Thứ Sáu, 13 tháng 1, 2017

CHỈ CÓ VIỆT NAM LÀ CÓ KHẢ NĂNG CHẶN ĐỨNG TRUNG QUỐC THÔN TÍNH ĐÔNG NAM Á

Doan Quang Minh 
Hình ảnh: những người gốc Hoa đã hoặc đang đứng đầu các chính phủ ở Đông Nam Á.
Chỉ có Việt Nam đủ tầm nhìn và thái độ cương quyết cũng như tiền lực để dẹp "nạn kiều". Nhờ vậy, Việt Nam không chịu nhiều ảnh hưởng và thao túng từ phía Trung Quốc. Cùng với vị trí địa lý nằm ở "Yết hầu", Việt Nam đã và đang là "tấm lá chắn" cho toàn bộ khu vực ĐNA trước mưu đồ bành trướng xuống phía Nam của cường quốc đông dân nhất thế giới này. Không nhiều người để ý và biết được tầm ảnh hưởng của người Hoa đối với các nước trong khu vực. Xin giới thiệu với các bạn các thông tin về người Hoa ở ĐNA để có thể hiểu rõ hơn vai trò của Việt Nam và vì sao, các cường quốc, nhất là Hoa Kỳ tìm mọi cách để ve vãn Việt Nam trong chiến lược kiềm tỏa Trung Quốc.
Do người Hoa chủ yếu tập trung ở Đông Nam Á và nắm trong tay huyết mạch kinh tế của một số nước, nên họ quả là một thế lực đáng gờm.
Người Hoa chủ yếu tập trung ở Đông Nam Á và lên tới trên 24 triệu người, chiếm 80% tổng người Hoa trên toàn thế giới. Cụ thể:
- Thái Lan, khoảng 9,5 triệu;
- Malaysia, hơn 7 triệu;
- Indonesia khoảng 6 triệu;
- Singapore, gần 3 triệu;
- Philippin, hơn 1 triệu;
- Myanma, hơn 1 triệu;
- Campuchia, hơn 1 triệu;
- Lào, khoảng 200 ngàn;
- Việt Nam, khoảng 800 ngàn.
Trong số này, có tới trên 80% người Hoa đã nhập quốc tịch nước sở tại.
Tài liệu khảo cứu của Trung Quốc cho biết hồi đầu thế kỷ 12 thời Nam Tống, người Hoa bắt đầu di cư ra nước ngoài và chủ yếu xuống khu vực Đông Nam Á Đến thế kỷ 16, có khoảng hơn 100.000 người Hoa ở khu vực này. Thời “Chiến tranh nha phiến”, có tới trên 1 triệu người Hoa ở nước ngoài. Trước ngày Trung Quốc giải phóng năm 1949, có hơn 10 triệu người Hoa ở nước ngoài, chủ yếu ở khu vực Đông Nam Á. Kể từ sau năm 1949 tới nay, số lượng người Hoa trên thế giới tăng vọt.
Tờ “Thời báo Trung Quốc” của Đài Loan vừa qua cho biết tính tới năm 1994, số lượng người Hoa ở hơn 160 nước và khu vực trên thế giới chừng hơn 30 triệu người. Tờ “Người hướng dẫn khoa học Cơ đốc giáo” của Mỹ cho biết tới tháng 3/1994, người Hoa trên thế giới có 30 triệu đến 40 triệu người.
Theo tạp chí “The Economist”, tiềm lực kinh tế người Hoa ở nước ngoài rất hùng hậu. Tài sản của người Hoa sống ngoài Trung Quốc đại lục (kể cả Hong Kong và Đài Loan) ước tính vào khoảng 1.500 - 2000 tỉ USD. Nếu trừ Hong Kong và Đài Loan, tài sản của người Hoa vẫn tới 920 tỉ USD. Dự trữ ngoại tệ của người Hoa ở nước ngoài năm 1992 tới trên 300 tỉ USD, trong khi dự trữ ngoại tệ cùng thời điểm của Trung Quốc lục địa cộng với Đài Loan, Hong Kong, Ma Cao cũng chỉ có hơn 400 tỉ USD.
Cuốn sách nhan đề “Khảo luận kinh tế người Hoa ở nước ngoài” xuất bản năm 1983 cho biết vốn kinh doanh của người Hoa ở nước ngoài khi đó đã lên tới 95 tỉ USD tiền vốn, trong đó có 65 tỉ USD ở Đông Nam Á. Tới nay, con số này đã được nhân lên gấp bội.
Tờ “Tiếng nói Hoa Kiều” của Trung Quốc cho biết tài sản của ngân hàng và công ty tài chính của người Hoa ở Đông Nam Á lên tới trên 50 tỉ USD. Người Hoa cũng nắm huyết mạch kinh tế của nhiều nước.
- Tại Indonesia, người Hoa chiếm 2,5% trong số 200 triệu dân, nhưng lại kiểm soát tới trên 70% kinh tế nước này - trong đó kiểm soát trên 75% ngành sản xuất bánh mì, miến, kiểm soát 80% ngành may mặc, 65% ngành nhuộm và 80% ngành lâm sản. Cuối năm1993, 68% doanh nghiệp quy mô lớn của Indonesia do người Hoa kiểm soát.
- Tại Thái Lan, người Hoa chiếm 10% dân số, nhưng chiếm trên 90% vốn của các doanh nghiệp và trên 50% vốn của ngành ngân hàng. Những ngân hàng quy mô lớn của người Hoa ở Thái Lan như Ngân hàng Thái Kinh có vốn tới 6,9 tỉ USD, Ngân hàng Nông dân Thái Hoa trên 6,7 tỉ USD, Ngân hàng điện tín Châu Á khoảng 5 tỉ USD, Ngân hàng Băng Cốc 6,2 tỉ USD, Ngân hàng Hoa Thái 6,7 tỉ USD, Ngân hàng thương mại Viễn La 4,6 tỉ USD. Ngân hàng và công ty tài chính của người Hoa ở Thái Lan có tài sản tới trên 22,2 tỉ USD lớn hơn tài sản 21,8 tỉ USD của Chính phủ và Hoàng gia Thái Lan cộng lại. Chính vì vậy mà địa vị người Hoa ở Thái rất cao, nhiều người gốc Hoa từng làm thủ tướng Thái Lan như Thủ tướng bị lật đổ Thaksin. Người gốc Hoa cũng chiếm một tỉ lệ đáng kể trong Chính phủ Thái Lan.
- Tại Philippin người Hoa chiếm chưa đầy 2% dân số, nhưng chiếm trên 35% kim ngạch thương mại của nước này. Thời gian qua, cũng có người gốc Hoa làm Tổng thống Philippines như bà Tổng thống Acquino và đặc biệt mới đây, Duterte tuyên bố ông ta là người gốc Hoa. Cùng với việc phản ứng gay gắt với Mỹ, Duterte đang "lái" Philippines ngả hẳn về phía Trung Quốc.
- Tại Malaysia, người Hoa là một dân tộc trung lưu được tổ chức tốt về mặt xã hội kinh tế và chiếm tỷ lệ cao không cân xứng trong tầng lớp chuyên nghiệp và được giáo dục tốt tại Malaysia, có thành tích giáo dục cao, có đại diện lớn trong lực lượng lao động cổ cồn trắng chuyên nghiệp, và là một trong số các nhóm nhân khẩu học thiểu số có thu nhập hộ gia đình cao nhất. Người Hoa chi phối trong các lĩnh vực thương nghiệp và mậu dịch, kiếm soát xấp xỉ 70% kinh tế Malaysia.
- Tại Singapore, do người Hoa chiếm tới 75% dân số, nên họ kiểm soát tất cả các mặt của đất nước từ chính quyền nhà nước tới các doanh nghiệp.
Trang Web “Hoa kiều” của Trung Quốc dẫn phát biểu của Giáo sư Lâm Kim Chi, Đại học Hạ Môn cho biết Trung Quốc đã thu hút FDI được 825 tỉ USD, vốn đăng ký nước ngoài tới 484 tỉ USD vào hơn 203.208 hạng mục công trình và xí nghiệp, riêng năm 2000 thu hút FDI được được 60 tỉ USD. Trong số này tới trên 55% của Hoa kiều, chủ yếu ở ĐNA đầu tư về nước.
Thời gian qua, Trung Quốc rất chú trọng tới chính sách và ưu đãi đối với Hoa Kiều, vì sự cống hiến và đóng góp kinh tế tài chính của họ cho công cuộc xây dựng kinh tế đất nước. Ngoài ra, Hoa Kiều ở những nước công nghiệp phát triển còn cung cấp cho Trung Quốc đại lục nhiều khoa học kỹ thuật và các công nghệ hiện đại của thế giới để Trung Quốc nhanh chóng đạt được những tiến bộ khoa học kỹ thuật vượt bậc thời gian qua.
Như vậy, rõ ràng trước 1975, việc người Hoa nắm gần trọn nền sản xuất, ngân hàng và thương mại của Sài Gòn không có gì là khó lý giải. Với việc họ nắm những khâu then chốt như vậy, vấn đề thao túng chính quyền VNCH chỉ còn là vấn đề thời gian, nhất là khi người Mỹ đã "buông" MNVN.
Sau 1975, chính quyền Việt Nam đã có chính sách rõ ràng và cương quyết về vấn đề người Hoa. Theo đó, những ai muốn làm ăn, sinh sống lâu dài ở Việt Nam thì phải nhập Quốc tịch Việt Nam và được đối xử công bằng, bình đẳng với mọi công dân Việt Nam khác. Những ai không muốn gia nhập quốc tịch Việt Nam thì vận động họ hồi hương về nước hoặc di cư ra nước ngoài. Cộng đồng người Hoa tại miền Nam, chủ yếu là ở TP. HCM đã phản ứng vì trước đó họ được chính quyền VNCH nuông chiều và nắm được hầu hết nền sản xuất, tài chính và thương mại ở MNVN, nay chính quyền mới không giành cho họ đặc quyền, đặc lợi nữa cùng với công cuộc cải tạo công thương nghiệp ở miền Nam làm cho người Hoa không còn khả năng thao túng được kinh tế MNVN. Trước tình hình đó, phía chính phủ Trung Quốc lấy lý do là bảo vệ Hoa Kiều đã có nhiều hành động thù địch với Việt Nam và cuối cùng là chiến tranh biên giới xảy ra. Còn ở trong nước, người Hoa lũ lượt bỏ đi, một bộ phận tình nguyện về quê hương được chính quyền Việt Nam tạo mọi điều kiện để hồi hương, nhiều người không chịu hồi hương nhưng cũng không muốn ở Việt Nam thì đã tìm đủ mọi cách di cư sang nước thứ ba. Đến nay, người Việt gốc Hoa là một dân tộc trong 54 dân tộc anh em, họ đa số là con cháu những người Hoa đã từng di cư sang Việt Nam từ lâu đời, dù nhiều người vẫn giữ phong tục, tập quán của người Hoa nhưng sống hoà đồng và tôn trọng pháp luật Việt Nam, được pháp luật bảo vệ và đối xử công bằng như mọi công dân khác. Có thể nói, cộng đồng người Hoa còn lại tại Việt Nam đã được Việt hoá, tiếp xúc, làm ăn với họ ta vẫn sẽ thấy đặc trưng của người Hoa nhưng không có nhiều khác biệt so với người Việt, càng không có sự kỳ thị, thù ghét, chia rẽ giữa người Hoa với cộng đồng cư dân bản địa. Ở Việt Nam hiện nay, ghi nhận có nhiều người Hoa thành đạt và giầu có. Tuy nhiên, người Hoa không thể thao túng kinh tế của Việt Nam nói chung hay của một địa phương nào nữa, càng không có cơ hội để thao túng nền chính trị của nước ta.
Nhờ Việt Nam luôn giữ được nền độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế, đồng thời trong đối nội ta không để bất kỳ tộc người ngoại lai nào thao túng nền kinh tế, chính trị của đất nước nên Việt Nam đủ cơ sở để tự tin rằng sẽ không có bất kỳ nước nào can thiệp được vào đường lối đối nội, đối ngoại của ta. Mặt khác, đường lối đối ngoại của Việt Nam luôn "nhẹ nhàng nhưng cương quyết", "mềm dẻo nhưng kiên định", sẵn sàng làm bạn và hợp tác tích cực với mọi đối tác nhưng quyết không chịu làm tay sai, con bài của bất kỳ thế lực nào, kể cả các cường quốc hàng đầu thế giới. Điều này đã được cả thế giới công nhận và những cường quốc như Pháp, Mỹ, Trung Quốc...hiểu rất rõ điều đó. Đành rằng thái độ "cứng đầu" của Việt Nam làm cho ta chịu nhiều thiệt thòi, đó là các cuộc chiến tranh tàn khốc với Pháp, Mỹ, Trung Quốc, đó cũng là nguồn viện trợ không mấy dồi dào của Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN thời chống Pháp và chống Mỹ. Sau 1975, Trung Quốc cắt viện trợ, Liên Xô thì cắt giảm và thay vào đó là cho vay và sau này ta đã phải đàm phán để trả nợ cho LB Nga. Nhưng ở khía cạnh tích cực, các cường quốc cũng đành phải chấp nhận thực tế là sẽ không thể giật dây được Việt Nam, không thể dùng vũ lực cũng như lợi ích kinh tế để khuất phục Việt Nam, chỉ có thể là hợp tác đôi bên cùng có lợi.
Trong bối cảnh hiện nay, ở khu vực Đông Nam Á, các nước lớn đều ít nhiều bị người Hoa thao túng về kinh tế, chính trị và rất ngại đối đầu với Trung Quốc dù đều biết và đều e ngại sự bành trướng của Trung Quốc đối với khu vực. Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Ấn Độ, Australia... đều đang rất lo ngại Trung Quốc sẽ vươn lên và thực hiện các tham vọng của họ làm đảo lộn trật tự quan hệ quốc tế vốn đã định hình và tương đối ổn định từ sau Đại chiến thế giới 2. Vì thế, một mặt Asean coi Việt Nam là "tấm lá chắn" trước mưu đồ thôn tính Đông Nam Á của Trung Quốc, mặt khác, các cường quốc đang coi Việt Nam là một trong những đối tác có thể kiềm chế tham vọng của Trung Quốc. Vì thế, bên cạnh việc hợp tác với Việt Nam về chính trị và quốc phòng, các nước cũng tăng cường hợp tác và hậu thuẫn cho Việt Nam phát triển kinh tế vì, nói như các cụ nhà ta, "có thực mới vực được đạo". Muốn đảm bảo Việt Nam có khả năng "đề kháng" trước âm mưu thao túng và can thiệp từ Trung Quốc thì kinh tế Việt Nam phải mạnh hơn nữa, đủ sức để vừa củng cố quốc phòng, tăng cường an ninh, thiết lập địa vị chính trị trên trường quốc tế, vừa đủ mạnh để chống chịu được trước những đòn đánh bằng kinh tế của cường quốc hàng đầu thế giới này. Chúng ta thấy rõ ràng, Việt Nam ít được nhận viện trợ cho không, thế nhưng ODA và các khoản tài trợ từ WB, IMF vẫn đang giúp Việt Nam xây dựng cơ sở hạ tầng cho kinh tế phát triển bền vững trong trung và dài hạn. Bên cạnh đó, FDI chảy vào Việt Nam cũng không ngừng tăng lên, nhiều chính phủ khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam, điển hình là Nhật Bản và Hàn Quốc. Nhưng FDI vẫn chưa phải là dấu ấn đậm nét nhất về sự hợp tác và hỗ trợ của các cường quốc với Việt Nam. Lĩnh vực nổi bật và giúp Việt Nam tạo nên động lực quan trọng nhất cho tăng trưởng là thương mại quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã tham gia vào mọi sân chơi đa phương và ký được hiệp định thương mại song phương với hầu hết các đối tác thương mại hàng đầu thế giới, giúp Việt Nam đạt được tỷ trọng xuất nhập khẩu so với GDP khá cao, đứng hàng đầu trong khu vực Đông Nam Á, chỉ xếp sau Singapore. Đến nay, Việt Nam đã chiếm lĩnh và vượt lên trong thương mại với các nền kinh tế lớn nhất của thế giới như Mỹ, Trung Quốc, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc... tại các thị trường này, Việt Nam đều đã vươn lên top 3 của khu vực Đông Nam Á, nhiều chỉ số đứng hàng đầu như Xuất khẩu vào thị trường Mỹ, Thương mại 2 chiều với EU.
Như vậy, từ thực tế quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, cho đến những động thái gần đây đối với Việt Nam của các cường quốc khác. Từ tiếng vọng của lịch sử cho đến những cuộc đối đầu căng thẳng gần đây khi Trung Quốc có những hành động xâm hại chủ quyền của Việt Nam. Từ việc Việt Nam không ngừng củng cố quốc phòng, an ninh và địa vị chính trị trong khu vực và trên trường quốc tế cho tới vấn đề đối nội nhằm ổn định chính trị, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tất cả đều cho thấy, Việt Nam đã, đang và sẽ chống chịu được sự thao túng, thôn tính của Trung Quốc. Điều này, vừa là niềm tự hào và là lợi ích to lớn đối với dân tộc Việt Nam, vừa là lý do để các đối tác quốc tế tin tưởng, nể phục và mong muốn tăng cường hợp tác sâu rộng với Việt Nam, giúp Việt Nam phát triển bền vững và ổn định trong tương lai.
ThíchHiển thị thêm cảm xúc
Bình luận

Không thấy ông Tập Cận Bình thảo luận mà chỉ thấy TBT Nguyễn Phú Trọng " độc thoại" về Biển Đông ?

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thảo luận về Biển Đông với Chủ tịch Trung Quốc

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhất trí kiểm soát bất đồng, giữ gìn hòa bình, ổn định và thúc đẩy hợp tác ở Biển Đông.

tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-thao-luan-ve-bien-dong-voi-chu-tich-trung-quoc
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: TTXVN
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam chiều nay đến thủ đô Bắc Kinh, bắt đầu chuyến thăm chính thức Trung Quốc từ ngày 12 đến 15/1 theo lời mời của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Sau lễ đón chính thức, Tổng Bí thư đã hội đàm với Chủ tịch Trung Quốc về các định hướng lớn nhằm đẩy mạnh hợp tác giữa hai nước, trong đó có vấn đề trên biển.
Hai nhà lãnh đạo cho rằng đây là vấn đề tồn tại chủ yếu của quan hệ Việt -Trung, là vấn đề phức tạp và hệ trọng, tác động rất lớn đến cục diện quan hệ hai nước, cũng như cục diện và tình hình khu vực, thế giới.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam kiên trì giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, thực hiện đầy đủ và hiệu quả "Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC)", cùng ASEAN sớm hoàn tất "Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển Đông (COC)".
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình đón Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hội đàm với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ảnh:TTXVN
Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh cần tuân thủ nhận thức chung mà hai nước đã đạt được và "Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam - Trung Quốc", sử dụng cơ chế đàm phán để tìm kiếm giải pháp chung.
Hai bên cũng nhất trí cần thúc đẩy hợp tác trên biển sau khi hoàn thành khảo sát chung tại vùng biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Hai bên khẳng định tiếp tục thực hiện toàn diện và hiệu quả DOC, sớm xây dựng COC, kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, giữ gìn hòa bình, ổn định ở Biển Đông.
Ngoài ra, hai nhà lãnh đạo cũng trao đổi về các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khoa học công nghệ, nông nghiệp, môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu.
Thay mặt Đảng và Nhà nước Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã mời Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình sang thăm chính thức Việt Nam và dự Hội nghị Cấp cao APEC 2017. Chủ tịch Trung Quốc cảm ơn và vui vẻ nhận lời.
Sau khi kết thúc hội đàm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Chủ tịch Tập Cận Bình đã chứng kiến Lễ ký kết 15 văn kiện hợp tác giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Tối cùng ngày, tại Đại lễ đường Nhân dân, Chủ tịch Tập Cận Bình đã chủ trì tiệc chiêu đãi trọng thể chào mừng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam.
Anh Ngọc

Biệt Ðội Thiên Nga

Hung Le đã thêm 3 ảnh mới.
Cựu Biệt Ðội Trưởng Thiên Nga
(Khối Ðặc Biệt - Bộ Tư Lệnh CSQG)
Biệt Ðội Thiên Nga ra đời trong những năm cao điểm của cuộc chiến tranh bảo quốc của quân dân Miền Nam đối với bọn xâm lược Cộng Sản phương Bắc. Sau năm 1954, nền Ðệ Nhất Cộng Hòa đã được hình thành ở Miền Nam Việt Nam, do đó lực lượng Cảnh Sát Quốc Gia cũng được củng cố lại để lo an ninh quốc gia và bảo vệ mọi tầng lớp dân chúng. Thành phần nữ nhân viên trong lực lượng cảnh sát vẫn còn được sử dụng hạn chế trong các phần vụ như: văn phòng hành chánh, kiểm soát tài nguyên, cảnh sát an ninh phi cảng, hải cảng, cảnh sát ngoại kiều, tiếp tân, trại giam, giáo dục v.v... Những nữ nhân viên này dược tuyển dụng tùy theo nhu cầu công tác, theo từng giai đoạn, chớ chưa có một trường lớp chánh qui nào v.v...
Mãi cho đến cuối năm 1965, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa mới mở một Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia, nhận thi tuyển cả nam và nữ sinh viên sĩ quan Cảnh Sát. Ðiều kiện tối thiểu về trình độ học vấn là có bằng cấp Tú Tài I trở lên. Sau khi tốt nghiệp, các nữ sĩ quan Cảnh Sát được phân phối về Tổng Nha Cảnh Sát, Khối Ðặc Biệt và một số ít được phân phối về các Nha, Tỉnh thuộc bốn vùng chiến thuật của Miền Nam Việt Nam.
Sau hai lần đẩy lui các cuộc tổng tấn công của Việt Cộng vào Miền Nam Việt Nam trong Tết Mậu Thân và Tháng Năm 1968, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cần tăng cường lực lượng cảnh sát trong việc bảo vệ an ninh đất nước, ngăn chận Việt Cộng xâm nhập Miền Nam Việt Nam bằng đường bộ cũng như đường thủy. Vai trò cảnh sát được đặt nặng và quan trọng hơn, đặc biệt là sự cần thiết để có một tổ chức toàn những nữ cảnh sát để hoạt động trong công tác tình báo, hoạt động riêng rẽ hay phối hợp với các công tác của nam cảnh sát đang hoạt động.
Tháng Tám 1968, do một Sự Vụ Văn Thư của Bộ Tư lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, quyết định thành lập một tổ chức toàn là nữ nhân viên, có tên gọi là “Biệt Ðội Thiên Nga”, trực thuộc Khối Ðặc Biệt thuộc Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia, hoạt động độc lập, song song với các tổ chức đã được thành lập trước đó. Nhiệm vụ của Biệt Ðội Thiên Nga là sưu tầm, phân tích tin tức, tổ chức xâm nhập và phá vỡ các tổ chức, các hạ tầng cơ sở của Việt Cộng tại thủ đô Sài Gòn cũng như tại các tỉnh địa phương trên toàn miền Nam Việt Nam.
Công việc khởi đầu gặp rất nhiều khó khăn, từ vấn đề tuyển mộ, đào tạo nhân viên... cho đến các công tác tìm đầu mối, xây dựng cơ sở, giám thị v.v...
Biệt Ðội Thiên Nga Trung Ương có văn phòng tại Khối Ðặc Biệt, Biệt Ðội Thiên Nga Thủ Ðô và 11 quận có văn phòng tại Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia Thủ Ðô và tại Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quận Ðô thành, Biệt Ðội Thiên Nga Vùng I, II, III, IV và tại các tỉnh trên toàn quốc từ Quảng Trị đến Cà Mau.
Biệt Ðội Thiên Nga Trung Ương có 4 ban:
- Ban Hành Chánh
- Ban Tổ Chức Phát Triển
- Ban Huấn Luyện
- và Ban Hoạt Vụ
Nhiệm vụ của Thiên Nga Trung Ương là thành lập cơ sở văn phòng, tuyển mộ nhân viên, tổ chức huấn luyện, tìm đầu mối, phát triển công tác. Ðồng thời, Biệt Ðội Thiên Nga Trung Ương đôn đốc và hướng dẫn các Bộ Chỉ Huy Cảnh Sát Quốc Gia, thành lập Biệt Ðội Thiên Nga địa phương ở 11 quận Ðô Thành và tại các tỉnh.
Biệt Ðội Thiên Nga địa phương tuyển mộ nữ nhân viên gửi về Biệt Ðội Thiên Nga Trung Ương ở Sài Gòn để đưa đi thụ huấn các khóa học tình báo tại trường Tình Báo Trung Ương. Các phụ nữ được tuyển mộ phải có ít nhất là văn bằng trung học đệ nhất cấp hoặc cao hơn, ngoại trừ các quả phụ của Cảnh Sát không đòi hỏi điều kiện văn bằng như trên, nhưng ít nhất phải có bằng tiểu học.
Các nữ nhân viên được tuyển lựa này gồm đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần khác nhau trong xã hội: có thể là người bán rau cải ở chợ, bán hàng rong, bán vé xe bus, nhân viên bưu điện, điện lực, thư ký văn phòng, học sinh sinh viên, cô giáo và vũ nữ v.v... Các nữ nhân viên lần lượt được học qua các lớp tình báo căn bản (4 tuần), theo dõi (6 tuần), cán bộ điều khiển (8 tuần)... và đặc biệt là khóa tác xạ tại trường Tình Báo Trung Ương. Khóa sinh phải đủ điểm cho lớp trước mới có thể lên lớp kế tiếp. Trong thời gian thụ huấn, các khóa sinh phải ở nội trú và mang bí số. Việc giảng dạy do các giảng viên trường tình báo phụ trách, còn giám thị do các nhân viên Thiên Nga Trung Ương đảm nhận. Các khóa sinh sau khi thụ huấn chuyên môn trở về đơn vị tại các địa phương, nơi đã gửi đi học và bắt đầu nhận công tác do các ngành Ðặc Biệt phân nhiệm. Công tác trực thuộc sự hướng dẫn của ptá Ðặc Biệt địa phương và báo cáo thành quả công tác về Thiên Nga Trung Ương.
Tại Trung Ương, ngoài các lớp kể trên, các nữ nhân viên Thiên Nga còn theo học các lớp kỹ thuật như: nhiếp ảnh (chụp hình bí mật), học lái xe gắn máy và xe hơi, một số được học thêm các lớp thẩm vấn. Biệt Ðội Trưởng, Phụ Tá Biệt Ðội Trưởng Thiên Nga Trung Ương và các Cán Bộ Ðiều Khiển đều là các nữ sĩ quan Cảnh Sát tốt nghiệp khóa I Học Viện Cảnh Sát Quốc Gia. Riêng Biệt Ðội Trưởng và Phụ Tá đã tốt nghiệp thêm khóa Trưởng Phòng Ðặc Biệt tại trường Tình báo Trung Ương vào các năm 1968-1969.
Ngoài các nữ sĩ quan và nhân viên Cảnh Sát chính thức, Biệt Ðội Thiên Nga còn sử dụng một số rất đông nữ hồi chánh viên, nữ can phạm chính trị, các công nhân hãng xưởng, nhân viên các cơ quan chính phủ (ngoài cơ quan Cảnh Sát), các bạn hàng chợ, các sinh viên trường trung học và đại học... để làm mật báo viên cho Biệt Ðội. Số cộng tác viên cộng tác nhiều gấp rất nhiều lần số nhân viên chính thức.
Các nhân viên Trung Ương đi công tác hoạt vụ đều có học khóa chuyên môn tình báo để được hướng dẫn rõ ràng chi tiết công tác họ phải đảm nhận cũng như cách thức bảo vệ an ninh tối đa cho họ. Các nữ nhân viên hoạt vụ đều có bí số và bí danh. Tùy vào công tác, họ được tạo cho một ngụy tích với tất cả giấy tờ tùy thân và lý lịch mới.
Nhằm đáp ứng nhu cầu bảo mật công tác, Biệt Ðội Thiên Nga Trung Ương có những kiosque buôn bán lẻ, có điện thoại công cộng để làm nơi liên lạc (hộp thư sống và chết) v.v... và một nhà an toàn làm nơi tiếp xúc với tình báo viên, mật báo viên, nhất là các tình báo viên từ mật khu về.
Vì là Biệt Ðội Tình Báo nữ mang tên loài chim Thiên Nga, nên mỗi kế hoạch công tác đều có ám danh của một loài chim khác như Sơn Ca, Họa Mi, Hải Âu, Hoàng Oanh, Hoàng Yến v.v... Còn các công tác phối hợp với các cơ quan bạn thì dùng ám danh của sông núi như Trùng Dương, Trường Sơn v.v... Do sự thay đổi cơ cấu của Khối Ðặc Biệt và để thích ứng với tình hình chính trị phức tạp nên cuối năm 1972, Biệt Ðội Thiên Nga mang ám danh mới Ðoàn Ðặc Nhiệm G4231g để bảo mật hoạt động.
Song song với việc xây dựng tổ chức, đào tạo nhân viên, Biệt Ðội Thiên Nga Trung Ương luôn nỗ lực tìm đầu mối, lập kế hoạch công tác, tìm cách xâm nhập, len lỏi vào các hội đoàn phụ nữ Việt Nam, hội đoàn bạn hàng các chợ, Hội Phụ Nữ Ðòi Quyền Sống, các lực lượng đấu tranh thuộc thành phần thứ ba, các thành phần tôn giáo khuynh tả có Việt Cộng sách động, các tổ chức sinh viên học sinh đấu tranh thân Cộng Sản để kịp thời ngăn chặn những tên Việt Cộng nằm vùng, triệt phá những âm mưu có nguy hại cho an ninh quốc gia. Không những thế, Biệt Ðội Thiên Nga còn xâm nhập vào tận mật khu của Việt Cộng để thu thập tin tức tình báo góp phần tiêu diệt các cơ sở đầu não của Cộng Sản.
Nhìn lại quá trình công tác của các nữ nhân viên Thiên Nga, phải thừa nhận rằng công việc của họ rất nguy hiểm, tánh mạng lúc nào cũng bị đe dọa. Qua các tài liệu tịch thu được của Việt Cộng, sau những thất bại nặng nề, chúng rất đề cao cảnh giác “nữ Thiên Nga”. Việt Cộng luôn tìm cách để bắt cóc, đụng xe gây án mạng hay ám sát những ai chúng nghi ngờ là nhân viên Thiên Nga. Còn các nhân viên Thiên Nga len lỏi vào các hội đoàn, tham dự các cuộc biểu tình, tuyệt thực, chống đối nên cũng phải chịu “hưởng” hơi cay, dùi cui của Cảnh Sát. Các chị em Thiên Nga còn phải hy sinh những tình cảm riêng tư, thời gian dành cho gia đình, vượt qua nhiều khó khăn trở ngại để làm tròn bổn phận công dân yêu nước đấu tranh cho lý tưởng tự do.
Thật khó có thể ghi lại hết những chiến công thầm lặng của các nữ chiến sĩ tình báo Thiên Nga, tuy vậy những công tác sau đây là vài ví dụ điển hình về các hoạt động của Biệt Ðội Thiên Nga.
Một trong các công tác mà Việt Cộng vẫn còn tức tối là việc cung cấp lương thực thực phẩm cho phái đoàn Quân Sự Bốn Bên vào họp tại trại David, Tân Sơn Nhất SàiGòn. Mặc dù chúng nghi ngờ nên chúng đề nghị để tự chúng chọn nhà thầu cung cấp thực phẩm cho hai phái đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (tức Cộng Sản Bắc Việt) và Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, nhưng cuối cùng nhà thầu chúng chọn lại là của Biệt Ðội Thiên Nga. Công tác này mang ám danh là Trùng Dương, hoạt động cho đến ngày cuối cùng 28 Tháng Tư 1975.
- Công tác mang ám danh là Hải Âu đã cài được một nhân viên Thiên Nga vào hội đoàn phụ nữ đối lập và tạo được niềm tin nên được Việt Cộng chọn đi học lớp tình báo và hoạt động chung với chúng.
- Công tác len lỏi vào Hội Phụ nữ Ðòi Quyền Sống, hoạt động chung với một cán bộ nằm vùng. Mãi đến sau 1975, tên nữ cán bộ mới biết người thư ký của ban xã hội là nhân viên Thiên Nga. Lúc ấy, tên nữ cán bộ là Ðại úy Công an tức tối đề nghị gia tăng 6 tháng tù trong khi chị nhân viên Thiên Nga đã có giấy ra trại. Công tác này mang ám danh Họa Mi.
- Trong 5 năm liền, một nữ huyện ủy viên của Việt Cộng đã hợp tác với Biệt Ðội Thiên Nga. Sau 30 Tháng Tư 1975, chị vẫn giữ chức Huyện ủy của một Huyện gần Saigon. Cho đến sáu tháng sau đó, Việt Cộng mới truy ra được từ hồ sơ còn sót lại ở địa phương, nên đã khai trừ chị khỏi Ðảng Cộng Sản và giam chị ở Chí Hòa. Chị đã may mắn không bị chúng xử tử hình. Sau tôi gặp lại chị tại trại Hàm Tân, chị mới vỡ lẽ tôi -người tên Năm tiếp xúc với chị năm xưa- là Thiếu Tá Biệt Ðội Trưởng Thiên Nga. Công tác này được mang tên Hoàng Oanh.
Các công tác, hoạt động của Thiên Nga càng thành công tốt đẹp bao nhiêu thì Việt Cộng càng tức tối lên án, càng đề cao cảnh giác với nhân viên Thiên Nga. Do đó những bản án không xét xử trả thù hèn hạ dành cho các nữ nhân viên Thiên Nga của Cộng Sản là từ 3 năm đến 13 năm trong các trại tù cải tạo. Tuy vậy các chị em nhân viên của Thiên Nga vẫn hãnh diện, giữ vững nhân cách, lập trường, vượt qua những gian lao của năm tháng tù đày.
Tôi rất xúc động khi phải nhắc lại quá khứ của Biệt Ðội Thiên Nga, với những anh thư đã đem hết những hăng say, nhiệt tình, tinh thần chống Cộng mãnh liệt của tuổi trẻ, hiến dâng để bảo vệ đất nước miền Nam Việt Nam. Tôi rất hãnh diện về Biệt Ðội Thiên Nga, các nữ nhân viên từ Hạ Sĩ Quan cho đến Sĩ Quan, cùng các cộng tác viên đã giữ trọn khí tiết trong lúc sống khổ sở trong lao tù hay trong sự kèm kẹp của chế độ Cộng Sản ngoài xã hội, sau khi được thả về.
Tôi mong ước một ngày gần đây, những nữ Thiên Nga hải ngoại sẽ gặp lại các bạn Thiên Nga còn ở lại Việt Nam, tay bắt mặt mừng trong niềm vui thấy đất nước thật sự có tự do dân chủ.
Tôi viết bài này, cũng mong quý bạn có cái nhìn rõ hơn về người Cảnh Sát Quốc Gia, trong đó có những nữ Cảnh Sát, những chị bán hàng, những anh chị em sinh viên... đã có một thời hiến dâng xương máu cho đất nước.
Cuối cùng, xin được thắp nén hương cho những Thiên Nga đã hy sinh trước và sau ngày 30 Tháng Tư 1975 trên khắp mọi nẻo đường Việt Nam.
Nguyễn Thanh Thủy
ThíchHiển thị thêm cảm xúc
Bình luận

Nhân sự cấp cao quân đội Trung Quốc ưu tiên người thạo tác chiến Biển Đông

HỒNG THỦY

(GDVN) - Viên Dự Bách là một cựu chỉ huy trưởng tàu ngầm đang nằm trong tầm ngắm của các nhà lãnh đạo cao nhất cho vị trí phụ trách tác chiến trên hướng Biển Đông.
South China Morning Post ngày 13/1 dẫn 4 nguồn tin độc lập cho biết, quân đội Trung Quốc có khả năng phá vỡ truyền thống nếu đề nghị bổ nhiệm một sĩ quan hải quân làm Tư lệnh Chiến khu Nam.
Cuộc cải tổ bộ máy chỉ huy Chiến khu Nam vốn là đại quân khu Quảng Châu trước kia, phụ trách hạm đội Nam Hải hoạt động ở khu vực Biển Đông cũng nhấn mạnh tầm quan trọng ngày càng tăng của hải quân trong cơ cấu quân đội.
Thời gian này, Trung Quốc cũng đang chuẩn bị nhân sự thay thế ông Ngô Thắng  Lợi, Tư lệnh hải quân đã đến tuổi nghỉ hưu. Ông Lợi năm nay 71 tuổi.
Ông Viên Dự Bách khi còn đeo hàm Chuẩn Đô đốc (Thiếu tướng hải quân), ảnh: internet.
Một Đại tá quân đội Trung Quốc về hưu tại Bắc Kinh nói với South China Morning Post: Nhiệm vụ chính hiện nay và trong tương lai của Bộ tư lệnh Chiến khu Nam là tập trung vào hoạt động của hải quân, đặc biệt là ở Biển Đông.
Do đó chỉ huy của lực lượng này phải có kinh nghiệm triển khai, tác chiến trên biển, điều phối hiệp đồng quân binh chủng. Các nhân sự từ lục quân không đáp ứng yêu cầu này.
Nếu đề xuất này được thông qua, Phó Đô đốc Viên Dự Bách, Phó tư lệnh Chiến khu Bắc dường như là ứng viên hàng đầu cho ghế Tư lệnh Chiến khu Nam, các nguồn tin cho biết.
Vị Đại tá về hưu kia cho hay, Viên Dự Bách là một cựu chỉ huy trưởng tàu ngầm đang nằm trong tầm ngắm của các nhà lãnh đạo cao nhất cho vị trí phụ trách tác chiến trên hướng Biển Đông.
70 năm qua, đại quân khu Quảng Châu và bây giờ là Chiến khu Nam có địa bàn hoạt động trên toàn tuyến biên giới giáp Myanmar và Việt Nam, Biển Đông, với 4 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Nam và Hải Nam, thường do một tướng lục quân lãnh đạo.
Còn ứng viên sáng giá cho chức Tư lệnh Hải quân Trung Quốc thay thế ông Ngô Thắng Lợi, theo các nguồn tin của South China Morning Post, là Phó Đô đốc Thẩm Kim Long, Tư lệnh Hạm đội Nam Hải đương nhiệm.
Các thông tin về khả năng bổ nhiệm 2 tướng Viên Dự Bách và Thẩm Kim Long đứng đầu Chiến khu Nam, Bộ Tư lệnh Hải quân Trung Quốc được xác nhận bởi một nguồn tin quân sự thân cận Bộ Tư lệnh Chiến khu Nam, và một doanh nhân đại lục.
Nếu ông Thẩm Kim Long  trở thành Tư lệnh Hải quân tiếp theo của Trung Quốc, sẽ là tin gây ngạc nhiên cho nhiều nhà quan sát quân sự nước này cũng như quốc tế.
Trong trường hợp này, ông Long sẽ vượt qua một số nhân sự được các nhà quan sát đánh giá cao như Phó Đô đốc Khâu Diên Bằng, Tham mưu trưởng Hải quân đương nhiệm và Phó Đô đốc Vương Hải - Phó Tư lệnh Hải quân đương nhiệm.
Tài liệu tham khảo:
Hồng Thủy

Để xem: Trung Quốc có ép Việt Nam không mua hỏa tiễn Ấn Độ ?

Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình mời Tổng Bí Thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng một tiệc trà đàm đặc biệt mà TTXVN khoe là, một việc “chưa có tiền lệ.” (Hình: Tân Hoa Xã)

Tổng Bí Thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đã đến Bắc Kinh hội đàm với Chủ Tịch Trung Quốc Tập Cận Bình hôm 12 Tháng Giêng, 2017. Dịp này, có thể ông Trọng bị ép đừng mua hỏa tiễn của Ấn Độ.

Báo Ấn Độ “Times of India” dẫn một nguồn tin không nêu tên nói rằng ông Nguyễn Phú Trọng rất có thể bị áp lực hủy bỏ việc mua hỏa tiễn phòng không của Ấn Độ. Mấy ngày gần đây, “Times of India” cho hay hiện đang có thương lượng để Ấn Độ cung cấp cho Việt Nam một số giàn hỏa tiễn phòng không tầm trung Akash do Ấn Độ sản xuất.


Khi thấy tin này, Bắc Kinh cho tờ Hoàn Cầu Thời Báo lên giọng đe nẹt rằng sự hợp tác quân sự giữa Ấn Độ với Việt Nam thì chỉ nên đóng góp cho hòa bình và ổn định ở khu vực, chứ đừng “gây rối hoặc làm người khác âu lo.” Báo này còn cảnh cáo là Bắc Kinh “sẽ không khoanh tay ngồi yên.”

Báo Ấn Độ cho rằng Bắc Kinh muốn mình là trùm tối cao ở Á Châu, không muốn nước nào khác tranh giành ảnh hưởng và mối hàng, kể cả việc mua bán võ khí. Đó là lý do tại sao Bắc Kinh chống không cho Ấn Độ gia nhập nhóm các nước cung cấp hạt nhân (Nuclear Suppliers’s Group) vì có thể giúp Ấn Độ khuếch trương kỹ nghệ nguyên tử. Đồng thời, nếu Ấn Độ xuất cảng được thêm nhiều vũ khí ra nước ngoài sẽ làm Bắc Kinh thêm căng thẳng, nhất là chính phủ sắp tới đây của Mỹ đang có những dấu hiệu bất lợi cho Trung Quốc.

Cả Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN) và Tân Hoa Xã đều loan báo chuyến viếng thăm Bắc Kinh của ông Nguyễn Phú Trọng với những lời lẽ đề cao “16 chữ vàng” và “4 tốt” trong tinh thần “đồng chí và anh em.”

Làm quà cho chuyến viếng thăm, cả hai ông Nguyễn Phú Trọng và Tập Cận Bình đã chứng kiến các cuộc ký kết 15 văn bản hợp tác và ghi nhớ từ an ninh quốc phòng tới đường sắt, thương mại. Trong đó, gồm cả “Công thư trao đổi về việc hỗ trợ kỹ thuật lập quy hoạch tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng. Tuyên bố tầm nhìn chung về hợp tác quốc phòng giữa Bộ Quốc Phòng Việt Nam và Bộ Quốc Phòng Trung Quốc đến năm 2025. Hiệp định khung hợp tác cửa khẩu biên giới đất liền giữa Bộ Quốc Phòng Việt Nam và Tổng Cục Hải Quan Trung Quốc.”

TTXVN kể rằng ngoài việc tiếp đón ông Nguyễn Phú Trọng ở “Đại sảnh nhân dân,” ông Tập Cận Bình còn mời riêng ông Trọng một buổi “trà đàm” với loại trà đặc biệt của tỉnh Phúc Kiến như một cách bầy tỏ “sự coi trọng và thiện chí” của chủ nhà.

Dịp này, người ta tin rằng Tập Cận Bình mới nói những gì muốn nói với phía Hà Nội, từ chuyện giải quyết tranh chấp Biển Đông, đến chuyện Hà Nội đu dây giữa Washington và Bắc Kinh và mồi dụ dỗ thương mại phối hợp “Hai hành lang, một vành đai” của Việt Nam chủ xướng với sáng kiến “Một vành đai, một con đường” của Trung Quốc.

Trên bề mặt, người ta thấy TTXVN thuật lại rằng “Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định Việt Nam luôn hết sức coi trọng quan hệ với Trung Quốc và chân thành mong muốn phát triển quan hệ hữu nghị bền vững và hợp tác toàn diện cùng có lợi với Trung Quốc, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, thịnh vượng trong khu vực và trên thế giới.”

“… Hai nhà lãnh đạo đã đi sâu trao đổi về các định hướng lớn nhằm tăng cường tin cậy, củng cố hữu nghị, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hợp tác thực chất trên các lĩnh vực, duy trì hòa bình, ổn định trên biển, đưa quan hệ Việt Nam-Trung Quốc tiếp tục phát triển lành mạnh, bền vững trong thời gian tới.

Ông Nguyễn Phú Trọng dịp này cũng chỉ lập lại “lập trường nhất quán” của Việt Nam là “kiên trì giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công Ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982, tôn trọng tiến trình ngoại giao và pháp lý; thực hiện đầy đủ và hiệu quả “Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC),” phấn đấu cùng ASEAN sớm hoàn tất “Bộ Quy Tắc Ứng Xử Trên Biển Đông (COC).”

Và người ta lại thấy giống như bản tuyên bố chung của hai ông hồi hơn 5 năm trước là “Hai nhà lãnh đạo nhấn mạnh cần tuân thủ nhận thức chung quan trọng mà lãnh đạo hai đảng, hai nước đã đạt được và “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc”; sử dụng tốt cơ chế đàm phán để tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được; tích cực nghiên cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ trương của mỗi bên, bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp tác cùng phát triển.”

Với nội dung tương tự nhưng viết ngắn gọn hơn, Tân Hoa Xã nói rằng “về tranh chấp trên biển, ông Tập Cận Bình thúc giục hai bên gia tăng trao đổi thông tin và củng cố lòng tin lẫn nhau để đặt nền móng chính trị vững chắc cho giải quyết tranh chấp và hợp tác với nhau về thăm dò trên biển.”

(Người Việt)

Ghi nhận: Thủ tướng Phúc thỉnh thoảng có những cú " vào bóng", " chọc khe" bất ngờ và đáo để












LĐO T.L

Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tặng ảnh Bác Hồ cho Bộ Y tế
Chiều 12.1, Bộ Y tế tổ chức Hội nghị trực tuyến triển khai công tác y tế năm 2017 tại hơn 700 điểm cầu ở tuyến xã, huyện, thành phố trực thuộc Trung ương. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam và Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến chủ trì hội nghị.
Ngành y tế đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ
Tại hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc cho rằng: Năm 2016, ngành y tế đã làm tốt công tác dự phòng, không để dịch bệnh hoành hành. Thực hiện đồng bộ giải pháp giảm quá tải bệnh viện, nâng cao chất lượng khám chữa bệnh, cơ sở vật chất tiếp tục được tăng cường, trình độ chuyên môn của đội ngũ y bác sĩ tiếp tục tăng lên thông qua đào tạo… Vấn đề cải cách thủ tục hành chính, nâng cao y đức được phổ biến toàn ngành. Chúng ta tự hào trong đội ngũ y bác sỹ có tay nghề cao, được quốc tế đánh giá cao. Cơ sở vật chất được tăng lên, kể cả BV nhà nước, tư nhân, trong nước, nước ngoài. Nhiều tấm gương chữa bệnh cho người nghèo, cho nhân dân, mang tính nhân văn sâu sắc.
"Điều đặc biệt là chú trọng kỹ thuật hiện đại, nhiều kĩ thuật mới được áp dụng vào nước ta. Ứng dụng công nghệ trong một thế giới phẳng là rất quan trọng. Tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế trên 81%, vượt chỉ tiêu đề ra. Tôi biểu dương bảo hiểm xã hội và các địa phương đã nỗ lực nâng cao tỉ lệ bảo hiểm y tế. Phấn đấu 2020 tỉ lệ cao hơn nữa. Vấn đề kinh tế tài chính trong y tế được chú trọng, tính đúng tính đủ vào giá dịch vụ y tế. Tiếp tục hỗ trợ cho người nghèo, vùng sâu vùng xa, đặc biệt khó khăn. Công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm đã có tiến bộ. Tăng cường kiểm tra xử lý sai phạm, xử lý quyết liệt của chính quyền địa phương, số vụ ngộ độc thực phẩm tập thể giảm hẳn"- Thủ tướng nói. 
Bộ Y tế cũng đã hoàn thiện cơ chế khu mua sắm đấu thầu tập trung thuốc quốc gia. Ngành y tế chủ động phát động tinh thần biết ơn, phục vụ bệnh nhân tại cơ sở y tế, được hưởng ứng. Xử lý trên 6.000 cán bộ y tế vi phạm đạo đức. 80- 90% người dân hài lòng về chất lượng phục vụ của ngành y tế.
Thủ tướng biểu dương công nghiệp dược, y học dân tộc bước đầu có phát triển. Trong các vụ lũ lụt, hạn hán, việc cung cấp thuốc kịp thời hơn. "Chúng tôi đánh giá cao nhiều bệnh viện tốt như BVĐK tỉnh Phú Thọ dám nghĩ dám làm, vay 1.500 tỉ đồng làm khu dịch vụ mới, phục vụ người dân. Dịch vụ và chất lượng cao không khác BV tuyến trên. Các BV tư nhân cũng rất cần được khuyến khích", Thủ tướng nói.
"Bỏ quên kéo trong bụng bệnh nhân là điều cấm kỵ"
Phát biểu chỉ đạo hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao những kết quả đạt được của ngành y tế trong năm qua, đồng thời cũng nêu ra những tồn tại còn khá nhiều trong ngành y tế. Quá tải bệnh viện vẫn còn là vấn đề bức xúc hiện nay chưa giải quyết được, việc 2, 3 người bệnh nằm chung 1 giường là chuyện bình thường. Ngành y tế còn để xảy ra những sự cố đáng tiếc do lỗi của cán bộ y tế. Việc bỏ quên kéo trong bụng bệnh nhân, mãi đến nay mới phát hiện ra là điều cấm kỵ, không thể để xảy ra được. Vấn đề quản trị bệnh viện còn bất cập để xảy ra những vụ việc không đáng có như độc quyền cung cấp dịch vụ trong bệnh viện, chưa chú trọng đào tạo cán bộ quản trị bệnh viện.
"Cải cách thủ tục hành chính chưa đáp ứng được yêu cầu, vẫn còn tình trạng người bệnh xếp hàng rồng rắn lê thê để lấy số, để nộp tiền viện phí, gây bức xúc cho bệnh nhân. Văn minh bệnh viện ít được thực hiện. Việc xây dựng một số BV TƯ tuyến cuối chậm tiến độ. Về quản lý dược phẩm còn nhiều bất cập, không công minh, minh bạch, ảnh hưởng đến lợi ích của người dân. Công tác quản lý y tế, bảo hiểm y tế còn nhiều bất cập. Tôi ví dụ, Nghệ An, Thanh Hóa làm thất thoát 500 tỉ đồng, phòng khám ở Cà Mau mà thất thoát 100 tỉ đồng. Trách nhiệm của giám đốc bệnh viện, cán bộ bệnh viện ở đâu? Lợi dụng thẻ BHYT để trục lợi"- Thủ tướng đặt câu hỏi. 
Thủ tướng cũng cho rằng, chính quyền các địa phương chưa thực sự quan tâm đúng mức tới y tế, mô hình y tế ở tỉnh huyện chưa thống nhất, các trung tâm ở tuyến tỉnh có 19 tỉnh là làm xong rồi như thế là chưa được 1/3. Ở tuyến huyện, trung tâm y tế huyện mới đạt 30%, 70% chưa tổ chức lại theo hướng chúng ta đã thống nhất. 
"Vẫn còn hiện tượng vô cảm trước nỗi đau bệnh tật của người bệnh của một bộ phận nhỏ trong ngành y. Trái y đức, làm trái lời dạy của Bác. Hiện tượng kháng thuốc, lang băm thầy bói còn tồn tại nhiều. Giá thuốc còn nhiều bất cập. Phải có cách làm hệ thống đảm bảo giá thuốc cho nhân dân"- Thủ tướng nhấn mạnh. 
Tại sao người giàu ra nước ngoài chữa bệnh nhiều thế?
Đó là một trong những câu hỏi mà Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đặt ra và yêu cầu ngành y tế phải sớm có câu trả lời, sau khi nêu ra hàng loạt những khó khăn mà ngành y tế phải đối mặt.
"Một đánh giá khác của ADB cho rằng ngành này hoạt động không hiệu quả, cơ cấu tổ chức phân tán, thiếu sự tập trung, giảm khá năng giám sát, tăng chi phí đầu tư? Người dân ai cũng nói phòng bệnh hơn chữa bệnh, nhưng thực tế người dân có bệnh rồi mới chữa, thay vì phòng ngừa. Nếu làm tốt khâu phòng bệnh, đầu tư cho Nhà nước về giảm tải sẽ hạn chế, cần nghiên cứu để có hệ thống dự phòng tốt hơn. Tại sao người giàu ra nước ngoài khám chữa bệnh nhiều thế? Ngành y tế cần trả lời câu hỏi này, sang năm trả lời"- Thủ tướng chất vấn. 
Tuyến huyện, hệ thống trạm y tế xã phủ khắp nhưng chưa có cơ chế hiệu quả, hướng tới chăm sóc tốt sức khỏe ban đầu, trạm xá vắng hoe, chế độ trực không rõ ràng, quy chế nào, cơ chế nào, để trạm y tế xã không làm tốt. 
Thủ tướng cũng chỉ ra nhiều bệnh viện ở một số thành phố lớn thường xuyên gánh lượng bệnh nhân nhập cư, ngân sách cho địa phương đã bao cấp chéo cho địa phương khác.
Chăm sóc khách hàng theo đúng nghĩa, sáng kiến quan trọng nhưng không phổ biến. Việt Nam chênh lệch so với các khu vực khác, tỷ lệ suy dinh dưỡng người nghèo ở mức cao. Do không có cán bộ y tế, người dân nông thôn trả nhiều hơn do phát sinh chi phí đi lại, vậy Bộ Y tế có vai trò trách nhiệm thế nào trong điều này? Và tại sao nhiều nghiên cứu nói rằng Việt Nam tỷ lệ ung thư cao nhất?
"Lương bác sỹ khá hơn, một ca trực không bằng miếng vá xe, chưa quan tâm đến người nhà bệnh nhân, không để người nhà vật vã chờ đợi, vừa lãng phí sức lao động, trời lạnh người nhà đến bệnh viện trông nom người ốm? Vậy phải thực hiện bằng cách nào? Cần rút ngắn chất lượng y tế giữa các vùng miền, tiếp cận thông tin đến với người dân. 
Thủ tướng chỉ đạo Bộ Y tế cần đổi mới mạnh mẽ cách nghĩ cách làm để phục vụ người dân tốt hơn. Năm 2016 đã làm được rồi, năm 2017 phải làm tốt hơn, phải phấn đấu đi đầu trong công tác xây dựng chính phủ liêm chính, kiến tạo phát triển, hành động. 
Trong năm 2016, tổng số có 19.104 cuộc gọi đến đường dây nóng Bộ Y tế, trong đó nội dung người dân phản ánh về tình trạng xuống cấp của cơ sở vật chất, nội quy cơ sở y tế là 32,7%; về quy trình chuyên môn là 35%; về thái độ, tinh thần trách nhiệm của y, bác sỹ là 15,6%; về các vấn đề liên quan đến viện phí và thủ tục khám chữa bệnh BHYT là 10,5%; bên cạnh đó, có tỷ lệ nhỏ các ý kiến phản ánh về các vấn đề tiêu cực (1,2%), tình hình an ninh trật tư tại các cơ sở khám chữa bệnh (2,4%).