Thứ Tư, 30 tháng 8, 2017

Vi phạm pháp luật Việt Nam lại cố tình la lối; Vụ Trịnh Vĩnh Bình: Thủ tục tố tụng ra sao?

Xung quanh vụ kiện của Trịnh Vĩnh Bình:
08:19 06/06/2005
Vừa qua, Trịnh Vĩnh Bình, một bị án bỏ trốn vừa gửi đơn kiện UBND tỉnh Bà Ria - Vũng Tàu (nói cách khác là Chính phủ Việt Nam) ra trước Tòa án quốc tế, đòi bồi thường...100 triệu USD. Vậy, thực chất của vụ kiện này là gì?
Trịnh Vĩnh Bình lúc còn điều hành Liên doanh Bình Châu.
Sinh năm 1947 tại Sóc Trăng, Trịnh Vĩnh Bình cùng vợ con vượt biên năm 1976 rồi định cư tại Hà Lan. Từ năm 1981 đến tháng 8/1998, Bình nhập cảnh Việt Nam 63 lần và cứ mỗi lần như thế, Trịnh Vĩnh Bình lại đem theo vàng, đôla Mỹ. Tổng cộng, số tài sản mà Bình mang vào là 2.338.250 USD cùng 96 ký vàng.
Tại thời điểm này, luật pháp Việt Namchưa cho phép Việt kiều được mua bán, sở hữu, đứng tên nhà cửa, đất đai. Trịnh Vĩnh Bình đã bỏ ra toàn bộ vốn pháp định để thành lập Công ty Tín Thành, chuyên mua bán nông, thủy hải sản và nhờ Trịnh Hiền Thanh làm hộ khẩu giả cho mẹ vợ là bà Nguyễn Thị Thi, cho các em vợ là Phạm Thị Huệ, Phạm Thị Bé, Phạm Thị Tuyết Hằng. Tất cả những người này đã có hộ khẩu thường trú tại huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp nhưng lại có thêm hai hộ khẩu nữa ở Tp. HCM và huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Bên cạnh đó, vợ chồng cháu gái của Trịnh Vĩnh Bình là Trịnh Mộng Kiều, Triệu Văn Dữ và ngay như Trịnh Hiền Thanh, ngoài hộ khẩu chính thức ở Tp. HCM, vẫn được Trịnh Vĩnh Bình chỉ đạo làm thêm hộ khẩu ở Bà Rịa - Vũng Tàu. Tất cả những việc này không ngoài mục đích để họ có thể đứng tên, sở hữu nhà cửa, đất đai dưới hình thức mua bán, và xin nhận đất trồng rừng theo chương trình 327.
Từ đó cho đến ngày vụ án bị Cơ quan An ninh Điều tra tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu khởi tố, thông qua những người thân, Trịnh Vĩnh Bình đã nắm trong tay 11 căn nhà, 114 nền nhà và 2.847.745m2 đất. Bên cạnh đó, Bình thành lập Liên doanh trồng rừng Bình Châu rồi chỉ đạo nhân viên, đưa hối lộ 510 triệu đồng cho Tạ Quang Luyện, là cán bộ Công ty Phát triển nhà tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, thời điểm năm 1992, và Nguyễn Văn Huế, cán bộ Chi nhánh Phát triển kinh tế nông thôn phía Nam (cũng vào thời điểm ấy), để mẹ vợ cùng các em vợ Trịnh Vĩnh Bình được nhận 216 hécta đất trồng rừng.
Tuy nhiên, mục đích của Trịnh Vĩnh Bình là nhằm đầu cơ đất đai nên 216 hécta này, Bình chỉ trồng rừng cho có. Khi UBND huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tiến hành kiểm tra, số đất ấy hầu như vẫn giữ nguyên hiện trạng khi giao cho mẹ vợ Trịnh Vĩnh Bình.
Hợp thức hóa các thủ tục xong xuôi, Trịnh Vĩnh Bình bắt đầu bán nhà, bán đất để thu lợi mà Bình gọi là “chuyển nhượng thành quả lao động”. Cho đến ngày vụ án bị khởi tố, Bình đã kiếm được từ việc “chuyển nhượng thành quả lao động” 19.806.500.000 đồng. Trước những chứng cứ cụ thể, ngày 11/12/1998, TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đã tuyên phạt Trịnh Vĩnh Bình 13 năm tù giam, nhưng vẫn cho Bình được tại ngoại.
Bình làm đơn kháng án. Gần một năm sau, khi Tòa Phúc thẩm TAND tối cao tại Tp. HCM mở phiên xét xử, thì Trịnh Vĩnh Bình chạy vào Bệnh viện Chợ Rẫy xin... cấp cứu với lý do lên cơn cao huyết áp. Khi bác sĩ thông báo cho cán bộ Toà án rằng Trịnh Vĩnh Bình hoàn toàn khỏe mạnh thì Bình mới chịu lên xe.
Qua xem xét một số tình tiết, Tòa phúc thẩm tuyên phạt Trịnh Vĩnh Bình 11 năm tù giam, đồng thời tịch thu những tài sản phạm pháp, tổng cộng 6,1 tỉ đồng và 480 lượng vàng.
Lợi dụng việc vẫn còn được cho tại ngoại, Trịnh Vĩnh Bình bỏ trốn.
Đến đầu tháng 4/2005, Bình chính thức gửi đơn tới Trung tâm Trọng tài quốc tế về giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực đầu tư, trụ sở tại Stockholm, Thụy Điển, đồng thời nhờ tổ hợp luật sư đa quốc gia Covington Burling, London, Anh và Washington, Mỹ, kiện Chính phủ Việt Nam, đòi bồi thường thiệt hại 100 triệu USD. Một luật sư của Tổ hợp Covington Burling cho biết: “Ông Bình không đích danh khởi kiện Chính phủ Việt Nam nhưng trong trường hợp này, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là bị đơn và khi đã đưa ra Tòa án quốc tế thì Chính phủ Việt Nam là đại diện”.
Riêng Trịnh Vĩnh Bình tuyên bố: “Vụ kiện sẽ là điều bất lợi cho ViệtNam khi kêu gọi đầu tư nước ngoài, đặc biệt là kêu gọi người Việt hải ngoại. Vụ kiện sẽ cho người ta một chứng cứ là chuyện đầu tư ở ViệtNam hết sức rủi ro...”.
Qua những lời ấy, có thể thấy mục đích của Trịnh Vĩnh Bình không đơn thuần là chuyện kiện tụng, mà còn cố tình dựng lên một bức tranh đen tối về môi trường kinh doanh tại Việt Nam, nhằm gây hoang mang cho những người đã, đang và sẽ đầu tư vào Việt Nam.
Luật sư Phan Văn Thành, làm việc trong Công ty luật Nam Cali, phát biểu: “Tôi không tin rằng chuyện đầu tư ở Việt Nam hết sức rủi ro như lời ông Trịnh Vĩnh Bình. Nếu rủi ro thì các công ty Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Mỹ, Pháp, Đức... đã không ào ạt đổ tiền đổ của vào đây. Ngay tại Nam Cali, theo tôi biết đã có ít nhất 200 doanh nhân người Việt về Việt Nam làm ăn, có người đem về hàng triệu đôla, kể cả giới luật sư chúng tôi, cũng đã có người về mở văn phòng đại diện”.
Luật sư Nguyễn Đức, ở Dallas, Texas nhận định: “Tôi chưa được đọc chi tiết về vụ việc này nhưng theo tôi, nếu về Việt Nam làm ăn và vẫn còn giữ quốc tịch Việt Nam, và mọi hành động vi phạm pháp luật xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam, thì bị xử lý là chuyện hiển nhiên, kiện thế nào được”.
Theo luật sư Trương Xuân Tám, Trưởng Văn phòng Luật sư Trương Xuân Tám, trụ sở đặt tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: “Bản án đã không bị Tòa tối cao xét xử lại theo trình tự giám đốc thẩm hoặc tái thẩm nên nó đã có hiệu lực pháp luật. Không một quốc gia nào hoặc một tổ chức trọng tài nào có quyền bác bỏ bản án hình sự này. Như vậy, Trịnh Vĩnh Bình phải có nghĩa vụ chấp hành hình phạt nhưng ông ta đã bỏ trốn. Về mặt pháp lý, Việt Nam cần phát lệnh truy nã và làm việc với quốc gia mà Trịnh Vĩnh Bình đang cư trú, để tiến hành dẫn độ ông ta về nhằm đảm bảo việc thi hành án”
Vũ Cao

http://cand.com.vn/Phong-su-tu-lieu/Vi-pham-phap-luat-Viet-Nam-lai-co-tinh-la-loi-6495/



  • Vụ Trịnh Vĩnh Bình: Thủ tục tố tụng ra sao?

    Vụ Trịnh Vĩnh Bình: Thủ tục tố tụng ra sao?
    (PL)- Theo khoản 2 Điều 1 Quy tắc tố tụng của Phòng Thương mại quốc tế ICC 2017 thì Tòa Trọng tài Quốc tế ICC không đưa ra phán quyết chính thức về các vấn đề tranh chấp.


Tòa Trọng tài Quốc tế ICC không đưa ra phán quyết chính thức
LTS: Từ việc ông Trịnh Vĩnh Bình, một người Hà Lan gốc Việt, khởi kiện chính phủ Việt Nam tại Tòa Trọng tài Quốc tế ICC, Paris (Pháp) đòi bồi thường khoảng 1,25 tỉ USD, nhiều bạn đọc thắc mắc về các vấn đề pháp lý liên quan đến công việc của trọng tài quốc tế.
Vụ Trịnh Vĩnh Bình: Thủ tục tố tụng ra sao? - ảnh 1
Pháp Luật TP.HCM xin giới thiệu bài viết của TS Trần Thăng Long, khoa Luật quốc tế, Trường ĐH Luật TP.HCM.
Các tranh chấp thương mại quốc tế, gồm tranh chấp về hợp đồng và tranh chấp giữa nhà đầu tư là cá nhân với chính phủ nước tiếp nhận đầu tư, có thể được đưa ra phân xử tại một tòa trọng tài (không phải tòa án). Cơ sở là theo quy định tại hợp đồng hoặc hiệp định quốc tế giữa các quốc gia (như hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư). Đây là trường hợp từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp của quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Không ra phán quyết chính thức
Thông thường các hiệp định trên sẽ quy định tranh chấp được giải quyết bằng cơ chế giải quyết tranh chấp về đầu tư giữa các quốc gia và công dân quốc gia khác. Đây gọi là cơ chế ICSID (International Centre for Settlement of Investment Disputes) theo Công ước Washington năm 1965. Tuy nhiên, Việt Nam hiện chưa tham gia cơ chế này.
Nếu các bên không phải là thành viên của công ước này thì các tranh chấp liên quan sẽ được giải quyết bằng hòa giải. Nếu biện pháp hòa giải không đạt được thì tranh chấp này được giải quyết bằng một trọng tài theo vụ việc (ad hoc) hoặc trọng tài thường trực (trọng tài quy chế).
Cơ sở pháp lý để các tòa trọng tài nói trên phân xử là các điều khoản về giải quyết tranh chấp giữa công dân của một bên ký kết với chính phủ tại các hiệp định liên quan. Ngoài ra, vụ kiện có thể được thực hiện theo thỏa thuận giữa các bên trong trường hợp chính phủ của nước bị kiện đồng ý chấp nhận vụ kiện được giải quyết bằng một cơ chế như vậy.
Tòa Trọng tài Thương mại quốc tế (the International Court of Arbitration - ICC) là cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại của ICC. Nhưng theo khoản 2 Điều 1 Quy tắc tố tụng của Phòng Thương mại quốc tế ICC năm 2017 thì tòa này có chức năng quản lý đối với việc giải quyết tranh chấp được áp dụng theo quy tắc tố tụng của ICC nên sẽ không đưa ra phán quyết chính thức về các vấn đề tranh chấp. ICC chỉ thực hiện việc giám sát tư pháp đối với các thủ tục tố tụng trọng tài, gồm việc xác nhận, chỉ định và thay thế các trọng tài viên. Ngoài ra là đưa ra quyết định về các phản đối đối với các trọng tài viên này, giám sát tiến trình tố tụng trọng tài đảm bảo theo thời hạn, xem xét và chuẩn y các phán quyết trọng tài để đảm bảo chất lượng và tính khả thi…
Vụ Trịnh Vĩnh Bình: Thủ tục tố tụng ra sao? - ảnh 2
Ông Trịnh Vĩnh Bình. Ảnh: INTERNET
Được yêu cầu hủy phán quyết
Hiện có nhiều cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế về thương mại và đầu tư, tùy thuộc vào cơ chế giải quyết được các bên chọn lựa là gì mà phạm vi phân xử và việc thi hành phán quyết sẽ căn cứ vào cơ chế đó. Nội dung của phán quyết sẽ được thể hiện trong phán quyết của tòa trọng tài được thành lập để phân xử vụ tranh chấp.
Thứ nhất, trong trường hợp việc giải quyết bằng trọng tài thì quy tắc tố tụng sẽ tùy thuộc vào cơ chế cụ thể. Chẳng hạn, nếu vụ việc giải quyết bằng cơ chế trọng tài ad hoc thì quy tắc tố tụng có thể do các bên chọn lựa. Lúc này, theo một trong các quy tắc tố tụng trọng tài thương mại quốc tế phổ biến như quy tắc trọng tài của Ủy ban LHQ về Luật Thương mại quốc tế (UNCITRAL) hoặc quy tắc trọng tài của ICC. Nếu vụ việc được giải quyết bằng cơ chế Tòa Trọng tài Thường trực thì có thể áp dụng quy tắc tố tụng trọng tài của chính tổ chức trọng tài đó, chẳng hạn như quy tắc tố tụng riêng của ICSID.
Thứ hai, giá trị pháp lý và việc thi hành phán quyết thường được xác định trong phán quyết của tòa trọng tài đó. Về cơ bản các phán quyết này sẽ có giá trị chung thẩm, không có thủ tục phúc thẩm và yêu cầu các bên thực thi bằng việc công nhận và cho thi hành tại các nước liên quan. Mặc dù vậy, phán quyết này có thể bị bên phải thi hành yêu cầu tòa án nơi diễn ra phiên xử trọng tài hủy (set aside) và không công nhận, cho thi hành tại nước phải có nghĩa vụ thực thi phán quyết.
Điều này dẫn đến khả năng làm vô hiệu hóa phán quyết trọng tài. Đối với cơ chế của ICSID, theo đề nghị của một bên, phán quyết này cũng có thể được hủy bỏ (annulment) bằng cơ chế xem xét riêng của ICSID.
Có thể từ chối thi hành
Các phán quyết của trọng tài nước ngoài, gồm các phán quyết được tuyên ở trong hay ngoài lãnh thổ của nước liên quan, sẽ cần được công nhận và cho thi hành tại nước liên quan đó. Nếu nước phải thi hành là thành viên của Công ước New York năm 1958 về công nhận các phán quyết trọng tài nước ngoài (Công ước New York 1958), nước này sẽ công nhận phán quyết là có giá trị ràng buộc và sẽ thi hành. Việc thi hành này sẽ tuân theo quy tắc về thủ tục của lãnh thổ nơi quyết định được thi hành.
Mặc dù vậy, theo điểm b khoản 2 Điều 5 của Công ước New York 1958 thì việc công nhận và thi hành quyết định có thể bị từ chối dựa trên lý do là việc này sẽ trái với trật tự công cộng của nước đó. Do đó, việc thi hành các phán quyết chống lại quốc gia thường bị vô hiệu hóa hoặc bị cản trở bằng việc áp dụng nguyên tắc về quyền miễn trừ quốc gia (state immunity). Trong đó có thể viện dẫn yếu tố lợi ích công, việc bảo vệ tài sản quốc gia không sử dụng vào các mục đích thương mại hoặc những đối tượng được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao (diplomatic privilege).
Trường hợp phán quyết không được thực thi thì các cơ chế giải quyết bằng trọng tài hiện không có chế tài cụ thể để buộc phải thực thi. Tuy nhiên, các biện pháp trả đũa thương mại có thể được các nước liên quan áp dụng nhằm đảm bảo việc thi hành phán quyết cho công dân của mình. Ngoài ra, có thể làm ảnh hưởng đến uy tín của nước phải thực thi phán quyết trong quan hệ quốc tế.
Một vấn đề khác là các tòa trọng tài quốc tế về thương mại chỉ giải quyết các tranh chấp liên quan đến hoạt động thương mại quốc tế hoặc đầu tư quốc tế. Trong đó, vấn đề cốt lõi là phải chứng minh được vụ kiện có thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài hay không; nguyên đơn có phải là nhà đầu tư hay không; khoản đầu tư của nhà đầu tư có hợp pháp không và chính phủ nước tiếp nhận đầu tư đã vi phạm như thế nào.
Do đó, các phán quyết không thể đi ra ngoài các nội dung tranh chấp nêu trên. Ngoài ra, phía nguyên đơn có thể đưa ra yêu cầu về bồi thường nhưng việc xác định mức bồi thường cụ thể sẽ do trọng tài quyết định trong phán quyết trên cơ sở xem xét về thiệt hại, sự hợp lý... Điều đó không có nghĩa bên nguyên đơn đòi bồi thường bao nhiêu thì sẽ được tuyên bồi thường bấy nhiêu.
TS TRẦN THĂNG LONG
http://plo.vn/phap-luat/vu-trinh-vinh-binh-thu-tuc-to-tung-ra-sao-724311.html

VỤ VN PHARMA: Vì sao Bộ Y tế không thừa nhận thuốc ung thư giả? ( Vì sợ nặng tội... ); 7 loại thuốc do VN Pharma nhập khẩu từ “Công ty ma” đã lọt vào nhiều bệnh viện

 | 

Hôm nay (30.8) là hạn cuối mà Bộ Y tế phải có giải trình gửi Thủ tướng Chính phủ về những liên quan đến trách nhiệm quản lý trong vụ bê bối tại Cty dược VN Pharma. Hôm qua, đại diện lãnh đạo Bộ Y tế cũng đã có thông tin tới báo chí, trong đó nêu rõ “đã xử lý hành chính và khắc phục theo kiến nghị của Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an”. Song, còn nhiều vấn đề cần phải minh bạch hơn.

“Bộ Y tế khẳng định không phải thuốc giả”
Đó là phát biểu từ Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến thông tin với báo chí sáng 29.8 về trách nhiệm quản lý của Bộ Y tế trong vụ VN Pharma.
Thứ trưởng cho biết, ngày 16.10.2013, Cục Quản lý dược nhận được đơn hàng số 225/ĐH/VNP-XNK của Cty Cổ phần VN Pharma đề nghị cấp phép nhập khẩu thuốc H-Capita 500mg Caplet do Cty Helix Pharmaceutiacals Inc, Canada sản xuất.
Cục đã tổ chức thẩm định với sự tham gia của 10 chuyên gia từ Cục, ĐH Dược Hà Nội, Viện Kiểm nghiệm thuốc T.Ư. Việc thẩm định được thực hiện theo đúng quy định, đúng trình tự, thủ tục, đúng quy chế hoạt động của tổ thẩm định.
Ngày 30.12.2013, Cục Quản lý dược đồng ý cấp phép nhập khẩu thuốc trên. Việc cấp phép hoàn toàn đúng quy định hiện hành, không có ưu ái.
Theo quy định, hồ sơ đề nghị cấp phép nhập khẩu cần có giấy chứng nhận thuốc lưu hành tự do (FSC) và giấy chứng nhận nhà máy đạt tiêu chuẩn thực hành tốt sản xuất thuốc (GMP).
Tài liệu do VN Pharma nộp kèm theo đơn hàng số 225/ĐH/VNP-XNK có đầy đủ những tài liệu trên, nhưng về sau, cơ quan điều tra xác định những tài liệu này (FSC, GMP) đã được làm giả một cách tinh vi, các chuyên gia về dược không thể phát hiện bằng mắt thường.
Vì vậy ngày 31.7.2014, Cục đã yêu cầu giám đốc Công ty VN Pharma giải trình tại buổi làm việc.
Xét thấy giải trình của công ty chưa thoả đáng, ngày 1.8.2014, Cục Quản lý dược đã có công văn số 13134/QLD-KD yêu cầu công ty tạm ngừng, không tiếp tục nhập khẩu và lưu hành thuốc trên.
“Như vậy, từ thời điểm này, Cục Quản lý dược đã có quyết định không cho phép thuốc H-Capita bán ra thị trường và trong thực tế, không có một viên thuốc H-Capita nào trong lô thuốc nhập khẩu được bán trên thị trường” - Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến cho biết.
Khi được hỏi về việc có bao nhiêu phần trăm thuốc như vậy đã ra thị trường, Thứ trưởng Viết Tiến cho biết: “Số thuốc của VN Pharma không phải là thuốc giả mà là thuốc kém chất lượng, kém phẩm chất. Và dù là thuốc kém chất lượng, chúng tôi đã kiên quyết không đưa ra thị trường”.
Để làm rõ vấn đề này, trao đổi với Lao Động ngày 29.8, PGS-TS Nguyễn Bá Đức - nguyên Giám đốc Bệnh viện K - cho biết, cần phân biệt hai khái niệm “thuốc giả” và “thuốc nhập lậu” (còn gọi là thuốc không đầy đủ giấy tờ nhập khẩu, lưu hành).
Thuốc H-Capita được cho là có thành phần dược chất capecitabine được dùng làm thuốc chống ung thư, được chỉ định chủ yếu trong điều trị ung thư đường tiêu hoá (thực quản, dạ dày, đại trực tràng, một số ung thư tuỵ, đường mật...) và ung thư vú giai đoạn di căn.
PGS-TS Nguyễn Bá Đức cũng đặt vấn đề: “Hơn 9.000 hộp thuốc H-Capita cần làm rõ 97% hoạt chất capecitabine kém chất lượng hay giả? Và 3% còn lại là tạp chất hay là gì. Số thuốc này là thuốc giả hay thuốc kém thành phẩm? Để khẳng định một thuốc là giả, cần có kết luận kiểm nghiệm thành phần thuốc của cơ quan có thẩm quyền”.
Theo kết quả điều tra của Cơ quan An ninh điều tra (Bộ Công an), hồ sơ đơn hàng có những nội dung không thống nhất giữa Giấy chứng nhận bán hàng tự do (FSC), tờ hướng dẫn sử dụng (HDSD) và tiêu chuẩn, phương pháp kiểm nghiệm (TC&PPKN).
Cụ thể, về tên thuốc FSC ghi là H-Capita 500mg Caplet nhưng HDSD ghi là H-Capita Taplet, thành phần tá dược trên HDSD có Silica Coll Anhydrous, Macrogol 400, Oxyd sắt vàng nhưng thành phần tá dược trên và TC&PPKN không có các tá dược trên; Trên FSC và TC&PPKN có tác dược độn Anhydrous Lactose nhưng trên HDSD không có. Ngoài ra, còn một số điểm khác nhau về công thức Capeciabine đã ghi sai công thức hoá học; Hạn dùng trong TC&PPKN ghi 36 tháng nhưng trong HDSD ghi 24 tháng, nhiệt độ bảo quản cũng ghi khác nhau, nơi ghi 30 độ C, nơi ghi 25 độ C; Quy cách đóng gói trên toa thuốc gốc là hộp 1 vỉ/10 viên nhưng trên HDSD tiếng Việt ghi 3 vỉ/hộp.
Làm rõ 7,5 tỉ chi hoa hồng cho các bệnh viện
Cũng trong buổi thông tin với báo chí, Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến cho biết: “Số tiền 7,5 tỉ đồng tiền hoa hồng mà VN Pharma chi để tuồn thuốc vào các bệnh viện không liên quan đến lô thuốc H-Capita mà là dùng để chi các loại thuốc khác đã nhập khẩu trước đây”.
Điều thắc mắc là trong thông cáo báo chí phát đi hôm 29.8 của Bộ Y tế lại không nhắc đến số tiền ấy để chi cho việc tuồn các loại thuốc nào, có đảm bảo chất lượng không? Bởi lẽ, ngoài H-Capita, vào tháng 9.2014, Bộ Y tế cũng đã quyết định rút số đăng ký 7 loại thuốc do VN Pharma nhập về trong khoảng thời gian trước đó.
Câu hỏi là nếu Bộ Y tế khẳng định được H-Capita chưa ra thị trường thì lại không thể chắc chắn được 7 loại kia đã được dùng ở những bệnh viện nào? Phải chăng một phần trong số tiền 7,5 tỉ tiền hoa hồng được dùng cho việc đưa 7 loại thuốc (gồm thuốc dạng dung dịch tiêm truyền tĩnh mạch với các hàm lượng khác nhau, H2K Ciprofloxacin và H2K Levofloxacin) vào các bệnh viện.
Theo điều tra của Báo CAND thì “Toàn bộ 7 loại thuốc này cũng được nhập về từ một “công ty ma” ở Canada (Helix Canada), giống thuốc chữa ung thư H-Capita. Trong số 7 loại thuốc này, đã có chắc chắn 2 loại kháng sinh trúng thầu ở 2 bệnh viện cỡ trung ương” và không loại trừ những liều kháng sinh chưa rõ về chất lượng này đã được sử dụng cho rất nhiều bệnh nhân.
Bộ Y tế cần phải công khai, làm rõ vấn đề này.
Bộ Y tế đã xử lý hết trách nhiệm?
Trong công văn, Bộ Y tế nhận định: Với trách nhiệm của cơ quan quản lý dược, Bộ Y tế đã: Thực hiện cấp phép nhập khẩu thuốc theo đúng các quy định hiện hành; đã chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng để khởi tố vụ án và đưa ra xét xử, đã kịp thời niêm phong và ngăn chặn toàn bộ lô thuốc nhập khẩu kém chất lượng, không để một viên thuốc nào lọt ra thị trường; đã xử lý hành chính và khắc phục các kiến nghị của cơ quan điều tra.
Ngoài ra, Bộ cũng khẳng định đã xử lý hành chính, yêu cầu các cán bộ liên quan, chuyên gia thẩm định báo cáo, giải trình và rút kinh nghiệm và thực hiện chuyển lãnh đạo, chuyên viên phụ trách, thay thế và bổ sung các chuyên gia thẩm định.
Thêm một câu hỏi khiến nhiều người thắc mắc là tại cuộc trao đổi với báo chí ngày 29.8 là lẽ ra để nói về VN Pharma và những vấn đề dược thì người phải đăng đàn trả lời là Thứ trưởng Bộ Y tế kiêm Cục trưởng Cục Quản lý dược Trương Quốc Cường chứ không phải Thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến - vốn không phụ trách về mảng dược.
Được biết, ông Trương Quốc Cường là người chịu trách nhiệm chính việc cho nhập khẩu H-Capita và 7 thuốc kháng sinh đã nói ở trên cũng do VN Pharma nhập khẩu, Helix Canada sản xuất. Tất cả đã bị rút đăng ký.
Ông Cường được bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Y tế hồi tháng 11.2016 và ông Nguyễn Tất Đạt - người chủ trì tổ thẩm định hồ sơ H-Capita - cũng được bộ nhiệm làm Phó Cục trưởng Cục Quản lý dược.
Hai bệnh viện lớn đã dùng thuốc do VN Pharma trúng thầu
Phóng viên đã rà soát hồ sơ tổng hợp kết quả trúng thầu các Sở Y tế, Bệnh viện (BV) đa khoa tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư năm 2013, thì loại thuốc H2K Levofloxacin và H2K Ciprofloxacin do Canada sản xuất đã trúng thầu ở nhiều BV, trong đó, có 2 BV tuyến T.Ư tại Hà Nội và Huế trúng thầu với số lượng hơn một tỉ đồng mỗi BV, chưa kể các Sở Y tế và các BV khác.
Được biết, H2K Ciprofloxacin và H2K Levofloxacin là hai loại thuốc kháng sinh tổng hợp. Trong đó, H2K Ciprofloxacin được điều trị cho các bệnh nhiễm khuẩn nặng mà các thuốc kháng sinh thông thường không tác dụng, như viêm đường tiết niệu, viêm tuyến tiền liệt, viêm xương-tủy, các bệnh về đường ruột. Còn H2K Levofloxacin được sử dụng trong điều trị cho các bệnh nhân viêm xoang cấp, viêm phế quản mãn, viêm phổi cộng đồng, viêm tuyến tiền liệt, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, nhiễm khuẩn da, bệnh than…
PGS-TS Nguyễn Tiến Dũng - nguyên Trưởng khoa Nhi BV Bạch Mai - cho biết, nếu điều trị bằng thuốc kháng sinh giả sẽ gây hậu quả khôn lường. Trước hết là bệnh sẽ không khỏi, nếu nồng độ thuốc thật không có hoặc có ít sẽ làm tăng việc kháng thuốc kháng sinh. Nếu trong thuốc giả mà có tá dược không đủ tiêu chuẩn có thể gây tác dụng phụ và nếu tỉ lệ dị ứng nhiều dễ dẫn đến tử vong.
Trả lời báo chí về vụ việc này, ông Phạm Lương Sơn - Phó Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam (BHXHVN) - cho biết, ngay khi Bộ Y tế rút đăng ký 7 loại thuốc của VN Pharma vào ngày 19.9.2014, BHXHVN đã chỉ đạo BHXH các địa phương không thanh toán bảo hiểm y tế (BHYT) cho 7 loại thuốc trên. Hiện nay, BHXHVN tiếp tục chỉ đạo BHXH các tỉnh, thành kiểm tra để báo cáo số lượng 7 loại thuốc của VN Pharma đã bị rút đăng ký sử dụng tại các BV ra sao? BHXHVN cũng yêu cầu xuất toán nếu như đã thanh toán.                           THUỲ LINH
LỆ HÀ - LINH ANH

7 loại thuốc do VN Pharma nhập khẩu từ “Công ty ma” đã lọt vào nhiều bệnh viện

08:23 29/08/2017
Những ngày qua, dư luận rất “nóng” trước vụ án Công ty CP VN Pharma nhập lậu một lượng lớn thuốc chữa ung thư H-Capita 500mg Caplet không rõ nguồn gốc.

Tuy nhiên, nhiều người quên rằng, ngoài số thuốc chữa ung thư bị Cục Quản lý Dược (Bộ Y tế) rút số đăng ký, còn có 7 loại thuốc khác đều của VN Pharma cũng bị Cục Quản lý Dược rút khỏi danh sách lưu hành tại Việt Nam từ ngày 19-9-2014. Đó là thuốc H2K Ciprofloxacin và H2K Levofloxacin dạng dung dịch tiêm truyền tĩnh mạch với các hàm lượng khác nhau.
Điều rất đáng lưu ý là, 7 loại thuốc này cũng đều do Công ty Helix Pharmaceuticals Inc (Canada) sản xuất và cũng bị rút đăng ký vì cung cấp hồ sơ dữ liệu thông tin của thuốc không đúng với thực tế sản phẩm.
Vấn đề đặt ra ở đây là, trong vụ án nhập lậu thuốc chữa ung thư H-Capita 500mg Caplet, cơ quan điều tra đã xác định ở địa chỉ 392 Wilson Ave, Toronto, Ontario Canada M3H1S9, Canada mà VN Pharma khai trong hồ sở gửi Cục Quản lý Dược là trụ sở của công ty sản xuất thuốc H-Capita, không hề có Công ty Helix Pharmaceuticals Inc.
Cơ quan Công an cũng đã xác định toàn bộ thuốc cũng như giấy tờ liên quan đều là giả
Khi Canada không có công ty dược nào là Helix Pharmaceuticals, mà cả 7 loại thuốc trên đều do “Công ty ma” này sản xuất thì rõ ràng các loại thuốc này khó có thể là thuốc thật.
Bệnh nhân có thể tử vong nếu sử dụng thuốc giả để điều trị bệnh.
Đáng lo ngại là, với những gì thể hiện trên hồ sơ kết quả trúng thầu của riêng năm 2013, thì chỉ một loại thuốc H2K Levofloxacin do Canada sản xuất đã trúng thầu ở nhiều bệnh viện (BV), trong đó, có 2 BV tuyến Trung ương mua với số lượng hơn một tỷ đồng mỗi BV, chưa kể các Sở Y tế và các BV địa phương khác.
Theo các chuyên gia, H2K Ciprofloxacin và H2K Levofloxacin là hai loại thuốc kháng sinh tổng hợp. Trong đó, H2K Ciprofloxacin được điều trị cho các bệnh nhiễm khuẩn nặng mà các thuốc kháng sinh thông thường không tác dụng, như viêm đường tiết niệu, viêm tuyến tiền liệt, viêm xương - tủy, các bệnh về đường ruột.
Còn H2K Levofloxacin được sử dụng trong điều trị cho các bệnh nhân viêm xoang cấp, viêm phế quản mãn, viêm phổi cộng đồng, viêm tuyến tiền liệt, nhiễm khuẩn đường tiết niệu, nhiễm khuẩn da, bệnh than…
Như vậy, có thể thấy cả 2 loại thuốc kháng sinh trên đều có vai trò rất quan trọng trong điều trị, đặc biệt là trong cấp cứu. Thế nhưng, nếu sử dụng phải thuốc giả, chắc chắn sẽ ảnh hưởng rất xấu đến kết quả điều trị. PGS.TS. Nguyễn Tiến Dũng – nguyên Trưởng Khoa Nhi của BV Bạch Mai cho biết, nếu điều trị bằng thuốc kháng sinh giả sẽ gây những hậu quả khôn lường.
Trước hết là bệnh sẽ không thể khỏi, còn nếu nồng độ thuốc thật không có hoặc có ít sẽ làm tăng việc kháng thuốc kháng sinh. Nếu trong thuốc giả mà có tá dược không đủ tiêu chuẩn có thể sẽ gây tác dụng phụ và nếu tỉ lệ dị ứng nhiều dễ dẫn đến tử vong cho bệnh nhân.
GS.TS. Trần Bình Giang-Giám đốc BV Việt Đức cũng cho hay, dùng phải kháng sinh giả trong điều trị là vô cùng nguy hiểm vì sẽ làm cho bệnh nặng hơn và có thể gây tử vong nhanh, nhất là trong những trường hợp bệnh nhân cấp cứu!
Theo Ths. Lê Ngọc Duy –Phó Khoa cấp cứu (BV Nhi Trung ương), sử dụng phải kháng sinh giả chắc chắn không có hiệu quả trong điều trị, bệnh sẽ không khỏi và nếu bệnh nghiêm trọng dễ dẫn đến tử vong.
Kháng sinh thường sử dụng trong điều trị các bệnh cấp tính, vì thế, sử dụng phải kháng sinh giả còn nguy hiểm hơn cả thuốc giả dùng trong điều trị ung thư. Vì có nhiều bệnh nhiễm trùng nặng cần dùng kháng sinh cấp cứu như nhiễm trùng huyết do não mô cầu, viêm màng não mủ do não mô cầu đều đòi hỏi thuốc phải có tác dụng ngay, mà lại là kháng sinh giả thì bệnh nhân sẽ tử vong.
Đồng quan điểm trên, PGS.TS Phạm Duy Hiển - nguyên Phó Giám đốc BV K cho biết, nếu bệnh viêm phổi mà dùng kháng sinh giả thì bệnh dù nhẹ cũng trở nên viêm nặng, thậm chí bệnh nhân có thể tử vong.
Với bệnh ung thư, nếu dùng thuốc giả thì một vài ngày chưa thấy rõ tác dụng, nhưng với kháng sinh chuyên dụng, chỉ cần dùng kháng sinh giả hai ngày là bệnh nhân có thể tử vong.
Đến nay, con số chính thức về số lượng các loại thuốc này của VN Pharma trúng thầu vào các BV kể từ khi VN Pharma được đăng ký nhập khẩu (năm 2010) chưa được công bố, để người dân có thể lường được sự nguy hại từ các loại thuốc do VN Pharma nhập khẩu ở mức độ nào.
Ngày 28-8, trao đổi với PV Báo CAND, ông Phạm Lương Sơn –Phó Tổng Giám đốc Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (BHXHVN) cho biết: Ngay khi Bộ Y tế rút đăng ký 7 loại thuốc của VN Pharma vào ngày 19-9-2014, BHXHVN đã chỉ đạo BHXH các địa phương không thanh toán bảo hiểm y tế (BHYT) cho 7 loại thuốc trên.
Ngày 28-8-2017, BHXHVN tiếp tục chỉ đạo BHXH các tỉnh, thành kiểm tra để báo cáo số lượng 7 loại thuốc của VN Pharma đã bị rút đăng ký sử dụng tại các BV ra sao và nếu đã thanh toán rồi thì phải xuất toán. Dự kiến trong tuần này, BHXHVN sẽ có con số đầy đủ về 7 loại thuốc trên sử dụng cho bệnh nhân BHYT ở các BV.
7 loại thuốc do Helix Pharmaceuticals sản xuất và được VN Pharma nhập khẩu đã bị rút đăng ký gồm: H2K Cirprofloxacin 200 (hoạt chất Ciprofloxacin 200 mg/100ml); H2K Cirprofloxacin 400 (hoạt chất Cirprofloxacin 400mg/200ml); H2K Levofloxacin 250 (hoạt chất 250mg/100ml); H2K Levofloxacin 500 (Levofloxacin 500mg/100ml); H2K Levofloxacin 75 (hoạt chất Levofloxacin 750mg/100ml); H-Cipox 200 (hoạt chất Cirprofloxacin 200mg/100ml) và H-Levo 500 (hoạt chất Levofloxacin 500mg/100ml).
Sau khi Bộ Y tế rút đăng ký 7 loại thuốc của VN Pharma, Sở Y tế TP. Hồ Chí Minh cũng rút 2 mặt hàng thuốc của Công ty CP VN Pharma đã trúng thầu tại Sở từ tháng 5-2014, do chỉ có giấy phép nhập chuyến, không được phép tham gia đấu thầu.
Đó là thuốc BIPANDO (trúng thầu gần 1,5 triệu viên với giá gần 10 tỷ đồng) và thuốc PEPTAN 40mg dạng tiêm truyền do Liên doanh Công ty TNHH MTV Dược Nam Anh (đơn vị thành viên của VN Pharma) và Công ty CP Dược phẩm Trung ương I trúng thầu gần 182.000 lọ với giá gần 6 tỷ đồng.
Thanh Hằng
http://cand.com.vn/y-te/7-loai-thuoc-do-VN-Pharma-nhap-khau-tu-Cong-ty-ma-da-lot-vao-nhieu-benh-vien-455851/

LÝ NHẬT QUANG UY MINH VƯƠNG: BỊ ĐẦU ĐỘC HAY NHẢY XUỐNG SÔNG LAM TUẪN TIẾT DO THÚC ÉP CỦA TRIỀU ĐÌNH LÝ ? ( Phần 1)

Bài học lịch sử: Uy minh vương Lý Nhật Quang

Bài di blog Nguyễn Hữu Quý giữ hộ.


UY MINH VƯƠNG LÝ NHẬT QUANG


 

Tượng Uy Minh Vương Lý Nhật Quang độc bản thờ tại Đền Quả Sơn-Đô Lương...
( Ảnh: P.V.Đ )

Uy Minh Vương tuẫn tiết cho lý tưởng vương đạo, thân dân được sống còn !
Phạm Viết Đào.

-Bài học lịch sử thứ nhất rút ra từ cái chết của Uy Minh Vương đó là: 
Không phải cứ có tài, có tâm, yêu nước thương dân thì nghiễm nhiên có chỗ đứng, trở thành rường cột, lương đống của hết thảy các thể chế chính trị, triều đại; Lý Nhật Quang không là ngoại lệ, sau Vương còn có Lê Văn Thịnh, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Trãi và rất nhiều người khác... 

-Bài học lịch sử thứ 2 đó là: 
Được lòng dân là được tất cả; mất lòng dân là mất tất cả! Âu đó cũng là một trong những nét đặc thù của nền chính trị châu Á cổ xưa!
“Thương dân dân lập đền thờ; Hại dân dân đái sụp mồ, thấu xương...” câu này tương truyền xuất hiện ở Nghệ An sau khi Lý Nhật Quang mất. Câu ca vừa nói lên tấm lòng của người dân xứ Nghệ đối với Lý Nhật Quang, vừa tỏ sự răn đe với các thế lực chính trị ác bá; Câu ca còn nói lên sự sòng phẳng đến cực đoan trong ứng xử của con người ở miền đất này…


Đền Quả Sơn, nơi thờ Lý Nhật Quang...(Ảnh: P.V.Đ)
Lý Nhật Quang là hoàng tử thứ tám của Lý Công Uẩn, em của Lý Phật Mã tức Lý Thái Tông, ông được cử làm tri châu Nghệ An vào năm 1041, ông là người có công lớn trong việc xây dựng, củng cố biến Nghệ An từ vùng đất nhà Lý xếp vào diện “ trại”, trở thành trọng trấn, thành luỹ kiên cố về kinh tế, an ninh quốc phòng và lòng dân không chỉ của riêng triều Lý và nhiều triều đại về sau. 
Lý Nhật Quang là người lựa chọn Bạch Đường (gần thị trấn Đô Lương ngày nay ) làm trung tâm hành chính, kinh tế và quân sự của Nghệ An, vùng biên viễn phía nam Đại Việt vào năm 1044. 
Theo sách Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX, Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành năm 1981 thì: phủ Bạch Đường gồm các thôn Nhân Trung, Phúc An, Nhân Bồi, Miêu Đường; đời Ngô thuộc quận Cửu Đức, thời Tiền Lê thuộc đất Hoan Đường. Địa danh Bạch Đường chính thức đi vào chính sử, đi vào huyền thoại, đi vào dân ca, trở thành một “linh địa” của xứ Nghệ kể từ năm 1044, khi Uy Minh Vương Lý Nhật Quang chọn mảnh đất này xây dựng thành trung tâm hành chính, kinh tế và quân sự phía nam của vùng biên viễn Đại Việt... 
Đến cuối thế kỷ XIX, để tránh tên huý của vua Đồng Khánh, Bạch Đường được đổi tên thành xã Bạch Ngọc. Năm 1953 xã Bạch Ngọc chia ra thành 3 xã Ngọc Sơn, Lam Sơn và Bồi Sơn; sở lỵ châu Nghệ An thời Lý được xây dựng trên núi Quả Sơn thuộc thôn Miếu Đường địa phận xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương hiện đang lưu giữ nhiều dấu tích và ngôi đền Quả Sơn thờ Lý Nhật Quang cùng với lễ hội được tổ chức hàng năm tồn tại gần ngàn năm nay...Đền Quả được coi là đệ nhị dang thiêng của xứ Nghệ: Nhất Cờn, nhì Quả, thứ ba Bạch Mã. 
Khi Lý Đạo Thành được cử về trị nhậm Nghệ An năm 1073, ông đã dâng sớ xin triều đình nhà Lý miễn tô thuế vùng Bạch Đường để chăm lo việc hương khói cho đền Quả. Đến đầu thế kỷ XX, ngôi đền tồn tại với 7 toà 40 gian mang phong cách kiến trúc Lý -Trần; ảnh toàn cảnh khu đền Quả hiện đang lưu giữ tại nhiều thư viện tại Pari. Một số học giả Pháp đã viết sách khảo cứu về đền Quả và sự nghiệp của Lý Nhật Quang. Tại ngôi đền hiện đang lưu giữ được pho tượng quý Lý Nhật Quang độc bản, nhiều hiện vật quý như thanh gươm báu bằng bạc và nhiều bức hoành phi câu đối. Đáng chú ý là đôi câu đối: 

Hiển hách thần linh hương khói miếu đền lưu vạn đại
Lừng danh tông tộc núi sông ghi nhớ đến ngàn năm...

Bạch Đường nằm trên tả ngạn sông Lam, cách biển đông khoảng 40 km là một vùng đất hiểm trở: giáp tây nam là sông Lam, giáp tây bắc là núi non trùng điệp liên thông với dãy Trường Sơn, giáp đông nam liên thông với vựa lúa Diễn Châu, Đô Lương, Yên Thành, Quỳnh Lưu, nối liền với những giải phù sa chạy dọc theo sông Lam... 
Đứng về phương diện quân sự, Bạch Đường nằm tại vị trí “tiến khả dĩ công, thoái khả dĩ thủ” do: tựa núi kề sông; thuận tiện cho việc giao thương buôn bán với các vùng miền khác để phát triển kinh tế. Đường thuỷ theo sông Lam có thể ra tới biển Đông và liên thông sang Lào; đường bộ từ Bạch Ngọc liên thông với Quỳnh Lưu, Yên Thành ra tới Thăng Long... Đặt lỵ sở ở Bạch Ngọc, Lý Nhật Quang vừa kiểm soát an ninh, quốc phòng cả vùng Hoan Châu; có thể khai thác cả một vùng đồng bằng rộng lớn để phát triển kinh tế, tích trữ lương thảo, khai thác lâm thổ sản... 
Từ thế kỷ XIII trở về trước, theo sử gia Phan Huy Chú, Hoan Châu là mảnh đất trọng yếu phía nam của Đại Việt, được mệnh danh là “thành đồng, ao nóng và là then khoá của các thời đại”... Hoan Châu hay Nghệ An châu, Nghệ An phủ lộ là địa danh chỉ miền đất từ Nghệ An đến đến hết địa phận Hà Tĩnh. 
Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì năm Thuận Thiên thứ 16 (1025), Lý Thái Tổ xuống chiếu “lập trại Định Phiên ở Nam Giới châu Hoan, cho Quản Giáp Lý Thái Giai làm trại chủ”. Nam Giới là Cửa Sót thuộc huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh; Đại Nam nhất thống chí chép:” Gọi là núi Nam Giới vì phía nam Cửa Sót giáp với Chiêm Thành”.
Thư tịch cổ thời nhà Đường đã mô tả về vị trí địa lý của Hoan Châu: Từ Hoan Châu đi về phía nam 2 ngày thì đến huyện An Viễn, châu Đường Lâm (Kỳ Anh, Hà Tĩnh, sông Cổ La (sông Ròn) sông Đàn Động (sông Gianh) của nước Hoàn Vương (tức Chiêm Thành), đi thêm 1 ngày nữa thì đến vùng đất của Lục Chân Lạp.
Nhiều vị trọng thần của các triều Lý, Trần, Lê được triều đình cử về trị nhậm, trấn thủ Nghệ An như Lý Đạo Thành, Lý Thường Kiệt (thời Lý); thời Trần có Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải (1266) Tĩnh quốc đại vương Trần Quốc Khang, anh trai Trần Quốc Tuấn (1270); Thái uý Trần Nhật Duật đã được cử vào trấn trị vùng biên viễn này. 
Về cuộc đời và sự nghiệp của Lý Nhật Quang, mặc dù chính sử chỉ ghi lại một vài dòng sơ sài nhưng bộ sử sống động nhất, chính thống nhất đó là lòng dân xứ Nghệ đối với Uy Minh Vương lúc nào cũng đầy đặn, tôn thờ Vương gần ngàn năm nay. Đền thờ Lý Nhật Quang được lập tại 50 địa điểm khác nhau tại 3 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hoá. Lý Nhật Quang nằm trong số ít danh nhân được lập đền thờ chủ yếu nhờ vào công trạng phát triển kinh tế, đảm bảo anh sinh xã hội làm cho hưng vượng cả một vùng đất. 
Sau khi giành được thiên hạ từ tay nhà Tiền Lê, dời đô về Thăng Long, Lý Thái Tổ đã chia Đại Cồ Việt thành 24 lộ và 2 trại; vùng đất Hoan Châu được nhà Lý coi là trại. Đối với vùng rừng núi hẻo lánh, còn gọi là “ki mi” này, nhà Lý hoặc là cử trọng thần đến cai quản, hoặc dùng chính sách “nhu viễn” như: gả công chúa cho cả tù trưởng, thu nạp con gái các tù trưởng về làm phi tần, trao cho nhiều quyền tự quyết, tự chủ. 
Chính sách ngoại giao “hoa hậu”, phụ nữ can dự vào triều chính này có từ thời nhà Đinh, nhà Lý, sang cả thời Trần và nhà Lê... Đó là các trường hợp Thái hậu Dương Vân Nga (thời Đinh), Nguyên phi Ỷ Lan (thời Lý), An Tư công chúa (được đem gả cho Thoát Hoan), Huyền Trân Công chúa gả cho vua Chiêm (thời Trần) và Ngọc Hân công chúa thời Lê gả cho Quang Trung.
Bên cạnh Lý Nhật Quang, Lý Thái Tông còn cử thêm Đông Chinh Vương và Dục Thánh Vương, hai vị hoàng tử từng tham gia loạn Tam Vương nhưng đã được Lý Thái Tông tha tội chết, điều này cho thấy tính chất trọng yếu cả về quân sự lẫn kinh tế của Nghệ An... 
Theo sử sách thì năm 1038, Lý Nhật Quang được cử về đôn đốc việc thu thuế tại Nghệ An; do tính nghiêm cẩn và liêm trực, ông không tơ hào của dân, nên ông rất được nhân dân Hoan Châu mến mộ. 

                             Lễ hội Đền Quả Sơn năm 2009...( Ảnh Báo Nghệ An ) 

Năm 1041 Lý Nhật Quang được bổ nhiệm làm tri châu Nghệ An; cột mốc năm 1041 hiện được Nghệ An lấy đó làm ngày thành lập tỉnh cho thấy vai trò và ảnh hưởng của Vương. Năm 1044, sau khi đánh thắng Chiêm Thành trở về, để thưởng cho Lý Nhật Quang, người đã có công đóng góp, cung ứng quân lương cho chiến dịch quân sự thị uy này, Lý Thái Tông đã phong cho Lý Nhật Quang từ tước hầu lên tước Vương, ban cho ông Tiết Việt, Vương được tin cậy và uỷ thác, định đoạt mọi chuyện chính sự tại Nghệ An. 
Lý Nhật Quang trị nhậm Nghệ An trong bối cảnh nhà Lý chưa bình ổn cả về nội trị lẫn ngoại giao. Trong nội bộ nhà Lý đã xảy ra những cuộc đấu đá tranh giành quyền lực giữa các hoàng tử; nhiều vùng đất phiên trấn chưa chịu thần phục triều đình; nhiều cuộc phản loạn vẫn nổi lên đây đó. Trước khi Lý Nhật Quang về trị nhậm, riêng Nghệ An đã xảy ra 3 cuộc phản loạn vào các năm 1012, 1026, 1031; 2 lần Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông đã phải thân chinh đi đánh dẹp. Phía ngoài biên giới thì Chiêm Thành phía nam đã liên minh với nhà Tống phía bắc, thỉnh thoảng cho quân vào cướp phá Đại Việt. 
Sử sách còn ghi lại việc Ngô Nhật Khánh, phò mã của Ngô Vương Quyền, là một trong 12 sứ quân xây dựng căn cứ ở Đường Lâm nổi lên tranh giành với Đinh Bộ Lĩnh, sau khi bị thất bại, Nhật Khánh đã bí mật bắt tay với Chiêm Thành, với hy vọng mượn thế lực ngoại bang để tranh đoạt quyền lực. 
Mặc dù trước đó Đinh Bộ Lĩnh đã có nhiều biện pháp mềm dẻo như: lấy mẹ của Nhật Khánh và lập làm hoàng hậu; gả con gái cho Nhật Khánh; lấy em gái của Nhật Khánh cho con trai trưởng là Đinh Liễn, nhưng Nhật Khánh vẫn không chịu thần phục. Đại Việt sử ký toàn thư chép chuyện khi đưa vợ con đến Cửa Sót giáp giới với Chiêm Thành, Nhật Khánh đã lấy gươm xẻo má vợ là con gái Đinh Bộ Lĩnh và kể tội: “Cha mày lừa dối và hiếp tróc mẹ con ta, ta há lại vì mày mà quên tội của cha mày ư? Mày đi về để ta đi đằng khác để tìm người cứu ta”. 
Năm 979 lợi dụng Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị giết, Đinh Toàn nối ngôi còn nhỏ, Ngô Nhật Khánh cùng với 1000 chiến thuyền quân Chiêm đánh ra Hoa Lư. Rất may đội quân của Ngô Nhật Khánh đã bị gió bão đánh chìm. 
Khi được giao trị nhậm Nghệ An, Lý Nhật Quang đã trổ tài kinh bang tế thế: dùng uy để lập chế ngự, dùng ân để vỗ yên... Vương đã dùng chính sách khoan giản và an lạc: chính quyền thì khoan dung, giản dị và gần gũi dân, sửa đổi và minh bạch các chế độ tô thuế, lấy việc dân được no ấm, yên vui, hạnh phúc làm gốc của việc cai trị. 
Để phát triển kinh tế, Vương cho chiêu dụ dân lưu tán từ các vùng đất khác về khai khẩn đất hoang, lập ra nhiều làng ấp mới; Vương còn tiếp nhận tù binh Chiêm Thành lập nên nhiều làng ấp mới tại Tương Dương, Con Cuông để họ được sinh sống bình thường... 
Dưới thời Lý Nhật Quang trị nhậm, Nghệ An đã thu về thêm 5 châu, 22 trại, 56 sách. Theo Việt điện u linh do Lý Tế Xuyên viết dưới thời Trần, Nghệ An đã thành lập được 6 huyện, 4 trường, 60 giáp với 46.450 hộ, 54.364 đinh (được tính từ 18 tuổi trở lên). Lý Nhật Quang đã tiến hành hàng loạt những biện pháp khuyến nông như dạy cho dân mở mang nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, mở rộng chăn nuôi, phát triển nhiều ngành nghề thủ công; cho xây dựng nhiều công trình thuỷ lợi, khơi thông luồng lạch để tiện cho việc giao thông, buôn bán đường thuỷ. 
Lý Nhật Quang còn cho mở ra nhiều đường bộ giao thương đi đến nhiều vùng. Tương truyền, Lý Nhật Quang đã cho mở đường đến Đèo Ngang, ra châu Ái, ra Quỳnh Lưu, Quế Phong, Con Cuông, Yên Thành, sang tới biên giới Việt Lào. Con đường thượng đạo nối từ Đô Lương ra tới Thăng Long được xây dựng từ thời Lý Nhật Quang, nhiều đoạn trùng với đường Hồ Chí Minh thời chiến tranh chống Mỹ... Lý Nhật Quang còn cho phát triển các ngành nghề liên quan tới quốc phòng như khai mỏ, luyện kim, rèn sắt, đóng thuyền. Các làng nghề rèn ở Nho Lâm (Diễn Châu), Trung Lương, Văn Chàng (Đức Thọ) có từ thời Lý Nhật Quang, trong thời bình thì sản xuất nông cụ, chiến tranh thì sản xuất vũ khí...
Bên cạnh việc phát triển kinh tế, Lý Nhật Quang còn cho mở nhiều trường dạy học, đã có 18 người đỗ đại khoa trong thời kỳ Lý Nhật Quang làm tri châu tại Nghệ An, trong đó có 4 trạng nguyên, 3 thám hoa, 2 hoàng giáp, 5 tiến sĩ, 4 phó bảng... 
Cùng với sự nghiệp giáo dục, Lý Nhật Quang còn chăm lo phát triển văn hoá, cho xây dựng nhiều đền chùa; tại Bạch Đường, Lý Nhật Quang đã cho xây dựng 8 ngôi chùa, Chùa Bà Bụt, chùa Nhân Bồi được xây dựng từ thời Lý Nhật Quang được hương khói tới ngày nay. 
Tại xã Nhân Bồi hiện còn dấu tích của những nơi diễn trò hát xướng. Nhiều câu ví dặm lưu truyền đến ngày nay được cho là có từ những gánh hát dưới thời Lý Nhật Quang; những câu ví đò đưa, phường vải đã cho thấy sự sôi động của các hoạt động kinh tế văn hoá tại Nghệ An thời đó: 
Muốn ăn khoai sọ chấm đường
Xuống đây mà ngược đò Lường cùng anh
Đò Lường bến nước trong xanh
Gạo ngon lụa tốt bến thành ngược xuôi...
hoặc:
Đô Lương dệt gấm, thêu hoa
Quỳnh Đôi tơ lụa, thủ khoa ba đời
...Tiên Hồ, Tiên Xá bứt lá nung vôi
Phú Ninh nấu rượu, Quỳnh Côi đan bồ...
Về quân sự, Lý Nhật Quang xây dựng đội quân nghiêm thắng, “ngụ binh ư nông”, lúc cần thì tham gia chiến đấu, bảo vệ trật tự an ninh quốc gia, bảo vệ bờ cõi. Căn cứ thuỷ quân ở Lạch Cờn, Quỳnh Lưu do Lý Nhật Quang xây dựng đã có vai trò canh giữ cả một miền biển rộng lớn, ngăn chặn các cuộc xâm lấn của quân Chiêm Thành. Bên cạnh đội quân chủ lực, Lý Nhật Quang còn xây dựng các đội dân binh để bảo vệ trật tự trị an từ cơ sở làng xã. Dưới thời Lý Nhật Quang, triều đình không phải đưa quân trung ương vào đồn trú, lực lượng tại chỗ đủ sức đảm bảo xây dựng Nghệ An thành “thành đồng vách sắt”…
Dưới đường lối chính trị vương đạo, thân dân, Lý Nhật Quang đã tạo dựng nên bước ngoặt về chính trị, kinh tế, văn hoá, an ninh quốc phòng tại vùng đất Nghệ An. Vương đã dần cảm hoá, quy phục mọi tầng lớp nhân dân làm cho vùng đất phức tạp về dân cư, hiểm trở về địa hình địa mạo trở nên thuần hậu thống nhất, trù phú về kinh tế, lòng dân hoan lạc, yên vui. Từ mảnh đất phên dậu, dân chúng xưa nay nổi tiếng về sự ương ngược, ít khi chịu thần phục ai, Nghệ An trở thành căn cứ then chốt, một pháo đài kiên cố cả về quân sự, kinh tế và chỗ dựa về lòng người không chỉ đối với nhà Lý mà cả các triều đại Trần, Lê sau này. 
Suốt 19 năm Lý Nhật Quang trị nhậm Nghệ An, quân Chiêm không những không gây hấn mà còn sang triều cống đều đặn; khi Lý Nhật Quang qua đời, vua Chiêm đã cho lập đền thờ ở núi Tam Toà, cửa biển Thị Nại, Bình Định. 
Việt điện u linh kể lại việc xây dựng doanh trại ở trại Bà Hoà ( nam Thanh Hóa ), trại “đất rộng có thể chứa được ba, bốn vạn quân, kho tàng tiền lương đủ dùng trong ba năm. Ngoài ra ông đã đốc thúc nhân dân xây dựng thêm 50 kho thóc để sẵn sàng cung ứng cho nhu cầu quốc phòng.” Nghệ An từ vùng đất ki mi, dưới thời Lý Nhật Quang đã có nhiều đóng góp về sức người, sức của cho “ngân sách” trung ương. 
Đường lối chính trị vương đạo: dựa vào lòng dân, khoan sức dân, biết hướng cho dân vào con đường làm ăn lương thiện, đề ra được nhiều chính sách, biện pháp thiết thực có lợi cho dân, quan tâm chia sẻ đến mọi lợi ích của nhân dân là cơ sở để Lý Nhật Quang đi được vào lòng người dân xứ Nghệ: Thương dân dân lập đền thờ; Hại dân dân đái sụp mồ, thấu xương... câu này tương truyền xuất hiện ở Nghệ An sau khi Lý Nhật Quang mất. Câu ca vừa nói lên tấm lòng của người dân xứ Nghệ đối với Lý Nhật Quang, vừa tỏ sự răn đe với các thế lực chính trị ác bá; Câu ca còn nói lên sự sòng phẳng đến cực đoan trong ứng xử của con người ở miền đất này: Được làm vua, thua làm giặc; Đã thương thì thương cho chắc, đã trục trặc thì trục trặc cho rồi...
Vào thời Trần khi rút chạy khỏi Thăng Long, trước thế mạnh của giặc, có người khuyên nên hoà, Trần Nhân Tông đã lấy nước viết vào đuôi thuyền câu thơ: Cối Kê chuyện cũ ngươi nên nhớ; Hoan Diễn đang tồn thập vạn binh... Câu thơ giống như một đòn bẩy xốc lại tinh thần quyết chiến của quan quân nhà Trần... Lê Lợi sau 8 năm khởi nghĩa tại đất Thanh Hoá không tiến triển, quay về Nghệ An dựa vào sức người sức của ở đây, chỉ một năm sau phản công ra tận Thăng Long...
Thần tích đền Quả Sơn nơi thờ chính Lý Nhật Quang ở Đô Lương- Nghệ An ghi: “Ngài ở châu 19 năm trừng trị bọn gian, khen thưởng người lương thiện, tổ chức khai khẩn đất hoang, chiêu mộ dân lưu tán để xây dựng lập thôn ấp mới... Thời Lý Nhật Quang trị nhậm, bọn vô lại im hơi, người dân về với Vương được yên ổn làm ăn. Ngài thường xuyên qua lại các vùng dạy cho dân cày cấy làm ăn, làm ruộng, chăn tằm, trồng cây cối, nuôi gia súc. Ngài đã cho thi hành nhiều chính sách có lợi cho dân, làm cho dân đoàn kết. Khi trong dân chúng xảy ra chuyện kiện tụng thì Ngài lấy liêm sỉ lễ nghĩa ra để giảng giải, giáo hoá để họ giác ngộ, không còn đi kiện tụng, yên ổn làm ăn...”
Về cái chết của Lý Nhật Quang chính sử ghi lại hết sức mơ hồ và sơ sài. Sách An Nam chí lược do Lê Tắc viết thời Trần ghi, Ngài theo Lý Thánh Tôn đánh dẹp Chiêm Thành quay về tới Bố Chính thì mất. Việt điện u linh ghi: Đêm Vương đang ngồi trong nhà thấy con quạ bay vào trong nhà 3 vòng sau đó sà vào lòng Vương và biến thành tờ giấy trắng. Đêm đó đi ngủ nằm mơ thấy sao Vũ Khúc trên trời đến mời Vương về trời làm quan, cũng ngay đêm đó vương đi nằm, không bệnh mà chết. 
Tại Nghệ An trong dân gian hiện đang lưu truyền nhiều truyền thuyết nhuốm màu huyền thoại về cái chết của Lý Nhật Quang bởi Vương là người “sinh vi lương tướng tử vi thần”. Thần phả đền Quả Sơn ghi: sau khi đi đánh giặc Ông Kiệt, Lý Cát trở về, Ngài bị giải chức và có chiếu chỉ mời Vương về kinh”. Khi nghe tin ngài giải chức, nhân dân trong châu vịn vào cương ngựa mà khóc như cha mẹ mất, xin ngài ở lại chăn dắt muôn dân”. Vương phân vân, đêm ngủ mơ gặp bà hành khất khuyên không nên đi, sáng tỉnh dậy đi dạo ra đường Vương gặp đúng bà hành khất mơ đêm qua, bà nói với Vương: Bất thượng kinh, thượng kinh tất tử... 
Có truyền thuyết sau khi đánh giặc trở về đền hữu ngạn sông Lam, lúc qua sông không may ngài bị chết đuối; Vương bị chết đuối hay Vương tự trẫm mình xuống sông Lam? Bà Bụt giang tay vớt xác ông lên nên sau này, hai năm một lần mỗi khi ở đền Quả mở lễ hội vào tháng giêng bao giờ cũng có lễ trả ơn Bà Bụt: “Hai năm rước ngược, hăm mốt rước xuôi, lệ nhất định rồi 3 năm 2 khoá”, lễ tổ chức đoàn thuyền rước trên sông Lam... Truyền thuyết khác kể đánh giặc Lão Qua trở về, trên đường hồi kinh Lý Nhật Quang bị đánh thuốc độc chết... 
Thần phả ghi: Lý Nhật Quang mất vào ngày 17 tháng 8 năm 1057. Gạt bỏ lớp mây mù huyền thoại, chúng ta chắc chắn rằng: cái chết của Uy Minh Vương Lý Nhật Quang là cái chết không bình thường; sự thương cảm của nhân dân và nhiều nơi lập đền thờ là một minh chứng. Vậy Lý Nhật Quang bị triều đình bức tử, tự ông tìm đến cái chết hay ông chết do bị stress về chính trị? 
Sử sách không ghi Lý Nhật Quang sinh năm nào, nhưng nếu ông là hoàng tử thứ 8 thì ông phải sinh vào quãng 1010, như vậy ông mất chưa đến tuổi năm mươi... Theo chúng tôi ít có khả năng ông bị triều đình thủ tiêu vì Lý Thánh Tông lên ngôi vào năm 1054, vị vua này sinh năm 1023, đã ngoài ba mươi tuổi, là lứa tuổi có khả năng làm chủ bản thân; theo sử sách Lý Thánh Tông là một đấng minh quân, một ông vua nhân đức, biết thương dân. Nhiều khả năng Lý Nhật Quang tự tuẫn tiết, Vương đã gieo mình xuống sông Lam, do đó mới dẫn tới việc hàng năm nhân dân Bạch Ngọc, Đô Lương thường tổ chức lễ hội chèo thuyền trên sông Lam để đưa rước vong linh của Vương; người Việt thường có phong tục thờ cúng người quá cố ngay vị trí mà người đó qua đời... 
Việc Lý Nhật Quang cho quân đánh dẹp giặc Ông Bĩ, Ông Kiệt trước khi nhận được lệnh của Lý Thánh Tông, là việc cần thiết xét về mặt quân sự, nếu chậm có thể sẽ gây hậu quả khó lường. Lý Nhật Quang được trao quyền Tiết Việt, được toàn quyền định đoạt chính sự do vua đời trước là Lý Thái Tông trao. Thế tại sao Vương lại bị Lý Thánh Tông về dòng tộc là cháu quở phạt, giải chức, cho triệu hồi về kinh. Nếu Lý Nhật Quang tuân chỉ thì không thể không bẽ bàng trước việc mình bị xử phạt oan mặc dù không phạm luật; nếu không chịu hồi kinh, ở lại thì sẽ bị quy vào tội bất trung, bất tuân.

Phần mộ của Uy Minh Vương Lý Nhật Quang ở phía sau Đền Quả Sơn...
                                                       ( Ảnh P.V.Đ )
Dưới thời Lý, hàng năm vẫn tổ chức hội thề ở đền Đồng Cổ trên đường Thuỵ Khuê, Hà Nội với nội dung:Làm con bất hiếu, làm tôi bất trung thì thần linh tru diệt. Việc làm này của Lý Thánh Tông đã đẩy Lý Nhật Quang vào tình thế: không còn sự lựa chọn nào vẻ vang hơn là cái chết. Bị xúc xiểm hay do bị hiểu nhầm, do bởi sự cẩu thả nào đó trong ứng xử: Vương ở xa, bận việc chưa kịp về vấn an “ông cháu” bây giờ là hoàng thượng, bề trên của mình vừa lên ngôi (Lý Thánh Tông lên ngôi 1054), nên bị dèm là “khi quân phạm thượng”
Hay cái chết của Vương là do sai lầm của Lý Thánh Tông, do tình thế lịch sử nào đó đã xô đẩy Lý Thánh Tông buộc phải sử dụng nước cờ “thí tướng”? 
Theo chúng tôi, việc luân chuyển Lý Nhật Quang nằm trong tính toán chính trị của Lý Thánh Tông; có lẽ Lý Thánh Tông không muốn một trọng thần nào bắt rễ quá sâu vào một vùng đất, Lý Nhật Quang đã ở Nghệ An 19 năm; mặt khác không một ông vua nào muốn tồn tại những trọng thần mà uy minh lấn át cả vua. 
Lý Thánh Tông không thể không e ngại khi dưới trướng của Lý Nhật Quang còn đó 2 ông chú, những người đang mang theo mình “tiền án” của việc tham gia vụ “loạn tam vương” năm xưa. Bất kỳ ông vua nào lên nắm giữ ngai vàng, việc đầu tiên cũng nghĩ đến: củng cố quyền lực, khẳng định quyền uy tối thượng, nếu không sẽ bị bật bãi. Không loại trừ khả năng Vương bị dám quần thần vô công rồi nghề dèm pha, xúc xiểm giống như Nguyễn Trãi sau này... 
Cái chết của Lý Nhật Quang, theo chúng tôi: không phải là một hành vi phản kháng tiêu cực vì danh phận chính trị bị tổn thương; Sự tuẫn tiết của Lý Nhật Quang là sự kích hoạt thái độ chính trị của dân Nghệ…Như vậy sự tuẫn tiết của Uy Minh Vương là sự chiến đấu, hy sinh nhằm bảo vệ cho một lý tưởng chính trị cao cả được sống còn. Chúng ta không tin một con người như Uy Minh Vương Lý Nhật Quang lại tự huỷ hoại bản thân vì những tự ái vặt?! 
Lý Nhật Quang muốn quy tụ lòng thương xót của người dân xứ Nghệ đối với bản thân ông, để dựng thành một bức “tường lửa” bảo vệ đường lối chính trị mà ông đã thiết lập, chống lại căn bệnh “ung thư” chính trị: tân quan tân chính sách. Triều đình có thể phủ quyết Lý Nhật Quang nhưng không thể phủ quyết lý tưởng vương đạo, thân dân của ông. Việc nhân dân Nghệ An lập đền thờ Vương nhiều nơi là một cách tỏ thái độ với triều đình trung ương: sát cánh và trung thành với lý tưởng chính trị của Vương. Cái chết của Vương là cái chết gieo mầm cho sự sống, một cái chết hoá thành bất tử! Do đó sau này Lý Đạo Thành về trị nhậm, tỏ thái độ e dè với dân xứ Nghệ cũng xuất phát từ cơ sở của đó... 
( Ảnh: Báo Nghệ An )

P.V.Đ