Thứ Tư, 1 tháng 11, 2017

Hạm đội Nam Hải 'cực kỳ nguy hiểm' cho VN

Nguyễn Xuân Vĩnh

Quân TQBản quyền hình ảnhVCG
Image captionBiệt kích Trung Quốc 'sẵn sàng chiến đấu' trong sứ vụ của chiến hạm tại vùng biển Đông Phi
Sau những diễn biến sôi nổi trong năm 2015, sự căng thẳng ở Biển Đông có vẻ giảm đi từ 2016 đến nay.
Trung Quốc có vẻ bớt những hành động khiêu khích mới cũng như không xây thêm đảo nhân tạo.
Tình hình bắt đầu yên ổn lại và Trung Quốc sẽ từ bỏ tham vọng làm chủ Biển Đông sau khi thất bại tại Tòa án Quốc tế về luật biển của Liên Hiệp Quốc chăng?
Có lẽ là không. Mục tiêu chiến lược của Trung Quốc vẫn không thay đổi. Đó là nắm quyền kiểm soát trên vùng biển trong phạm vi của cái mà Trung Quốc gọi là chuổi đảo thứ nhất từ Nhật Bản qua Đài Loan đến tận Mã Lai.
Vùng biển này không những là nguồn kinh tế quan trọng cho Trung Quốc, kiểm soát vùng biển đó sẽ giúp nước này tạo ưu thế đối với Nhật Bản và Đại Hàn, và nhất là tăng áp lực lên Đài Loan.
Biện pháp hổ trợ cho mục tiêu này là tăng cường lực lượng hải quân để có thể đối đầu với hải quân Hoa Kỳ ở miền Tây Thái Bình Dương và để đủ khả năng thống nhất với Đài Loan bằng vũ lực, nếu cần thiết.
Kiểm soát vùng Biển Đông cũng là điều kiện căn bản cho quân đội Trung Quốc để triển khai áp lực quân sự vào Ấn Độ Dương trong tương lai.
Vì thế nên Trung Quốc vẫn tiếp tục quân sự hóa các đảo tại Hoàng Sa và Trường Sa. Các công trình đã bắt đầu trên các đảo đã được mở rộng. Đầu năm 2016, trên sáu đảo nhân tạo tại quần đảo Trường Sa những cơ sở mang tính cách quân sự đã hình thành rỏ rệt.
Trên hai đảo được mở rộng là Đá Vành Khăn (Mischief Reef) và Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) đã có hai phi đạo dài khoảng 3 km, đủ để máy bay chiến đấu sử dụng, và theo tin tức thì máy bay chiến đấu của không quân Trung Quốc cũng đã đáp thử ở đây rồi.
Đá Lát trong bức hình chụp qua vệ tinh ngày 30/11/2016Bản quyền hình ảnhPLANET LABS
Image captionHình chụp qua vệ tinh ngày 30/11/2016 cho thấy Việt Nam 'cải tạo Đá Lát' ở Trường Sa
Đồng thời vào tháng Hai 2016 Trung Quốc đã bắt đầu gắn hệ thống hỏa tiễn phòng không tầm xa HQ-9 trên đảo Phú Lâm (Woody Island) tại quần đảo Hoàng Sa. Nơi này cũng có một phi đạo. Cũng theo giới tình báo quân sự Tây Phương thì các chiến đấu cơ tối tân loại J-11 đã được đóng dài hạn trên đảo này.
Song song với việc xây cất trên các đảo, sự tăng cường sức lực quân sự của Trung Quốc vẫn tiếp tục với một vận tốc đáng ngại.
Tháng Tư năm nay giới lãnh đạo Trung Quốc đã hãnh diện ra mắt thế giới chiếc hàng không mẫu hạm thứ hai của hải quân nước này. Chiếc tàu thuộc hạng Type 001A với tên Sơn Đông là chiếc mẫu hạng đầu tiên do Trung Quốc hoàn toàn tự đóng.
Giống như chiếc Liêu Ninh, mẫu hạm đầu tiên của Trung Quốc đã được đóng trên cái sườn cũ của chiếc mẫu hạm Varyag của Nga, chiếc Sơn Đông hoạt động trên nguyên tắc STOBAR (Short Take-Off But Arrested Recovery), tức là các máy bay cất cánh trên một bàn nhảy và khi đáp lại trên tàu thì dùng dây móc để thắng lại.
Đây là phương pháp hoạt động khác các siêu hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ và Pháp. Thuyền sân bay của các quốc gia này thuộc vào loại CATOBAR (Catapult Take-Off But Arrested Recovery). Các máy bay được bắn đi bằng một hệ thống phóng khi cất cánh và khi đáp thì dùng dây móc.
Ưu điểm của hệ thống CATOBAR là các chiến đấu cơ có thể cất cánh với một trọng tải cao hơn, do đó có thể mang nhiều nguyên liệu cũng như vũ khí hơn là khi cất cánh từ một mẫu hạm STOBAR.
Chiếc mẫu hạm mới của Trung Quốc chưa đủ khả năng để đối đầu với các siêu mẫu hạm của Hoa Kỳ.
Nhưng với nó Trung Quốc đã vượt mặt nước Nga với chiếc Admiral Kuznetzov cũ kỷ và hay hư hỏng.
Hạm đội Nam HảiBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionHạm đội Nam Hải đón nhận tàu khu trục Type 052D tới căn cứ Tam Á
Chiếc Sơn Đông cũng chỉ là một bước nữa trên hành trình để hải quân Trung Quốc gia nhập câu lạc bộ của các cường quốc có siêu mẫu hạm. Cùng lúc khi chiếc Sơn Đông được ra mắt thiên hạ, hải quân Trung Quốc cũng tuyên bố là đã bắt đầu việc thiết kế một chiếc mẫu hạm thứ ba với số hạng là 002.
Chiếc mẫu hạm này chắc sẽ giống các hàng không mẫu hạm của các cường quốc Tây phương nhiều hơn.
Nỗ lực của Trung Quốc trên lãnh vực thiết kế tàu sân bay là tiêu biểu cho sự cố gắng của quốc gia này để tạo ra một lực lượng hải quân có thể đối đầu với hạm đội Thái Bình Dương của hải quân Hoa Kỳ.
Trong những năm qua hải quân Trung Quốc đã nhập quân hàng loạt những chiến hạm mới tối tân với một nhịp nhanh chóng đáng ngại.
Từ năm 2013 hải quân Trung Quốc đã nhận được 40 chiếc hộ tống hạm hạng 056 Jiangdao.
Những chiếc tàu này được trang bị với súng đại bác 76 ly, hệ thống hỏa tiễn phòng không tầm gần FL-3000N cũng như hỏa tiễn đối hạm. Những hộ tống hạm này được xem như tương đương với hộ tống hạm hạng Gepard (Project 11660) của Việt Nam.

Chênh lệch cán cân lực lượng quá lớn

Như thế trung bình cứ mỗi hai tháng hải quân Trung Quốc đã tăng thêm một hộ tống hạm mới. Trong khi đó Việt Nam đặt bốn chiếc Gepard từ năm 2011 nhưng đến bây giờ vẫn chỉ có vỏn vẹn hai chiếc Đinh Tiên Hoàng và Lý Thái Tổ.
Từ 2015 đến nay hải quân Trung Quốc còn được thêm 13 chiếc khu trục hạm hạng 052D Luyang. Đấy là những chiến hạm được trang bị với hệ thống radar và hỏa tiễn giống như hệ thống AEGIS của các chiến hạm hạng Arleigh Burke của Hoa Kỳ, hiện là loại khu trục hạm hùng mạnh nhất thế giới. Số khu trục hạm vậy cũng tăng với tỉ lệ khoảng ba tháng một chiếc.
Ngoài đó, tháng Sáu năm nay hải quân Trung Quốc đã hạ thủy một loại chiến hạm mới còn to lớn và mạnh hơn hạng 052D nữa. Đó là một chiến hạm thuộc hạng 055 Renhai.
Với chiều dài là 180 m, trọng lượng nước rẽ hơn 10.000 t và 128 ngăn chứa hỏa tiễn, lớp chiến hạm mới này tương đương với các tuần dương hạm hạng Ticonderoga của Hoa Kỳ. Chiến hạm hạng 055 có lẽ được thiết kế để hộ tống các hàng không mẫu hạm trong tương lai.
Ngoài sự gia tăng số lượng và năng lực của các lực lượng chiến đấu trên biển, một phát triển khác ít được chú ý đến nhưng cũng không ít đáng ngại cũng đã xảy ra từ năm 2011.
Đó là sự tăng cường của lực lượng thủy quân lục chiến. Bộ Quốc phòng Trung Quốc đã tuyên bố trong tháng 11 năm 2016 là sẽ gia tăng lực lượng Thủy quân lục chiến từ hiện nay khoảng 20.000 quân lên đến 100.000 quân.
Tháng Bảy năm 2017 Trung Quốc đã chính thức khai trương căn cứ quân sự đầu tiên cách xa lãnh thổ nước này tại Djibouti. Một lực lượng thủy quân lục chiến Trung Quốc đã được vận chuyển đến Djibouti trên một tàu đổ bộ hạng 071.
Đó là một quân hạm với sân đáp trực thăng và cảng chở thuyền đổ bộ và xe thiết giáp trong khoang. Những tàu hạng 071 có khả năng vận chuyển và yểm trợ một lực lượng thủy quân lục chiến cấp tiểu đoàn để đổ bộ lên bất cứ bờ biển nào. Hải quân Trung Quốc hiện đang có 4 chiếc tàu loại này và sẽ nhận được nhiều hơn.
Hải quân của Trung Quốc được chia ra ba hạm đội, đó là hạm đội Bắc Hải, hạm đội Đông Hải và hạm đội Nam Hải. Hạm đội Nam Hải là lực lượng kiểm soát vùng Biển Đông, và là đối thủ trực tiếp của hải quân Việt Nam trong những cuộc xung đột trong quá khứ và tương lai.
Lực lượng tác chiến trên mặt nước của hạm đội này bao gồm chiếc hàng không mẫu hạm Liêu Ninh, ít nhất là 9 khu trục hạm, 30 hộ tống hạm và khoảng 40 tuần duyên hạm.
Hạm đội Nam Hải còn có khoảng 22 tàu ngầm, trong số đó là toàn bộ lực lượng tàu ngầm nguyên tử chiến lược của Trung Quốc với bốn chiếc hạng 094 Jin. Nỗ lực thiết lập và củng cố quyền kiểm soát trên Biển Đông cũng nhằm vào mục đích bảo vệ cho hoạt động của những tàu ngầm chiến lược này.
Tàu TQBản quyền hình ảnhTHE ASAHI SHIMBUN
Image captionTrung Quốc không chỉ dùng Hải quân mà còn cử các tàu tuần tra duyên hải đến vùng Trường Sa
Ngoài ra hiện nay hạm đội Nam Hải có ba chiếc tàu hạng 071 cũng như một số tàu chở quân khác.
Hạm đội Nam Hải là một lực lượng vô địch trên Biển Đông, và là một mối đe dọa cực kỳ nguy hiểm cho lãnh hải Việt Nam. Lực lượng hải vận của hạm đội này có thể đưa quân đánh chiếm bất cứ đảo nào tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Thậm chí có thể đổ bộ lên nhiều đảo cùng một lúc. Ý định tăng cường lực lượng thủy quân lục chiến và nổ lực đóng tàu chở quân là một dấu hiệu rỏ ràng cho xu hướng chiến lược của giới lãnh đạo Trung Quốc.
Trong hai năm qua Trung Quốc đã hoàn tất việc mở rộng, xây cất căn cứ quân sự trên các đảo Gạc Ma (Johnson South Reef), Chữ Thập, và sắp kết thúc các cấu trúc đảo nhân tạo trên các bãi san hô như Đá Tư Nghiã (Hughes Reef). Khoảng cách từ đây đến các đảo của Việt Nam thậm chí chỉ có 30 cây số.
Trung Quốc có thể dùng các đảo này làm căn cứ hậu cần và đem máy bay chiến đấu đến đây để yểm trợ cho các lực lượng hải quân đổ bộ lên các đảo Việt Nam.
Các đơn vị đóng trên các đảo của Việt Nam như Song Tử Tây (Southwest Cay), Sinh Tồn (Sin Cowe Island) và thậm chí Trường Sa chắc chắn sẽ không đủ quân số và hỏa lực để chống đối một lực lượng đổ bộ được yểm trợ bởi những tàu hạng 071, hàng không mẫu hạm Liêu Ninh cũng như chiến đấu cơ từ Đá Chữ Thập.

Trước những đe dọa đó, Việt Nam chuẩn bị gì?

Tin tức về những phát triển quân sự tại Việt Nam rất hiếm hoi. Nhưng những gì được biết qua những nguồn thông tin Tây Phương cho thấy là Quân đội nhân dân vẫn rất bị động.
Mặc dù tình thế địa hình trên vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày càng bất lợi, những biện pháp trang bị cho hải quân và không quân không có vẻ theo một kế hoạch chiến lược nhất định và tạo sự nghi ngờ là giới lãnh đạo Việt Nam chưa có một chính sách quân sự thích nghi với những thử thách trên Biển Đông.
Năm 2016, hải quân Việt Nam có hai chiếc hộ tống hạm hạng 11660 (biệt danh của Nato là Gepard) của Nga, sáu chiếc tàu ngầm hạng 877 (Kilo) và 12 tuần duyên hạm hạng 1241E Molnija (Tarantul).
Cơ sở của Trung Quốc trên Đá Chữ ThậpBản quyền hình ảnhCSIS/AMTI
Image captionCơ sở của Trung Quốc trên Đá Chữ Thập
Ngoài ra còn năm chiếc hộ tống hạm nhẹ và lỗi thời thuộc hạng Petya đã được xử dụng từ thập niên 70.
Hiện nay Việt Nam đang thương lượng mua thêm hai chiếc Gepard nữa. Cuối năm nay chiếc hộ tống hạm Gepard thứ ba với khả năng chuyên môn săn tàu ngầm sẽ đến Việt Nam.
Sau ba thập niên gần như không có một biện pháp tân trang nào cho quân đội, từ năm 2011 hải quân Việt Nam đã trải qua một cuộc tân tiến hóa đáng kể.
Nhưng lực lượng hải quân hiện nay có lẻ vẫn chưa đủ để duy trì một thế lực ngăn chận nước khác xâm nhập vùng kinh tế độc quyền và các đảo.
Bảo vệ các đảo là một mặt, nhưng không kém quan trọng là duy trì đường dây tiếp tế cho các đảo trong trường hợp có sự xung đột quân sự. Cho nhiệm vụ đó tàu ngầm và đặt biệt là chiến hạm lớn là dụng cụ thích hợp hơn các tuần duyên hạm hiện đông số nhất trong đội ngũ của hải quân Việt Nam.
Nhưng hải quân Việt Nam chỉ có hai chiếc chiến hạm lớn là hộ tống hạm Đinh Tiên Hoàng và Lý Thái Tổ. Tuy đã được đặt từ sáu năm trước nhưng lớp tàu chiến có năng lực nhất của hải quân Việt Nam có vẻ không được ưu tiên cho nên hai chiếc còn lại vẫn chưa được giao.
Thêm nữa thiết bị vận tải của hải quân Việt Nam để tiếp tế cho các đảo cũng rất giới hạn.
Hải quân Việt Nam hiện nay có khoảng 25 tàu quân vận. Trong đó có một số tàu cũ hạng LST của hải quân Việt Nam Cộng Hòa để lại, loại tàu này đã được sử dụng từ thế chiến thứ hai. Khả năng chở quân và hàng hóa eo hẹp, lực lượng tác chiến cũng giới hạn, như thế, đường dây tiếp tế cho các đảo sẽ rất dễ bị Trung Quốc cắt đứt, nhất là nếu có máy bay chiến đấu hoạt động từ các đảo Chữ Thập và Vành Khăn.
Trẻ em Nga vẫy cờ Việt NamBản quyền hình ảnhYEGOR ALEYEV
Image captionTrẻ em Nga vẫy cờ Việt Nam trong lễ trao tàu Gepard cho Hải quân Việt Nam hồi 2016
Ngoài ra hải quân Việt Nam cũng thiếu thiết bị để rà mìn và không có máy bay thám sát tầm xa. Đó cũng là những hệ thống vũ khí cần thiết để kiểm soát và giữ những tuyến đường đến các đảo.
Trong khi đó Việt Nam lại có ý muốn mua hỏa tiễn hành trình Klub bắn từ tàu ngầm lên đất liền. Hỏa tiễn Klub hoặc Kalibr là một gia đình hỏa tiễn siêu thanh với nhiều loại và thuộc vào những vũ khí tối tân nhất của Nga. Nhưng không rõ là Việt Nam theo đuổi chiến lược gì với những hỏa tiễn hành trình. Nếu các tàu ngầm Kilo hoặc các hộ tống hạm Gepard của Việt Nam có được loại hỏa tiễn đối hạm của gia đình Klub/ Kalibr, thay vì loại bắn mục tiêu trên bờ, thì khả năng đe dọa của các tàu chiến này đối với hải quân Trung Quốc sẽ tăng đáng kể. Và đó sẽ là một trang bị hợp lý hơn cho hải quân.
Việt Nam cũng muốn mua loại hỏa tiễn BrahMos của Ấn Độ và Nga cùng chế tạo. Loại hỏa tiễn siêu thanh này là vũ khí đối hạm lợi hại nhất hiện tại. Nhưng chúng hơi lớn để dùng trên các hộ tống hạm Gepard.
Và để bắn từ đất liền với hiệu quả thì Việt Nam lại thiếu phương tiện để phát hiện mục tiêu và điều khiển hỏa lực, thí dụ như máy bay thám sát.

Mua hay không mua?

Nói tóm tắt, trong tình thế bây giờ hải quân Việt Nam cần thêm gấp một số chiến hạm lớn cở hộ tống hạm hoặc khu trục hạm, phương tiện rà mìn, tàu quân vận, máy bay thám sát tầm xa và hỏa tiễn đối hạm siêu thanh để bắn từ tàu chiến và tàu ngầm.
Nhưng hiện tại không có dấu hiệu là chính phủ Việt Nam sẽ mua những thiết bị này.
Một yếu tố quan trọng cho việc bảo vệ chủ quyền trên biển cũng là lực lượng không quân. Việt Nam hiện nay có 107 chiếc chiến đấu cơ phản lực. Trong đó có 11 chiếc Su-27 và 35 chiếc Su-30 là những máy bay tân tiến. Số còn lại là chiến đấu cơ loại MiG-21 và Su-22 lỗi thời.
Hai con số thí dụ từ hai quốc gia khác cho thấy sự thiếu kém của không quân Việt Nam: Không quân Singapore hiện đang có 84 chiếc chiến đấu cơ tối tân (F-16 C/D và F-15 SG) để bảo vệ một lãnh thổ bằng 1/3 diện tích Sài Gòn, không quân Đài Loan có khoảng 400 chiến đấu cơ hiện đại (F-16 A/B, F-5 E, Mirage 2000) cho một lãnh thổ bằng 1/9 Việt Nam.
Hải quân Úc thăm PhilippinesBản quyền hình ảnhXINHUA
Image captionGiao lưu quốc phòng trong vùng châu Á - Thái Bình Dương: Hải quân Úc thăm Philippines
Cũng không được quên là chỉ trên đảo Hải Nam Trung Quốc có đóng khoảng 200 chiến đấu cơ.
Với lực lượng không quân như thế, Việt Nam khó có thể phản ứng mạnh mẻ như Nhật Bản năm 2014 trên Biển Hoa Đông trong trường hợp Trung Quốc tuyên bố thiết lập vùng nhận diện phòng không (ADIZ, Air Defense Identification Zone) trên không phận Biển Đông.
Nói chung quân đội Việt Nam có một nhu cầu tân trang khổng lồ.
Ngay đến quân chủng bộ binh là lực lượng nòng cốt của Quân đội nhân dân cũng vẫn phải lệ thuộc vào những hệ thống vũ khí cũ mèm từ thập niên 60. Thí dụ điển hình là lực lượng thiết giáp: đại đa số xe tăng của Việt Nam là loại T-54/ T-55.
Loại chiến xa này đã xuất hiện từ cuộc chiến tranh Nam Bắc. Những xe tăng đó xem như vô dụng nếu phải đương đầu với những xe tăng hiện đại hơn của Trung Quốc.
Nhưng theo các ước lượng của giới nghiên cứu quân sự, Việt Nam chỉ dành một ngân sách tương đối nhỏ cho quốc phòng trung bình là khoảng 4 tỷ USD hàng năm trong những năm kể từ 2014, mặc dù đó đã gần gấp đôi ngân sách quốc phòng của những năm trước 2011.
Trong đó phần dành để đầu tư vào vũ khí mới có lẻ chỉ chiếm một phần nhỏ, ước đoán khoảng vài trăm triệu USD. Như thế quân đội chỉ có thể tân trang với những bước nhỏ, và đó sẽ là một quá trình lâu dài.
Có thể sẽ là quá dài và tai hại đối với những phát triển trên Biển Đông.
Vũ khí tối tân như máy bay hoặc tàu chiến là những hệ thống kỹ thuật phức tạp và cần phải có sự đào tạo và tập luyện lâu dài cho quân sĩ để sử dụng với kết quả tối đa trong trường hợp giao chiến.
Các quân đội Tây Phương thường lệ cần khoảng hai năm cho một hệ thống vũ khí mới như chiến hạm hoặt một kiểu máy bay chiến đấu mới để đạt được trạng thái sẵn sàng chiến đấu (operational readiness hay combat readiness).
Không quân VNBản quyền hình ảnhHOANG DINH NAM
Image captionMáy bay đã cũ trong các biên đội của Không quân Việt Nam
Theo cách nhìn đó, trong số những hệ thống vũ khí tinh vi nhất của hải quân Việt Nam - sáu chiếc tàu ngầm và hai chiếc hộ tống hạm - có lẽ chỉ có một phần có thể được xem là 'sẵn sàng chiến đấu' vì thời gian huấn luyện chưa đủ.
Và e rằng hai chiếc chiến hạm thứ năm và thứ sáu của lớp Gepard Việt Nam định mua thêm sẽ đến trể nếu chúng được đóng với vận tốc hiện tại.
Vậy phải làm gì để tạo nên một khả năng ngăn cản đáng tin trong thời gian ngắn nhằm kềm chế những tham vọng của Trung Quốc?

Hiện đại hóa theo cách nào?

Việt Nam phải ưu tiên cho việc tân trang quân đội. Chi phí cho quốc phòng bắt buộc phải tăng thêm.
Tuy rằng từ 2015, theo thống kê của viện nghiên cứu hòa bình SIPRI, Việt Nam đã lên hạng tư trong khối ASEAN về ngân sách quốc phòng, nhưng thật ra chỉ hơn các quốc gia nghèo hơn như Philippines, Myanmar, Lào...
Chi phí của Việt Nam cho quốc phòng tính theo đầu người là khoảng 49 USD hàng năm, so với trung bình của ASEAN là 388 USD thì đây còn rất nhiều khả năng để tiến lên.
Gia tăng đầu tư cho quốc phòng - đó cũng là một sự đầu tư cho tương lai - là một việc. Việc khác là phải chi tiền như thế nào để mau chóng có được một số đáng kể của những hệ thống vũ khí tân tiến như đã nêu trên.
Túi tiền nhỏ, nhưng muốn mua đồ mới đắt thì cuối cùng sẽ không đủ đồ sài. Việt Nam phải từ bỏ sự e ngại đối với việc dùng vũ khí 'second-hand'.
Những tàu chiến hoặc máy bay quân sự đã được các cường quốc Tây Phương, Nhật và thậm chí nước Nga sử dụng thường được bán lại với một giá thấp hơn giá mới rất nhiều.
Như thế có thể mua được một số đáng kể với một ngân sách khiêm nhường. Trong nhiều trường hợp, những hệ thống vũ khí này còn tốt và chỉ cần tu sửa ít để tiếp tục sử dụng thêm một thời gian lâu.
Nhiều quốc gia đã và đang trang bị cho quân đội với vũ khí sài rồi. Thí dụ như Brazil và Argentine đều có tàu chiến cũ của Anh Quốc và Hoa Kỳ hoặc máy bay chiến đấu của Pháp.
Chiếc hàng không mẫu hạm Viraat hải quân Ấn Độ dùng đến 2016 là chiếc Hermes xưa của hải quân Anh Quốc. Nhiều quốc gia Đông Âu như Ba Lan, Romania... đã mua chiến đấu cơ F-16 cũ của Hoa Kỳ.
Phi cơ Y-20, loại máy bay vận tải cỡ lớn do TQ tự sản xuất, Hai chiếc Y-20 được chính thức bổ sung vào lực lượng không quân TQ từ 6/7/2016.Bản quyền hình ảnhXINHUA
Image captionHình minh họa: Một chiếc Y-20, máy bay vận tải quân sự cỡ lớn do Trung Quốc tự sản xuất
Quân đội Ba Lan cũng thừa kế một số xe tăng Leopard của Đức. Hải quân Đại Hàn đã sử dụng chiến hạm cũ của Hoa Kỳ. Những khu trục hạm mạnh nhất của Đài Loan là tàu thuộc lớp Kidd của hải quân Mỹ...
Thị trường cho vũ khí 'second-hand' hiện tại cũng có nhiều thứ đáng chú ý cho Việt Nam. Thí dụ như những máy bay thám sát và săn tàu ngầm P-3 Orion Nhật Bản đang muốn cho về hưu.
Không quân Hoa Kỳ có một số lớn chiến đấu cơ F-16 sắp được thay thế bằng chiếc F-35.
Hải quân Úc đang chuẩn bị loại ba chiếc hộ tống hạm hạng Adelaide. Hải quân Hoàng Gia Anh cũng đang có ý định bán năm chiếc hộ tống hạm hạng Type 23.
Những tàu của Anh Quốc và Úc tuy cũ nhưng vẫn có khả năng tác chiến vượt hẳn hạng Gepard của Việt Nam. Từ khi Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, những thiết bị này đều là những thứ có thể nằm trong tầm tay của Việt Nam.
Mua vũ khí để tân trang quân đội trong tình huống lãnh thổ bị đe dọa không phải là một hành động hiếu chiến. Đằng khác một lập trường chính trị trung lập và hiếu hòa không đồng nghiã là không được có một lực lượng vũ trang mạnh. Những quốc gia với truyền thống trung lập bền vững nhất Âu Châu - Thụy Điển, Thụy Sĩ và Phần Lan - đều nuôi một quân đội nhỏ nhưng tinh nhuệ và trang bị tối tân.
Chính sách quốc phòng của các quốc gia này đều phản ảnh nhận xét của nhà chính trị Cicero thời đế quốc La Mã 'Nếu muốn có hòa bình, phải chuẩn bị cho chiến tranh' (si vis pacem para bellum).
Nếu quyết tâm bảo vệ quyền lợi quốc gia và lãnh thổ, giới lãnh đạo chính trị và quân sự tại Việt Nam phải nhanh chóng phát triển một chính sách quốc phòng thích nghi với những thử thách trên Biển Đông và theo đó gấp rút thực hiện những biện pháp nhằm tân trang cho quân đội.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của kỹ sư hàng không Nguyễn Xuân Vĩnh từFrankfurt, Đức.
Xem thêm chủ đề Quốc phòng:

Chủ đề liên quan

Vụ Nga can thiệp bầu cử Mỹ : Ba cựu cố vấn của Trump bị khởi tố

Ngày 30/10/2017, công tố viên đặc biệt được giao điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống Mỹ đã truy tố 3 cựu cố vấn của tổng thống Donald Trump. Đây là ba thành viên trong ê-kíp vận động tranh cử của ông Trump, trong đó có cựu giám đốc tranh cử Paul Manafort. Thế nhưng, Nhà Trắng vẫn cho rằng những vụ truy tố này không dính dáng gì đến tổng thống Trump cũng như đến chiến dịch tranh cử tổng thống năm ngoái.

media
Ông Paul Manafort (T), cựu cố vấn tranh cử của tổng thống Donald Trump rời tòa án tại Washington sau khi bị khởi tố ngày 30/10/2017. REUTERS/Jim Bourg
 Công tố viên đặc biệt Robert Mueller đã truy tố ông Paul Manafort và cộng sự viên Richard Gates về 12 tội danh, trong đó có các tội danh âm mưu chống Hoa Kỳ, rửa tiền, khai gian và không khai báo tài khoản ở nước ngoài. Tuy nhiên, bản cáo trạng không nói đến chuyện thông đồng giữa ê-kíp của ứng cử viên Donald Trump với chính quyền Nga.

Nhưng gây khó khăn cho ông Trump nhiều hơn hết chính là những tiết lộ liên quan đến một trong những cựu cố vấn của tổng thống Hoa Kỳ, đó là ông George Papadopoulos, đặc trách các vấn đề về chính sách ngoại giao trong ê-kíp tranh cử của ông Trump. Ông Papadopoulos thừa nhận đã nói dối với các nhà điều tra của FBI.

Cụ thể, ông đã tìm cách che dấu những mối liên hệ chặt chẽ của ông với những nhân vật trung gian của Nga. Từ những nhân vật này, ông Papadopoulos đã biết được là Matxcơva đang nắm trong tay những thông tin có thể làm ô danh ứng cử viên Dân Chủ Hillarry Clinton.

Sau khi đến trụ sở FBI sáng hôm qua, hai ông Manafort và Gates vào buổi chiều đã tuyên bố không nhận tội trước một thẩm phán liên bang ở Washington. Thẩm phán Deborah Robinson đã ra lệnh quản thúc tại gia hai nhân vật này.

Phản ứng về vụ truy tố các cựu cố vấn của ông, trên mạng Twitter hôm qua tổng thống Donald Trump khẳng định những vụ việc liên quan đến ông Manafort đã xảy ra từ nhiều năm trước và ông viết rằng « không hề có thông đồng » ( với Nga ). Phát ngôn viên Nhà Trắng cũng đã có phản ứng tương tự, như tường trình của thông tín viên RFI Jean-Louis Pourtet từ Washington :

Trong khi ông Paul Manafort và cộng sự viên Rick Gates còn đang ở trong tòa án Washington, phát ngôn viên của tổng thống, bà Sarah Huckabee Sanders, tuyên bố tại cuộc họp báo : « Thông báo hôm nay không dính dáng gì đến tổng thống, không dính dáng gì đến chiến dịch tranh cử của tổng thống và đến các hoạt động tranh cử. »

Như vậy, phát ngôn viên Nhà Trắng đã có phản ứng giống như tổng thống Trump trên mạng Twitter cho rằng không hề có chuyện thông đồng với Nga, bởi vì những vụ liên quan đến ông Manafort và Gates đã xảy ra từ trước khi ông Trump ra ứng cử tổng thống.

Vấn đề nằm ở nhân vật thứ ba : George Papadopoulos. Bị cáo buộc đã nói dối về những cuộc tiếp xúc của ông với các nhân vật trung gian Nga, ông Papadopoulos chấp nhận hợp tác với FBI và sẽ cung cấp ( hoặc có lẽ đã cung cấp rồi ) thông tin về những gì mà ê-kíp của Trump đã biết và những gì mà ê-kíp này đã làm để cố lấy được những thư điện tử gây tổn hại cho bà Hillarry Clinton hoặc để tổ chức một cuộc gặp Trump-Putin.

Bà Sarah Huckabee Sanders hôm qua đã mô tả ông Papadopoulos như là một "tình nguyện viên" chẳng có ảnh hưởng gì đáng kể. Tuy nhiên, trong một bài trả lời phỏng vấn tờ Washington Post trước đây, ông Trump đã không ngớt lời ca ngợi năng lực của viên cựu cố vấn này. Bây giờ tổng thống Mỹ lại không nhớ đã từng gặp ông Papadopoulos.

Thanh Phương

(RFI)

Do bài viết này của BBC:"Chủ nghĩa tư bản 'khuyết tật nhưng phát triển"; Nên bài viết trên TCCS đã bị gỡ: Thời kỳ phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Thời kỳ phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Chủ nghĩa xã hội dù đang khủng hoảng cả về lý luận và thực tiễn, nhưng với cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, nhân loại đã bước vào một thời kỳ phát triển mới – thời kỳ tiến lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Với Đổi mới, Việt Nam đã vượt qua khủng hoảng, nắm bắt thời cơ, phát huy lợi thế, khai thác động lực mạnh mẽ bước vào thời kỳ phát triển mới nhằm sớm thực hiện mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Hình minh họa
Phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa xã (XHCN) không qua thời kỳ tư bản chủ nghĩa (TBCN) là một vấn đề lý luận cốt yếu trong lý luận cách mạng XHCN không chỉ đối với Việt Nam, mà cả với sự phát triển lý luận cách mạng XHCN ở các Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế.

Mấy chục năm qua, các học giả đã có hàng chục nghìn công trình, bài viết nghiên cứu xoay quanh chủ đề con đường phát triển chủ nghĩa xã hội (CNXH). Các thành tựu nghiên cứu đạt được rất đa dạng, phong phú, tuy nhiên, những kết quả ấy lại rất khác nhau, và thường không đạt được sự đồng thuận giữa các nhà nghiên cứu, kể cả những nhà nghiên cứu theo lập trường mác-xít. Đó là do mục đích nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, cách tiếp cận, lập trường tư tưởng… khác nhau.

Hơn thế, phong trào XHCN vừa trải qua khủng hoảng toàn diện, nghiêm trọng cả về thực tiễn và lý luận. Đó là hệ thống lý luận xây dựng CNXH theo mô hình Xôviết trước đây là giáo điều, xơ cứng, chủ quan, duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan… đã thực sự lỗi thời, không phù hợp với những thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại. Đó là hệ thống CNXH hiện thực rơi vào khủng hoảng toàn diện, tan rã ở châu Âu. Những nước XHCN còn lại đã mở cửa, đổi mới toàn diện và đã bước vào một giai đoạn phát triển mới không còn theo mô hình cũ.

Về mặt lý luận và thực tiễn cần phải nhìn nhận một cách khách quan, khoa học rằng sau hơn 30 năm cải cách ở Trung Quốc và 30 đổi mới ở Việt Nam, mô hình lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH mới mà hai quốc gia này chủ trương và tiến hành hiện thực hóa đã khác rất xa mô hình CNXH Xôviết trước đây. Tuy nhiên, cả lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam và Trung Quốc cơ bản là khác nhau, mặc dù về nguyên tắc và mục tiêu XHCN là tương đồng.

Dù có nhiều điểm khác nhau nhưng, sau cải cách, đổi mới các nước phát triển theo con đường XHCN mới đã tạo ra sự phát triển kinh tế – xã hội được đánh giá là thần kỳ. Trong khi, các nước Đông Âu và Liên Xô sau khi hệ thống XHCN ở châu Âu tan rã và không ít nước rơi vào khủng hoảng toàn diện cả kinh tế, chính trị và xã hội. Cho đến nay, mặc dù đã qua 30 năm, nhiều nước vẫn chưa thực sự thoát ra khỏi khủng hoảng. Mặc dù vậy, vào thời điểm hiện nay, dù nhiều quốc gia còn bất ổn, đời sống của người dân còn rất khó khăn nhưng hầu như đa số người dân ở các quốc gia này, không muốn quay trở lại xây dựng CNXH theo mô hình như trước đây.

Rõ ràng, niềm tin của người dân về CNXH theo mô hình trước đây ở những quốc gia châu Âu đã từng xây dựng CNXH hiện thực ở thế kỷ XX đã bị tổn thương nặng nề. Chủ nghĩa xã hội như đã tồn tại trở thành nỗi ám ảnh trong đời sống nhân loại. Chính điều này đặt ra cho những nhà nghiên cứu cần phải có cách tiếp cận mới với lý luận về CNXH của nghĩa Mác – Lênnin. Cần phải vận dụng sáng tạo lý luận ấy không chỉ bởi những điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia, mà phải đặt nó trong bối cảnh mới của tiến trình lịch sử thế giới. Trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển nếu không nằm trong chỉnh thể vận động và phát triển chung của toàn nhân loại.

Qua nghiên cứu, phân tích, tìm hiểu các quan điểm của các nhà kinh điển, của các học giả mác-xít và ngoài mác-xít xung quanh vấn đề CNXH và con đường XHCN ở các quốc gia theo mô hình Xôviết trước đây; tìm hiểu những nhân tố tác động đến quá trình phát triển định hướng XHCN không trải qua giai đoạn TBCN; các nhân tố thời đại và nhân tố đặc thù của mỗi nước; thực trạng công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN ở nước ta 30 năm qua, bước đầu chúng tôi xin trao đổi một số vấn đề lý luận căn bản về thời kỳ phát triển định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay.

Thứ nhất, vấn đề bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa

Nêu vấn đề thời kỳ phát triển định hướng XHCN về mặt lý luận sẽ liên quan tới quan điểm “quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”. Đây là một vấn đề lý luận hiện nay đã được khẳng định. Tìm hiểu quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề này từ khi thành lập đến nay ta thấy đây là một vấn đề lý luận cốt yếu nhưng cũng đã có nhiều sự điều chỉnh trong các thời kỳ cách mạng khác nhau.

Thật vậy, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam từ 1930 đến nay để tiến lên CNXH, đã có sự thay đổi căn bản: Từ “tiến thẳng lên CNXH”, đến “bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN”, và hiện nay là “bỏ qua chế độ TBCN”. Cần làm rõ: có thể bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) với tư cách là một chế độ xã hội được không ? Bỏ qua chế độ TBCN nhưng có sử dụng và phát huy những nhân tố nào của giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa?.

Đặt vấn đề về mặt tư duy: bỏ qua chế độ TBCN có phải là sự khẳng định chế độ TBCN là chế độ xã hội xấu xa đã lỗi thời, không còn phù hợp với sự phát triển của nhân loại, do đó cần phải “bỏ qua”, loại bỏ chế độ đó trong quá trình phát triển của lịch sử loài người hay không. Như vậy, có nhận thức đúng sự tồn tại khách quan, tất yếu hiện nay của CNTB không? có phù hợp với sự phát triển tự nhiên của lịch sử không? và có tiếp tục gây ra sự kỳ thị, đối kháng, đối đấu giữa sự phát triển của Việt Nam hiện nay với phần còn lại của thế giới là TBCN hay không? Có tách biệt sự vận động và phát triển của Việt Nam hiện nay ra khỏi quỹ đạo phát triển chung của thế giới ngày nay hay không? Đây là một vấn đề lý luận rất cốt yếu.

Với sự nhận thức phát triển của Việt Nam hiện nay là “thời kỳ phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa” nghĩa là chúng ta chỉ xác định con đường và đích đến của riêng Việt Nam, không đề cập, không làm tổn thương đến sự phát triển và mô hình phát triển của các quốc gia khác, các chế độ chính trị khác. Thực tế là với toàn cầu hóa, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và hội nhập quốc tế, Việt Nam ngày càng tham gia một cách toàn diện vào đời sống chung của toàn cầu và đã trở thành một thực thể tích cực có nhiều đóng góp cho phát triển chung của khu vực và thế giới.

Thứ hai, về những điều kiện tiên quyết để tiến lên chủ nghĩa xã hội ở “các nước lạc hậu” trong thời đại ngày nay

Những điều kiện tiên quyết mà C. Mác, Ph. Ănghen, V.I. Lê-nin đã dự đoán khả năng các nước lạc hậu phát triển lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN đó là:

– Chủ nghĩa tư bản đã phát triển lên tới đỉnh cao ở các nước tiên tiến;
– Cách mạng vô sản đã thắng lợi ở Tây Âu;
– Cách mạng vô sản ở Tây Âu kết hợp với cách mạng ở các nước lạc hậu;
– Sự nêu gương và sự ủng hộ tích cực của cách mạng XHCN ở phương Tây đối với các nước lạc hậu đi theo con đường XHCN;
– Những lực lượng tiên tiến của các nước “lạc hậu” chủ động thực hiện quá trình phát triển bỏ qua CNTB.

Rõ ràng, những điều kiện tiên quyết mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin, dự báo khi đó đến nay hầu như không còn nữa /hay không còn phù hợp. Tuy nhiên, nhìn một cách khách quan các điều kiện này ta thấy, vào thời điểm đó, trong tư duy của các ông luôn thường trực ý thức quyết liệt rằng, giữa CNTB và chủ nghĩa cộng sản luôn hiện diện trong tình trạng đấu tranh sinh tử “một mất một còn”, kiểu như “chủ nghĩa xã hội là người đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản”. Nghĩa là CNTB và CNXH luôn đối đấu và phủ định nhau. Nhân loại được đặt trước lựa chọn duy nhất: hoặc CNTB, hoặc CNXH. Hệ lụy của tư duy ấy là đã chia thế giới thành hai phe, hai hệ thống đối đầu nhau, tìm mọi cách tiêu diệt nhau… đã dẫn đến chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang và cuối cùng là góp phần dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn hệ thống XHCN ở châu Âu nửa cuối thế kỷ XX. Trong cuộc đối đầu “một mất một còn” ấy CNXH hiện thực theo mô hình Xô viết về cơ bản đã bị tiêu diệt và CNTB với rất nhiều khuyết tật của nó vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển.

Vì lẽ đó, trong điều kiện hiện nay, khi mà các điều kiện tiên quyết nêu trên không còn thì để tiến lên CNXH chúng ta phải làm thế nào?.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, thế giới đã ở một trạng thái hoàn toàn mới. Có người gọi đó là một “thế giới phẳng”. Hầu như mọi rào cản giữa các quốc gia, các khu vực cơ bản đã được dỡ bỏ. Mọi quốc gia tồn tại trong trạng thái tùy thuộc lẫn nhau. Một sự kiện kinh tế, chính trị, an ninh, môi trường… diễn ra ở một quốc gia có thể ảnh hưởng đến nhiều quốc gia khác. Đặc biệt sau khi hệ thống CNXH ở châu Âu sụp đổ và chiến tranh lạnh kết thúc thì CNTB trở thành “nhân vật chính” của vũ đài thế giới và sự vận động, phát triển của lịch sử thế giới ngày nay nhìn chung bị chi phối bởi CNTB hiện đại.

Trong điều kiện hiện nay, Việt Nam đã trở thành một quốc gia có quan hệ hữu nghị với hầu như các quốc gia trên thế giới; đặc biệt có quan hệ đối tác chiến lược với hầu như các cường quốc. Việt Nam không chỉ là thành viên tích cực của cộng đồng thế giới mà còn là thành viên có vai trò và vị trí quan trọng trong các thế chể, định chế, các liên minh kinh tế, xã hội rộng lớn toàn cầu.

Trong bối cảnh mới, mặc dù chúng ta gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng rõ ràng chúng ta cũng có nhiều điều kiện và cơ hội phát triển hơn. Vấn đề là ta phải đặt mình vào trong bối cảnh ấy, một cách khách quan và đề cao tính mục đích của thời kỳ phát triển định hướng XHCN để ta có chiến lược, chủ trương, biện pháp và giải pháp hướng tới ngăn chặn nguy cơ, hạn chế thách thức, có nhiều điều kiện để tận dụng thời cơ và cơ hội hơn cho sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Vấn đề quan trọng là trong quá trình mở cửa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng chúng ta cần phải đề cao tính mục đích của sự phát triển – đó là CNXH, từ sự đề cao mục đích, chúng ta phải biết tận dụng nhiều điều kiện, cơ hội khách quan, kịp thời nắm bắt thời cơ – nghĩa là tìm phương tiện, phương thức, nguồn lực, động lực để sớm đạt được mục đích xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam.

Muốn vậy chúng ta phải ngày càng thực sự trở thành một thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng thế giới; cũng như thực sự trở thành “bạn” của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới. Đây chính là một điều kiện “tiên quyết”, “bắt buộc” để chúng ta thực hiện được các mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thực là những điều kiện khách quan và chủ quan cho sự phát triển của mỗi quốc gia ở những thời điểm nhất định chỉ xuất hiện vào đúng những thời điểm đó, vì vậy, những dự báo lý luận dù có thần kỳ đến mấy cũng không thể bao chứa hết.

Thứ ba, xuất phát điểm của Việt Nam khi bước vào thời kỳ phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa

Xuất phát từ tình hình cụ thể, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia là nguyên tắc chỉ đạo quan trọng nhất. Đây cũng chính là một nguyên tắc cơ bản của phép biện chứng duy vật. Chỉ có xuất phát từ thực tiễn mới nắm vững được thực trạng đời sống xã hội, các xu thế vận động cũng như quy luật vận động của thực tiễn. Xa rời thực tiễn, chủ quan, duy ý chí, giáo điều, quan liêu, bất chấp quy luật khách quan là những bài học đắt giá mà Đại hội VI của Đảng ta đã chỉ ra.

Không xuất phát từ thực tiễn đất nước sẽ ban hành những chỉ thị, nghị quyết không phù hợp với thực tiễn vì vậy sẽ không đạt được hiệu quả mong muốn. Không xuất phát từ thực tiễn khi áp dụng những kinh nghiệm quốc tế thường dập khuôn, máy móc, giáo điều xa lạ đối với tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Khi đó, người dân sẽ không tích cực tham gia vào các chương trình, kế hoạch phát triển đất nước.

Chẳng hạn, đối với nước ta hiện nay, nhiều người do xa rời thực tiễn, máy móc, giáo điều, duy ý chí… nên khi nhận định về xuất phát điểm của nước ta tiến hành “quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN”, nghĩa là khi bước vào thời kỳ phát triển định hướng XHCN họ vẫn “một mực” khẳng định xuất phát điểm của Việt Nam vẫn từ “một nước nông nghiệp lạc hậu”, “thực dân nửa phong kiến”, “chúng ta vừa bước ra từ chiến tranh và chịu hậu quả nặng nề của hai cuộc chiến tranh tàn khốc”… Với sự nhận diện như thế, rõ ràng chúng ta không thể có chủ trương, đường lối, chính sách sát hợp để lãnh đạo và chỉ đạo công cuộc đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng CNXH hiện nay.

Thực ra, chúng ta đã “từ giã” nước “nông nghiệp lạc hậu”, “thực dân, nửa phong kiến” gần 70 năm, chúng ta đã bước ra khỏi chiến tranh đã 40 năm, và chúng ta đã có 30 năm thực hiện thành công công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Thực tiễn nước ta hiện nay, khác rất xa những năm trước năm 1945, những năm trước năm 1975. Sau 30 năm đổi mới chúng cũng đã khác rất xa năm 1986 khi đất nước ta bước vào đổi mới. Thành tựu của công cuộc đổi mới đã đưa nước ta trở thành một thành viên có vai trò, vị trí và có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, đã trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình… Vì vậy, nếu không xuất phát từ tình hình thực tiễn đất nước thì rõ ràng chúng ta không thể nhận diện đúng thời cơ, thách thức, nguồn lực, động lực… và do đó sẽ không thể có được các chủ trương, đường lối, chính sách phù hợp để phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay. Do đó, cũng sẽ không thực hiện được những nhiệm vụ và mục tiêu của thời kỳ phát triển định hướng XHCN mà chúng ta đã đề ra.

Thứ tư, vấn đề phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa

Sau 30 năm đổi mới thành tựu to lớn nhất, quan trọng nhất của chúng ta là sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có thể khẳng định là đột phá về mặt lý luận và thực tiễn. Lý luận kinh tế thị trường định hướng XHCN đã soi sáng cho sự phát triển của đời sống kinh tế của nước ta 30 năm qua. Tuy nhiên, xã hội là một cơ thể thống nhất và đồng bộ. Các lĩnh vực của đời sống xã hội trong quá trình vận động và phát triển dù có thể có sự phát triển không đều nhưng về căn bản các lĩnh vực, bộ phận phải tương thích, đồng bộ và thống nhất với nhau tạo thành một tổng thể hoàn chỉnh. Không có một cơ thể xã hội hài hòa ổn định thì không thể phát triển bền vững được.

Sự thành công hết sức thuyết phục của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta thời gian qua chỉ cho ta thấy rằng cần phải xác định đúng thời điểm hiện nay Việt Nam đang tồn tại và phát triển ở trạng thái là thời kỳ phát triển định hướng XHCN. Đây không phải là cách diễn đạt khác của “thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” mà là sự nhận diện thực trạng xã hội và xu hướng vận động tất yếu của nó. Ai cũng biết mọi sự vận động phát triển đều là thời kỳ quá độ từ trạng thái này sang trạng thái khác một cách phổ biến. Xác định thời kỳ phát triển định hướng XHCN nghĩa là đề cao tính mục đích của sự phát triển. Nói cách khác, sự phát triển là quá trình vận động theo những quy luật khách quan nhưng có sự tham gia của nhân tố chủ quan để đạt tới mục đích đề ra.

Thứ năm, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ phát triển định hướng XHCN một điều kiện tiên quyết có tính nguyên tắc là phải kiên quyết giữ vững vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam và phải kiên quyết đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

Đảng Cộng sản cộng sản Việt Nam người tổ chức và lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam hơn 85 năm qua. Điều này đã được lịch sử khẳng định. Lịch sử cũng cho thấy vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản với cách mạng Việt Nam không phải bằng lý luận mà bằng chính thực tiễn đời sống.

Với xuất phát điểm là một xã hội chưa trải qua thời kỳ phát triển TBCN hội nhập vào sự phát triển chung của nhân loại, nếu theo sự phát triển bình thường của quá trình lịch sử tự nhiên thì như nhiều quốc gia khác, chúng ta tiến lên CNTB là một lẽ bình thường. Trong khi, CNTB sau hơn 200 tồn tại mặc dù mang lại cho nhân loại rất nhiều thành tựu nhưng cũng có những thời kỳ đen tối nhiều máu và nước mắt đối với tiến trình phát triển nhân loại. Chế độ bóc lột, phân tầng xã hội, phân hóa giầu nghèo, chiến tranh và tha hóa con người là những sản phẩm tất yếu của chủ nghĩa tư bản mà bất cứ quốc gia nào đi theo con đường TBCN không thể tránh khỏi.

Trong khi đó, giai đoạn hiện nay, nhiều nước tư bản phát triển đang đứng trước ngưỡng cửa của một thời đại mới, một chế độ xã hội mới. Đó là thời đại của sự phát triển đỉnh cao của nhân loại. Đó không còn là chủ nghĩa tư bản với đúng nghĩa của nó nữa. Có người gọi đó là xã hội hậu tư bản. Thực tiễn cho thấy, trong các nước tư bản phát triển ở đỉnh cao hiện nay đã xuất hiện rất nhiều nhân tố của chủ nghĩa cộng sản như các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác dự báo.

Với Việt Nam từ một quốc gia đang phát triển với mức sống trung bình của thế giới trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay phát triển theo định hướng XHCN là hoàn toàn hiện thực và đó là một tất yếu khách quan. Thực chất, đây là một sự phát triển rút ngắn mà lịch sử cho thấy có nhiều dân tộc đã từng trải qua.

Vấn đề cốt lõi ở đây là chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam mới là người lãnh đạo đất nước ta đi theo con đường XHCN. Vì vậy, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam là một vấn đề có tính nguyên tắc, một điều kiện tiên quyết. Tuy nhiên, để giữ vững được nguyên tắc này Đảng Cộng sản Việt Nam cần thực hiện một số vấn đề cốt lõi sau:

Một là, Đảng Cộng sản không phân chia quyền lãnh đạo quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam cho bất cứ lực lượng chính trị nào khác nhằm đảm bảo sự thống nhất và tính nhất quán của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN;

Hai là, Đảng phải đổi mới toàn diện về tổ chức và phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội.

Ba là, Đảng cần kiên quyết chỉnh đốn xây dựng đảng. Kiên quyết chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đảng viên nhất là đội ngũ lãnh đạo cao cấp; Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng xây dựng lòng tin trong nhân dân; Kiên quyết giải tán các tổ chức đảng cơ sở suy thoái, mất sức chiến đấu; Kiên quyết loại bỏ những phần tử thái hóa, biến chất ra khỏi đội ngũ Đảng.

Bốn là, Kiên quyết đấu tranh chống những thế lực phản động trong nước và quốc tế nhằm xóa bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vai trò lãnh đạo của Đảng. Kiên quyết chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, giữ vững vai trò lãnh đạo của đảng, giữ vững ổn định chính trị;

Năm là, Mở rộng quan hệ quốc tế, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo đất nước, bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo đảm đời sống hòa bình cho nhân dân.

PGS.TS. Nguyễn Linh Khiếu

28/10/2017 11:2′

(Tạp chí Cộng Sản)

Chủ nghĩa tư bản 'khuyết tật nhưng phát triển'


LeninBản quyền hình ảnhMAXIM MALINOVSKY
Image captionBelarus là nơi vẫn có các triển lãm về Lenin, nhiều năm sau khi hệ thống XHCN sụp đổ
Nhân kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng 10 Nga (1917-2017), Tạp chí Cộng sản ở Việt Nam có bài xác nhận mô hình Liên Xô như đã tồn tại về cơ bản đã bị tiêu diệt.
Cùng lúc, bài của Phó Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Linh Khiếu cho rằng chủ nghĩa Tư bản có "rất nhiều khuyết tật nhưng vẫn tồn tại và phát triển", và đây là một thực tế mà hệ thống chính trị ở Việt Nam cần quan tâm.
Bài cũng nói cả về lý luận và thực tiễn, mô hình chính trị và định hướng xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và Việt Nam "khác nhau".
Cuộc đối đầu trong Chiến tranh Lạnh giữa hai hệ thống gây ra "chạy đua vũ trang và cuối cùng là góp phần dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn hệ thống XHCN ở châu Âu nửa cuối thế kỷ XX," bài báo viết.
"Trong cuộc đối đầu "một mất một còn" ấy CNXH hiện thực theo mô hình Xô Viết về cơ bản đã bị tiêu diệt và CNTB với rất nhiều khuyết tật của nó vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển."
Trên thực tế, "sau khi hệ thống CNXH ở châu Âu sụp đổ và Chiến tranh Lạnh kết thúc thì CNTB trở thành "nhân vật chính" của vũ đài thế giới và sự vận động, phát triển của lịch sử thế giới ngày nay nhìn chung bị chi phối bởi CNTB hiện đại".
Và dù chủ nghĩa xã hội tại Liên Xô đã tan rã năm 1991, nay bài báo đi tới nhận thức rằng, "hầu như đa số người dân ở các quốc gia này, không muốn quay trở lại xây dựng CNXH theo mô hình như trước đây".
Cách nhận định lịch sử Liên Xô và sự kết thúc của mô hình cộng sản Đông Âu trong bài của TS Nguyễn Linh Khiếu có vẻ khác với đánh giá của TS Tạ Ngọc Tấn.
Phát biểu trên VTV1 gần đây, ông Tạ Ngọc Tấn, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương Đảng CSVN, cho rằng "sai lầm của Liên Xô dẫn tới sụp đổ là "đưa một loạt những kẻ cơ hội, đặc biệt là ông Gorbachev lên vị trí cao nhất".
'Hội nhập quốc tế, thực tiễn gần dân, không giáo điều'
Tuần lễ thời trang MoscowBản quyền hình ảnhANADOLU AGENCY
Image captionTuần lễ thời trang Moscow: diện mạo nước Nga ngày nay đã khác xa thời XHCN và "hầu như đa số người dân không muốn quay trở lại xây dựng CNXH theo mô hình như trước đây"
Tiến sỹ Nguyễn Linh Khiếu nêu ra một số nhận xét mang tính định hướng đáng chú ý cho Việt Nam, nhấn mạnh tới thành quả và nhu cầu hội nhập quốc tế tích cực, và ra các chính sách căn cứ vào thực tế, không giáo điều, duy ý chí như một thời gian trước.
Quan điểm này nêu rằng trong bối cảnh này, Việt Nam, do Đảng Cộng sản lãnh đạo "phải ngày càng thực sự trở thành một thành viên tích cực và có trách nhiệm của cộng đồng thế giới; cũng như thực sự trở thành "bạn" của mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới".
"Đây chính là một điều kiện "tiên quyết", "bắt buộc" để thực hiện được các mục tiêu và nhiệm vụ của thời kỳ phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa," tác giả viết.
Nhắc lại giai đoạn trước 1986, Tiến sỹ Nguyễn Linh Khiếu cảnh báo:
"Xa rời thực tiễn, chủ quan, duy ý chí, giáo điều, quan liêu, bất chấp quy luật khách uan là những bài học đắt giá mà Đại hội VI của Đảng ta đã chỉ ra."
"Không xuất phát từ thực tiễn đất nước sẽ ban hành những chỉ thị, nghị quyết không phù hợp với thực tiễn vì vậy sẽ không đạt được hiệu quả mong muốn."
"Không xuất phát từ thực tiễn khi áp dụng những kinh nghiệm quốc tế thường dập khuôn, máy móc, giáo điều xa lạ đối với tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Khi đó, người dân sẽ không tích cực tham gia vào các chương trình, kế hoạch phát triển đất nước."

Nhiều yếu tố 'cộng sản' ở xã hội tư bản ngày nay

Hàng hóa xứ Wales, Anh QuốcBản quyền hình ảnhMATT CARDY
Image caption"...nhiều nước tư bản phát triển đang đứng trước ngưỡng cửa của một thời đại mới, một chế độ xã hội mới"
Một điều đáng chú ý nữa là bài báo nhận định rằng tại các xã hội Phương Tây ngày nay, "nhiều nước tư bản phát triển đang đứng trước ngưỡng cửa của một thời đại mới, một chế độ xã hội mới".
"Đó là thời đại của sự phát triển đỉnh cao của nhân loại. Đó không còn là chủ nghĩa tư bản với đúng nghĩa của nó nữa. Có người gọi đó là xã hội hậu tư bản."
"Thực tiễn cho thấy, trong các nước tư bản phát triển ở đỉnh cao hiện nay đã xuất hiện rất nhiều nhân tố của chủ nghĩa cộng sản như các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác dự báo."
Nhưng bài báo không nói bằng cách nào Việt Nam có thể đạt được trình độ phát triển như vậy.
Có vẻ như giải pháp đề ra vẫn là nhấn mạnh vai trò "Đảng lãnh đạo" nhưng kiến nghị Đảng Cộng sản Việt Nam "phải đổi mới toàn diện về tổ chức và phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước và xã hội".
Đà Nẵng khai trương Trung tâm Báo chí APECBản quyền hình ảnhZING.VN
Image captionViệt Nam thúc đẩy hội nhập quốc tế mạnh mẽ: Đà Nẵng vừa khai trương Trung tâm Báo chí APEC để phục vụ hội nghị thượng đỉnh quan trọng bậc nhất tại châu Á hàng năm
Trong công cuộc chỉnh đốn Đảng, thậm chí cần phải xóa cả một số cơ sở Đảng suy thoái, tác giả kiến nghị:
"Kiên quyết giải tán các tổ chức đảng cơ sở suy thoái, mất sức chiến đấu; Kiên quyết loại bỏ những phần tử thái hóa, biến chất ra khỏi đội ngũ Đảng."
Sau Đại hội 19 của Đảng Cộng sản Trung Quốc, vai trò của các nhà lý luận kiêm tham mưu cao cấp cho lãnh đạo của Đảng này được đề cao.
Điều này cho thấy để giải quyết vấn đề khó khăn, mang tính nội tại của hệ thống chính trị kiểu Trung Quốc, và một phần tương tự là Việt Nam, người ta rất cần lý luận.
Tuy thế, như Giáo sư ĐH Harvard, Niall Ferguson viết trên trang Sunday Times tại Anh hôm 29/10/2017, 'chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc' thực chất chỉ là cách gọi khác đi của 'chủ nghĩa tư bản' do nhà nước quản trị.
Xem thêm về chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô: