lắm, sẽ không có người nước nào ở Đông phương này bằng họ được. Nay vì sự cai trị lỗi phương, trên dưới không noi đường chính, cho nên lòng người tàn bạo và khinh bạc thật hết chỗ nói. Coi như giữa chỗ pháp trường, người An Nam đến coi tuy thấy sự thảm khốc trước mắt mà họ vẫn đứng hút thuốc tự nhiên, không hề có vẻ thương xót. Như thế là vô tình quá lắm, chứ có phải dũng gì đâu!
Người An Nam ưa giữ theo tục cũ những mấy trăm năm về trước. Sự ấy đã thành ra thói quen, không sao chữa được. Nhưng có một điều đáng quý là biết kính người trên và giữ pháp luật. Từ khi có giao thiệp với người Pháp, họ dần dần bỏ mất cái tính vâng lời ngoan ngoãn ấy đi mà lại cho mình như thế là khai minh tiến bộ thì thật đáng tiếc. Tuy vậy, những người Pháp ở An Nam lại còn ngang ngạnh quá người bản xứ nữa, người An Nam có thế nào cũng còn là hơn họ. Đối với người Pháp, người An Nam tuy có vâng lời cũng chỉ bề ngoài thôi, chứ thật ra thì ai nấy đều “dạ trước mặt, trỏ cặc sau lưng” vậy”.
“Coi bề ngoài thì người An Nam trong các xứ đều không khác nhau lắm. Nhưng xét kỹ mới thấy tài trí và dũng lực của người Nam Kỳ thật thua xa người Bắc Kỳ. Người Nam Kỳ gặp cảnh nghèo không chịu nổi, mà đến lúc giàu cũng không biết giữ cho bền. Người nước họ hạng trung bình, không giàu mà cũng không nghèo, thì cai trị không khó mấy. Đến những kẻ siêng ăn nhác làm, ham chơi bời quá chẳng may sa sẩy, hễ mất chỗ sinh nhai là hóa ra ăn trộm. Lại có kẻ nhờ thời may làm nên phú quý thì hay khoe khoang kiêu ngạo, làm phách với người dưới mà lờn mặt với người trên. Cho nên người ta hay nói: “Người An Nam không biết xử cảnh nghèo mà cũng không biết xử cảnh giàu”. Tóm lại, những sự ấy đều bởi tại giáo hóa chưa đến nơi.”
Nguyễn Thuật phê rằng: “Nghèo khổ mà đi ăn trộm, giàu sang mà đổ ra kiêu sa, đó chẳng qua trăm ngàn người mới có một hai người như vậy. Không phải hết thảy người An Nam đều thế cả. Cái đó cũng giống như các nước”.
“Người bản xứ hay đổi nghề. Có thể bảo họ là “vô hằng tâm”[5]. Người nào thấy một việc gì trúng ý mình thì nôn nả làm liền, lúc đầu dù có nhọc nhằn mấy cũng ráng chịu. Đến vài tháng hoặc vài năm, đã thấy lộ vẻ biếng trễ rồi, rốt cuộc công việc phải bỏ dở. Khi bỏ rồi, thấy không có nghề làm, lại muốn trở lại nghề cũ. Cái thói ấy, người Pháp muốn trừ đi cho họ, nhưng vì mới đến ở, chưa có thể được.
Phụ nữ An Nam có tài gánh gồng buôn bán ở các nơi phố chợ. Còn chồng họ thì ở nhà uống rượu nói chuyện với bạn bè hàng xóm, ngồi không mà hưởng của vợ làm ra. Cái thói ấy cho đến ngày nay thỉnh thoảng vẫn còn. Trẻ con mất dạy. Chúng nó cũng có học, nhưng chỉ học qua loa những sách dễ dễ của người Tàu. Người lớn không biết cách chỉ bảo trẻ con. Chúng có lỗi cũng không hay răn phạt. Bởi vậy trẻ con đều hung tánh, đến lúc lớn cha mẹ đối với chúng cũng chịu phép.
Con gái 14 tuổi trở lên, đã cho đi chợ bán hàng, ra chỗ đông người, rộn tai choáng mắt, sinh ra lắm điều tệ, thế mà cha mẹ cũng chẳng cấm ngăn, để muốn làm gì thì làm...
Người An Nam không có ý nỗ lực tấn tới, mà lại còn không biết biện biệt sự lợi hay hại, nên hay hư. Việc buôn bán trong nước, họ đều phó cho người Tàu, không ngó ngàng đến. Người Tàu ở đó hay rủ nhau hùn vốn lập công ty để buôn. Buôn có lời, họ lại chia ra và lập thêm công ty khác. Còn người bản xứ thì sẵn tánh khinh bạc, hay nghi ngờ nhau, chống báng nhau, không lập công ty được; cho nên mối lợi trong nước đành phải để cho người Tàu tóm thâu. Người trong nước ưa lấy sự trá ngụy để lừa dối nhau, không ai tin ai được cả. Rất đỗi bà con quen thuộc cũng không có thể tin cậy nhau được. Đây thử cử ra một sổ vay nợ để làm chứng: Người cho vay đặt ra quy điều để ngừa giữ rất nghiêm nhặt, nhưng thường không khỏi bị gạt. Vì họ cho vay ăn lời nặng quá, có khi số lời gấp đôi số vốn, thì dễ gì mà trả được? Té ra sự gạt nợ cũng tại chủ cho vay tự mình chuốc lấy”.
Dù nội dung sách vẫn còn nhiều điểm cần phải bàn bạc lại, đánh giá lại nhưng Pháp Việt giao binh ký vẫn là một trong những tập tư liệu hữu ích, nhiều hình ảnh thú vị cho các nhà nghiên cứu về quan hệ Pháp Việt và phong tục, văn hóa, địa lý... nước ta vào cuối thế kỷ XIX.
TP.HCM, 10/8/2016
Nguyễn Mạnh Sơn