Thứ Ba, 6 tháng 6, 2017

Trung Quốc bác bỏ tuyên bố của bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ về Biển Đông; Trung Quốc “nổi giận” với phát biểu của Mỹ về biển Đông


Thanh Phương


mediaBộ trưởng Quốc Phòng Mỹ, James Mattis (G) cùng các đồng nhiệm Nhật Bản, bà Tomomi Inada (T) và Úc, bà Marise Payne, tai Đối thoại An ninh Shangri-La, Singapore 03/06/2017.REUTERS/Edgar Su
Hôm nay, 05/06/2017, Trung Quốc cực lực bác bỏ những tuyên bố của bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ James Mattis chỉ trích Bắc Kinh quân sự hóa Biển Đông tại hội nghị an ninh Shanghri-la cuối tuần qua.



Hôm thứ Bảy 03/05, tại Đối thoại An ninh Shangri-la, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ đã chỉ trích mạnh mẽ việc Trung Quốc dùng sức mạnh để áp đặt chủ quyền của họ trên gần như toàn bộ vùng Biển Đông. Ông Mattis lên án thái độ « khinh miệt » của Trung Quốc đối với các nuớc láng giềng và thái độ bất chấp luật pháp quốc tế khi tiến hành « quân sự hóa » Biển Đông. Lãnh đạo Lầu Năm Góc cho rằng « tầm mức và những tác động » của các công trình xây đảo nhân tạo của Trung Quốc tại những vùng đang tranh chấp ở Biển Đông khác hẳn các nước khác.
Trong một thông cáo đưa ra cuối chiều Chủ Nhật 04/05, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh cực lực bác bỏ những tuyên bố « vô trách nhiệm » của ông Mattis và lên án một số nước bên ngoài khu vực đưa những tuyên bố « sai lạc » vì những lý do mà họ muốn che giấu. Bà Hoa Xuân Oánh khẳng định Trung Quốc có chủ quyền « không thể tranh cãi được » trên quần đảo Trường Sa và các vùng biển chung quanh.
Wahsington vẫn thường xuyên bày tỏ quan ngại về việc Trung Quốc xây các đảo nhân tạo ở Biển Đông, vì theo họ, điều này đe dọa đến tự do hàng hải tại con đường giao thương rất quan trọng này.
Sau cuộc hội đàm với đồng nhiệm Úc Julie Bishop tại Sydney hôm nay, ngoại trưởng Mỹ Rex Tillerson cũng nhắc lại cam kết của Hoa Kỳ và Úc bảo đảm tự do hàng hải ở Biển Đông. Ngoại trưởng Mỹ tuyên bố Hoa Kỳ muốn có quan hệ mang tính xây dựng với Trung Quốc, nhưng không thể chấp nhận việc Bắc Kinh dùng sức mạnh kinh tế để tránh né các vấn đề khác, như việc quân sự hóa Biển Đông hoặc không gây đủ áp lực lên Bình Nhưỡng.
Ông Tillerson nói :« Họ phải chấp nhận rằng vai trò ngày càng lớn với tư cách cường quốc kinh tế và thương mại phải đi kèm với trách nhiệm về an ninh. » Cho nên ông Tillerson kêu gọi Trung Quốc và các nước khác gia tăng nỗ lực để ngăn chận chương trình vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên.

Trung Quốc “nổi giận” với phát biểu của Mỹ về biển Đông

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ cáo buộc Trung Quốc coi thường lợi ích của các quốc gia khác và bất chấp luật pháp quốc tế...

Trung Quốc “nổi giận” với phát biểu của Mỹ về biển Đông
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ James Mattis tại đối thoại Shangri-La ở Singapore hôm 3/6 - Ảnh: Getty/CNBC.
AN HUY
Trung Quốc đã bày tỏ thái độ “rất không vui” với điều mà nước này cho là “phát biểu thiếu trách nhiệm” về biển Đông của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ James Mattis vào cuối tuần vừa rồi.

Theo hãng tin Reuters, tại đối thoại an ninh thường niên Shangri-La diễn ra ở Singapore, ông Mattis cáo buộc Trung Quốc coi thường lợi ích của các quốc gia khác và bất chấp luật pháp quốc tế. Người đứng đầu Lầu Năm Góc cũng việc Trung Quốc xây dựng trái phép và quân sự hóa các đảo quân sự trên biển Đông là hành động ảnh hưởng xấu đến an ninh trong khu vực.

Vào cuối ngày 4/6, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc, bà Hoa Xuân Oánh, nói trong một tuyên bố đăng trên website của cơ quan này rằng việc Trung Quốc xây dựng các công trình phi pháp ở quần đảo Trường Sa trên biển Đông là "nhằm cải thiện điều kiện làm việc cho những người làm việc trên đảo này và thực hiện các nghĩa vụ quốc tế của Trung Quốc".

Theo phát ngôn viên này, các quốc gia xung quanh biển Đông đã nỗ lực giảm căng thẳng, nhưng các nước khác bên ngoài khu vực “đã đi ngược lại xu hướng này, liên tục đưa ra những phát biểu sai, phớt lờ sự thật, và đổi trắng thay đen với những động cơ hoàn toàn không được nói ra”.

“Trung Quốc cương quyết phản đối điều này và kêu gọi các bên liên quan ngừng đưa ra những phát biểu thiếu trách nhiệm và thực sự tôn trọng những nỗ lực của các quốc gia trong khu vực nhằm duy trì hòa bình và ổn định trên biển Đông, và đóng một vai trò tích cực trong vấn đề này”, bà Hoa Xuân Oánh nói.

Phát biểu tại đối thoại Shangri-La, ông Mattis nói việc Trung Quốc hợp tác với Mỹ trong vấn đề Triều Tiên không có nghĩa là Washington sẽ không thách thức các hoạt động của Bắc Kinh trên biển Đông.

Tuần trước, một chiến hạm của Hải quân Mỹ đã di chuyển trong phạm vi 12 hải lý từ đảo nhân tạo mà Trung Quốc bồi lấp trái phép ở đá Vành Khăn thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. 

Đây là cuộc tuần tra tự do hàng hải đầu tiên của Mỹ ở biển Đông nhằm thách thức Trung Quốc kể từ khi Tổng thống Mỹ Donald Trump lên cầm quyền.

Tàu bè Mỹ sẽ tiếp tục “bay, di chuyển và hoạt động ở bất kỳ đâu mà luật pháp quốc tế cho phép, và thể hiện quyết tâm đó thông qua sự hiện diện trên biển Đông và xa hơn”, ông Mattis tuyên bố.

Shangri-la: Pháp, Nhật hoan nghênh Mỹ hiện diện quân sự ở châu Á

Tú Anh

mediaBộ trưởng Quốc Phòng Nhật Tomomi Inada phát biểu tại diễn đàn an ninh Châu Á - Đối Thoại Shangri-la, Singapore, ngày 03/06/2017.Reuters
Diễn Đàn An Ninh khu vực kết thúc vào Chủ Nhật 04/06/2017 tại Singapore. Một hôm trước, hai nữ bộ trưởng Quốc Phòng Nhật và Pháp, kẻ trước người sau, hoan nghênh vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ tại châu Á-Thái Bình Dương, trong bối cảnh Trung Quốc và Bắc Triều Tiên bị xem là mối đe dọa gây lo ngại cho toàn khu vực.




Theo AP, trong phần phát biểu tại Diễn Đàn An Ninh châu Á-Thái Bình Dương, còn được gọi là Đối Thoại Shangri-la, được tổ chức hàng năm ở Singapore, nữ bộ trưởng Quốc Phòng Nhật Bản Tomomi Inada cổ vũ sự hiện diện quân sự của Mỹ trong khu vực, cũng như lập trường cứng rắn của Washington đối với Bắc Triều Tiên. Nữ bộ trưởng Nhật nhấn mạnh là Tokyo sẽ kết hợp chặt chẽ hơn nữa với chính quyền Donald Trump, để tăng sức ép lên chế độ Bình Nhưỡng, mà khả năng đe dọa đã lên « mức độ mới ».
Paris cũng chia sẻ mối lo âu của Nhật Bản và giới chuyên gia an ninh của 39 nước tham dự Đối Thoại Shangri-la. Bà Sylvie Goulard, nữ bộ trưởng bộ Quân Lực Pháp, tên mới của bộ Quốc Phòng, lưu ý Bắc Triều Tiên là quốc gia duy nhất thử nghiệm vũ khí hạt nhân ở thế kỷ thứ 21 này. Thái độ của Bình Nhưỡng vừa gây căng thẳng trong khu vực, nơi mà Pháp có quyền lợi kinh tế rất quan trọng, vừa có thể gây ra một cuộc chạy đua vũ trang, bà Sylvie Goulard nhấn mạnh.
AP cho biết thêm, hai nữ bộ trưởng quốc phòng Pháp, Nhật cùng kêu gọi Mỹ tiếp tục bảo đảm « trật tự dựa trên những luật lệ tự do hàng hải trong vùng Biển Đông », nơi mà Trung Quốc tranh giành chủ quyền biển đảo với nhiều nước Đông Nam Á.
Cho dù Donald Trump rút Mỹ ra khỏi hiệp định khí hậu Paris với nhiều « hệ quả tai hại »nhưng bộ trưởng Quân Lực Pháp tuyên bố « không có lý do gì nghi ngờ vai trò lãnh đạo của Mỹ trong vùng châu Á-Thái Bình Dương ».
Đối Thoại An Ninh Shangri-la diễn ra trong ba ngày và kết thúc vào Chủ Nhật 04/06 với mối đe dọa của Hồi Giáo cực đoan, đặc biệt là với tổ chức Daech đang bắt rễ tại Đông Nam Á.
Theo Jakarta, ít nhất 1.200 chiến binh của tổ chức Nhà Nước Hồi Giáo đang hoạt động tại Philippines. Bộ trưởng Quốc Phòng Malaysia cho biết có kế hoạch cùng Hải Quân của hai quốc gia láng giềng Indonesia và Philippines tuần tiễu chung trong tháng này.

Đường đời cay đắng của ông chủ Tập đoàn Y dược Bảo Long; Tăng Thái Hậu, từ cậu bé Việt nhập cư đến Phó chủ tịch Ford toàn cầu

Lập nghiệp, vào tù rồi trắng tay, để rồi “những người tình” bỏ ông đi “như những dòng sông nhỏ” – câu chuỵện đời của Chủ tịch tập đoàn Y dược Bảo Long, doanh nhân Nguyễn Hữu Khai…

Phiêu bạt giang hồ...
Năm 2005, lần đầu tiên bộ phim truyền hình dài tập “Đường đời” của đạo diễn Quốc Trọng, phát sóng. Cốt truyện lấy khuôn mẫu nhân vật từ ông Nguyễn Hữu Khai – Chủ tịch Tập đoàn Y dược Bảo Long ra đời đã nhận được nhiều sự chú ý của khán giả. Người ta vừa cảm thông lại vừa thán phục người đàn ông tài hoa nhưng có số phận ba chìm bảy nổi.
Lương y - doanh nhân Nguyễn Hữu Khai (ảnh: Thành Long)
Ông Khai sinh năm 1952 ở xứ Đoài (thôn Kinh Đào, xã An Mỹ, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây cũ). Sau khi xuất ngũ, ông vào học trường Đại học Kiến trúc Hà Nội. Tuy nhiên, ông không trở thành một kiến trúc sư như nguyện vọng của gia đình mà đã tự tạo cho mình một lối rẽ khác. Năm đó, khi đang học kiến trúc thì cô em gái của ông mắc bệnh dẫn đến mù lòa. Thương em, ông bỏ học và vượt biên sang Trung Quốc tìm học ngành y với quyết tâm chữa bệnh cho em. Trong nhiều năm lang bạt xứ người, gặp được những người thầy giỏi, yêu quý ông và đã truyền dạy cả nghề thuốc lẫn những tuyệt chiêu võ công chân truyền.
Năm 1979, trên đường trở về nước, ông Khai đã bị công an bắt và phạt tù 3 năm vì tội giả mạo giấy tờ vượt biên trái phép. Ra tù ông về quê hành nghề chữa bệnh bằng Đông y và bắt đầu được chú ý sau khi chữa khỏi bệnh mù loà cho cô em gái. Song cũng từ đây, ông bị kẻ xấu hãm hại triệt đường sống đến nỗi phải bán xới để vào Nam lập nghiệp, rồi tìm đường “xuất ngoại” sang Trung Quốc, Liên Xô cũ để mở rộng thị trường.
Nhờ nỗ lực không mệt mỏi đó, năm 1990, Xí nghiệp Đông Nam dược Bảo Long - là tiền thân của Tập đoàn Y dược Bảo Long sau này - được thành lập rồi sau đó vươn ra thị trường miền Bắc trong đó có quê hương bản quán của ông là vùng Xứ Đoài.
Thời kỳ đỉnh cao vào khoảng năm 2004 - 2008, đây là lúc Tập đoàn Y dược lớn mạnh cả trong và ngoài nước, với hàng nghìn cán bộ công nhân viên, sở hữu khối tài sản hàng nghìn tỉ với 15 công ty, trường học, bệnh viện từ TP Hồ Chí Minh đến Sìn hồ Lai Châu và Bảo Long võ đường truyền dạy môn phái “Bảo Long y võ” được báo chí gọi là “Thiếu Lâm Tự xứ Đoài”….
Tuy nhiên, khối tài sản cùng thương hiệu lẫy lừng mà vị thầy thuốc - doanh nhân dày công xây dựng này đã phút chốc tiêu tan sau cơn lốc của khủng hoảng suy thoái kinh tế thế giới những năm 2007 - 2010. Ngân hàng từ chối đáo hạn, Bảo Long phải vay tư nhân với lãi suất cao để cầm cự. “Đau yếu” về tài chính vẫn không thể hồi phục, Bảo Long phải dứt lòng bán 3 đơn vị của mình cho tập đoàn Bảo Sơn để cứu các đơn vị còn lại. Thương vụ sang nhượng tài sản giữa tập đoàn Bảo Long và tập đoàn Bảo Sơn cho đến nay vẫn còn gây tốn nhiều giấy mực của báo giới, chỉ biết rằng vì thương vụ đó mà Bảo Long phá sản, ông Khai bị bắt vào tù giữa năm 2013 về tội danh “sử dụng trái phép tài sản”. Sau 26 tháng tù tội, tháng 8.2015 ông được Chủ tịch nước ký lệnh đặc xá trả tự do.
Ngoài sự lận đận trong học hành, lập nghiệp, kinh doanh, ông Nguyễn Hữu Khai còn có hôn nhân sóng gió với 4 đời vợ. Ông không chia sẻ nhiều về chuyện này, đó là việc riêng tư của mỗi con người. Nhưng ông không thể giấu tình cảnh, khi giờ đây vẫn độc thân vì người vợ thứ tư kém 23 tuổi đã đơn phương ly hôn khi ông ở tù về.
“Đường đời dốc đứng”
Năm 2011, ông Nguyễn Trường Sơn đại diện Công ty CP Tập đoàn Đầu tư Xây dựng và Du lịch Bảo Sơn ký kết “Hợp đồng khoán kinh doanh” với ông Nguyễn Hữu Khai – Tổng giám đốc Công ty CP Tập đoàn Y dược Bảo Long. Theo 2 hợp đồng, tập đoàn Bảo Sơn giao cho Bảo Long số tiền 10 tỉ đồng “để phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh theo hình thức khoán kinh doanh hàng tháng”.
Theo tài liệu của cơ quan điều tra, Ông Khai đã dùng số tiền này để trả nợ, sau đó không có khả năng hoàn trả vốn. Cơ quan chức năng còn xác định, ông Khai đã chiếm giữ đất đai đã bán cho tập đoàn Bảo Sơn không chịu bàn giao.
Theo ông Khai, đây thực chất là một phần trong số tiền mà Bảo Long bán ba thương hiệu của mình cho Bảo Sơn hòng cứu lấy tập đoàn trong cơn khủng hoảng. Tuy nhiên, trong khi thương vụ này còn đang chưa thống nhất thì xảy ra tranh chấp và ông cho rằng hậu quả là một người không hề biết đến tiểu xảo kinh doanh như mình đã bị một đối thủ “nặng ký” chơi ác dẫn đến phá sản và vướng vào lao lý.
Công việc hàng ngày của lương y Nguyễn Hữu Khai
“Non” kinh nghiệm làm ăn, để rồi Khai lại được “ăn cơm tù” lần hai từ giữa năm 2013 và được trả tự do vào ngày 31/8/2015. Vào ngày sinh nhật lần thứ 63 của mình, ngày 10/10/2015, ông chủ tập đoàn lừng lẫy một thời này đã đánh dấu lễ sinh nhật của mình bằng việc mở lại Bảo Long đường tại đường Mỗ Lao (Hà Đông). Ngày đó, Bảo Long chỉ còn là con số 0 về tài chính, chỉ có thương hiệu và niềm tin yêu của gia đình, bạn bè, người bệnh là vẫn còn. Ông chia sẻ với tôi rằng: 63 tuổi, ông cảm thấy mình hoàn toàn khỏe mạnh, minh mẫn, thay vì ngồi đó than tiếc thì ông sẽ tự tin làm lại. “Nếu trời thương cho tôi thêm 17 năm nữa để sống, tôi dư sức làm nên mọi chuyện” – ông quả quyết.
Sau khi ông Khai bị bắt, con trai cả của ông – Phó tổng giám đốc Bảo Long, anh Nguyễn Hữu Trường - đã trả lời báo chí nói rằng bố mình là người không có khiếu kinh doanh, non về kinh nghiệm thương trường nên mới khiến Bảo Long lâm vào cảnh phá sản như vậy.
“Tôi là một thầy thuốc. Tôi rất ngại những vấn đề liên quan đến tiền bạc, thậm chí có tiền trong túi tôi cứ muốn nhanh tiêu hết đi dể khỏi phải bận tâm. Người ta mất 1 tỉ có khi đã phát điên đây tôi mất vài trăm tỉ cứ như không. Nói thế để thấy là tôi không thích kinh doanh đâu”, ông Khai chia sẻ.
Còn bây giờ, một ngày cuối tháng 5.2017, tôi đến thăm ông tại Bảo Long Đường trên phố Nguyễn Khánh Toàn. Nhìn ông khỏe mạnh nhanh nhẹn hơn nhiều so với cái tuổi 65 và so với gần hai năm về trước. Ông hồ hởi khoe một đơn đặt hàng trị giá 5,3 tỉ vừa ký chưa ráo mực và mỉm cười chia sẻ: “Chắc không cần phải đến 17 năm mới vực lại được đâu”. Sau gần hai năm, ông đã dần ổn định việc kinh doanh với doanh thu trên 2 tỷ đồng mỗi tháng và luôn tăng trưởng vài chục lần.
Tôi hoàn toàn tin rằng ông không thạo về kinh doanh nhưng ông có duyên với người bệnh. Bởi vì trong cơn bão cạnh tranh của hằng hà sa số những sản phẩm Đông nam dược hiện nay, ông không hề mất một xu cho quảng cáo tuyên truyền nhưng vẫn nhiều đối tác tìm đến nhận bao tiêu cho sản phẩm.
Hơn hai năm trong tù, ông cần mẫn viết tiểu thuyết “Đường đời dốc đứng” – cuốn tiểu thuyết có lối tự sự nhẹ nhàng, hoài cổ, văn phong ước lệ kiểu con nhà võ. Tôi tin rằng cộng với danh tiếng của ông, nếu được xuất bản, nhất định sẽ gây tiếng vang. Tác phẩm của ông đã được nhà xuất bản hội nhà văn cấp giấy phép ấn hành. Song sau hai năm, vì tiếc mấy chục triệu còn phải để trang bị máy móc sản xuất thuốc nên ông vẫn chưa in, ông post lên FaceBook cá nhân như để thêm một lần được trải lòng cho những lần nhói đau trong cuộc sống…
Ước mơ còn dang dở...
Bảo Long muốn phát triển Bảo Long đường kết hợp du lịch như Đồng Nhân đường của Trung Quốc
Định hướng phát triển sắp tới của Bảo Long là gì? Ông còn giữ ý định mở lại trường học, bệnh viện không?
Do quỹ thời gian còn lại hạn hẹp nên tôi Chưa có ý định làm lại tất cả những công việc trước đây mà chỉ tập trung vào hai lĩnh vực trọng yếu là khám chữa bệnh và sản xuất thuốc y học cổ truyền. Tôi chưa nghĩ tới việc mở lại trường học và bệnh viện.
Đã trải qua nhiều can qua, đến giờ điều ông tâm niệm nhất là gì?
Điều tôi tâm niệm nhất trong cuộc đời là phải rèn luyện và tích lũy cho mình một ý chí sắt đá và nghị lực kiên cường, đồng thời ăn ở cư xử nhân hậu với mọi người. Nhờ vậy khi bị rủi ro tới nghiệt ngã, tôi vẫn sống và được anh em bạn bè thân hữu cùng cộng đồng thương mến, chở che, đùm bọc.
Đến tuổi này, ông nghĩ giá trị cốt lõi của ông là gì?
Giá trị cốt lõi của tôi là kiến thức. Tôi là người rất ham học hỏi, tôi tích lũy kiến thức còn hơn tích lũy cơm gạo.
Trong cả cuộc đời mình, có tham vọng gì, trăn trở gì mà ông chưa làm được không?
Tôi có một tham vọng chưa làm được là phát triển Bảo Long Đường thành mô hình khám chữa bệnh kết hợp du lịch như Đồng Nhân Đường của Trung Quốc. Nếu như không có vụ phá sản vừa rồi thì có lẽ đến giờ tham vọng này đã thành hiện thực.
Xin cảm ơn ông!
Minh Minh

Tăng Thái Hậu, từ cậu bé Việt nhập cư đến Phó chủ tịch Ford toàn cầu

Đã có vợ và hai con gái, là người ít nói, trầm tính, với ông Hậu, gia đình và công việc là trên hết...


Tăng Thái Hậu, từ cậu bé Việt nhập cư đến Phó chủ tịch Ford toàn cầu
Ông Tăng Thái Hậu đã có hơn 25 năm làm việc tại bộ phận phát triển sản phẩm của Ford.
KIM TUYẾN
Mới đây, hãng xe hơi Mỹ Ford đã công bố bổ nhiệm ông Tăng Thái Hậu vào vị trí Phó chủ tịch, phụ trách phát triển sản phẩm trên toàn cầu. 

Với vai trò mới này, ông Hậu chịu trách nhiệm giám sát thiết kế, kỹ thuật, nghiên cứu, phát triển và đưa sản phẩm ra thị trường, đồng thời vẫn tiếp tục phụ trách lĩnh vực mua hàng của Ford.

Năm 2001, ông Hậu từng được trang Automotive Hall of Fame vinh danh là nhà lãnh đạo trẻ xuất sắc trong ngành ôtô thế giới. Ông cũng nhận giải “Lãnh đạo Châu Á” vào năm 2006 của On Wheels Inc. Gần đây nhất, ông được được vinh danh là “Nhà quản lý Mua hàng” của năm do tạp chí Automotive Supply Chain bình chọn.

Đã có hơn 25 năm làm việc tại bộ phận phát triển sản phẩm của Ford, ông Hậu từng phụ trách nhóm phát triển xe đua CART, sau đó là giám đốc kỹ thuật của nhóm sản xuất xe Lincoln LS. 

Ông từng là kỹ sư trưởng của bộ phận sản xuất xe Mustang phiên bản năm 2005 của Ford, chịu trách nhiệm lãnh đạo nhóm thiết kế, phát triển và thử nghiệm mọi yếu tố kỹ thuật của xe. 

Ông cũng từng là kỹ sư đường đua cho hai tay đua công thức một Nigel Mansell và Mario Andretti trong đội đua Newman-Haas IndyCar của Ford vào năm 1993. Ngoài ra, Tăng Thái Hậu còn là một nhân tố chủ chốt trong kế hoạch “One Ford” nổi tiếng của Alan Mulally, cựu Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Ford. 

Đây cũng là người điều hành phát triển các dòng xe mang tính biểu tượng khác của Ford như Thunderbird, Windstar, V6, Cobra, và Bullitt phiên bản 2001… Theo trang Automotive Hall of Fame, các dòng xe này mang về doanh thu gần 9,5 tỷ USD cho Ford vào năm 2000.

Trong đó, dòng xe Mustang mang lại cho ông Hậu danh tiếng rộng khắp vào đầu những năm 2000. Chia sẻ với tờ Los Angeles Times, ông nhớ lại lần đầu tiên nhìn thấy một chiếc xe Mustang vào những năm 1970 tại quê nhà ở Sài Gòn, Việt Nam. Khi đó, cậu bé Hậu mới 5 tuổi.

“Tôi chưa từng thấy thứ gì như thế. Đó là giây phút để lại ấn tượng sâu sắc trong tôi, một chiếc xe với trục cơ sở dài, hốc hút gió trên nắp ca-pô. Vẻ cơ bắp đầy uy lực”, ông Hậu kể. 

Năm 1975, gia đình ông Hậu di tản khỏi Sài Gòn và tới New York, Mỹ - nơi ông theo học đại học. 

Năm 1988, ông tốt nghiệp đại học Carnegie Mellon chuyên ngành kỹ sư cơ khí. Năm 1993, ông hoàn thành chương trình thạc sĩ chuyên ngành quản trị kinh doanh với thành tích xuất sắc tại Đại học Michigan. Sau khi tốt nghiệp, Tăng Thái Hậu vào làm việc ở Ford và mua chiếc xe đầu tiên, một chiếc Mustang. 

Sau khi tốt nghiệp, ông Hậu từng được nhiều tập đoàn lớn như Carnegie Mellon, Proctor & Gamble, hay bộ phận sản xuất động cơ máy bay của General Electric chiêu mộ. Nhưng ông đã chọn Ford.  

Đã có vợ và hai con gái, là người ít nói, trầm tính, với ông Hậu, gia đình và công việc là trên hết.
 
“Làm về động cơ máy bay khá hay nhưng bạn khó có thể đưa vợ đi bay thử cùng, nhưng với Mustang, bạn có thể mang xe về nhà và chia sẻ với gia đình, bạn bè", ông Hậu chia sẻ về lý do chọn đầu quân cho Ford.

Chủ tịch tỉnh Đồng Tháp không biết Luật tố cáo ( Ông này là người giời ?)

LĐO LÊ THANH PHONG
Ông Nguyễn Văn Dương - Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp (ảnh: baodongthap).
Công dân gửi đơn tố cáo sai phạm của cán bộ tỉnh lên Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp Nguyễn Văn Dương, ông Dương lại ký quyết định văn bản về việc thụ lý giải quyết và giao nhiệm vụ xác minh nội dung tố cáo của công dân, trong đó ghi rõ tên tuổi, địa chỉ của người tố cáo.
“Thụ lý đơn tố cáo của ông Võ Văn Điệp (ngụ số nhà 699, đường Nguyễn Hữu Kiến, tổ 22, ấp Hòa Long, xã Hòa An, TP. Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp) đối với ông Đặng Văn Nang - Phó Chủ tịch UBND TP. Cao Lãnh”.
Văn bản này được gửi đến các địa chỉ: “Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Chánh Thanh tra tỉnh, Giám đốc các sở: Tài nguyên và Môi trường, Tài chính, Xây dựng, ông Đặng Văn Nang - Phó Chủ tịch UBND TP. Cao Lãnh và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan chịu trách nhiệm thi hành quyết định này”. 
Như vậy, người bị ông Điệp tố cáo là ông Đặng Văn Năng, nhận quyết định “thụ lý giải quyết và giao nhiệm vụ xác minh nội dung tố cáo” của ông Điệp.
Thế thì chẳng khác gì ông Chủ tịch tỉnh Đồng Tháp đi “tố cáo” người tố cáo với người bị tố cáo.
Ông Chủ tịch tỉnh Đồng Tháp đặt bút ký quyết định nhưng không biết những quy định của pháp luật về khiếu nại tố cáo. Tại Điểm 3, Điều 8 của Luật Tố cáo có quy định rõ những hành vi bị nghiêm cấm bao gồm: “Tiết lộ họ, tên, địa chỉ, bút tích của người tố cáo và những thông tin khác có thể làm lộ danh tính của người tố cáo”.
Một điều quan trọng khác, thay vì triển khai điều tra, xác minh đơn thư tố cáo của công dân đối với cán bộ bị tố cáo, ông chủ tịch lại ra quyết định, trong đó có người bị tố cáo là ông Đặng Văn Năng xác minh nội dung tố cáo.
Vậy thì chẳng khác gì báo cho ông Năng biết để đối phó, và ông Năng đi xác minh chính ông thì chắc chắn là ông sẽ tìm cách bảo vệ ông. Nếu trong đơn tố cáo có những điểm bất lợi cho ông Năng thì ông có thời gian và điều kiện để xóa dấu vết.
Chống tham nhũng kiểu Đồng Tháp thế này thì chỉ có chết người chống tham nhũng.
Điều nguy hiểm hơn, đó chính là nhận thức của cán bộ lãnh đạo đối với việc ra một văn bản trái pháp luật. Thiếu hiểu biết pháp luật nhưng cứ ra văn bản, nếu sai thì sửa, như ông Huỳnh Thanh Sơn - Phó trưởng Ban Tiếp công dân tỉnh Đồng Tháp trả lời phóng viên Lao Động về vụ việc này: “Chúng ta đừng quan trọng hóa vấn đề. Về mặt thể thức, nếu sai thì chúng tôi thu hồi lại thôi, chẳng có gì cả”.
Từ nhận thức về quản lý điều hành và nhận thức về pháp luật như vậy, thì không thể không có những hậu quả như đã xảy ra.
 Đăng tin tuyển dụng, tìm việc làm nhanh, uy tín tại trang Việc Làm Báo Lao Động.

Hà Nội chịu tác động khí thải của 20 nhà máy nhiệt điện than

15:25 06/06/2017

Tại buổi hội thảo về ô nhiễm không khí được tổ chức vào tối 5-6, hầu hết các chuyên gia đều cho rằng, ô nhiễm không khí tại Thủ đô Hà Nội đã ở mức báo động. Bên cạnh nhiều nguồn khí thải Thủ đô còn phải chịu tác động tiêu cực của khoảng 20 nhà máy nhiệt điện than ở phía Bắc.

Bà Nguyễn Thị Khanh – Giám đốc Trung tâm sáng tạo xanh (GreenID) cho biết, ô nhiễm không khí ở Hà Nội ngày càng gia tăng, đặc biệt vào giờ cao điểm. Chỉ trong năm 2016, Hà Nội đã có 8 đợt ô nhiễm không khí nghiêm trọng.
Các chỉ số bụi PM10 và PM2,5 đều vượt ngưỡng trung bình năm. Tại trạm quan trắc không khí đặt tại Đại sứ quán Mỹ (Láng Hạ - Hà Nội), chỉ số chất lượng không khí (AQI) và chỉ số bụi PM2,5 đều ở mức rất cao. Trong quý 1-2017, chỉ số bụi PM2,5 là 54,6 µg/m3, số ngày vượt quá quy chuẩn Việt Nam là 37 ngày (nếu so với WHO là 78 ngày).

Lí giải về nguồn gây ô nhiễm, GS Nghiêm Trung Dũng (Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng, với một đô thị lớn như Hà Nội, khí thải từ giao thông phải được chú trọng hàng đầu, bên cạnh các yếu tố khác như hoạt động sản xuất công nghiệp, xây dựng, đốt rơm rạ...
Cùng với quá trình đô thị hoá, lượng phương tiện cá nhân tăng lên rất nhanh, tạo ra lượng lớn khí thải. Điều này lí giải vì sao trong giờ cao điểm, nồng độ ô nhiễm lại tăng cao đột biến. Hiện Hà Nội có gần 6 triệu xe máy, trong đó 2,5 triệu xe đã hết hạn sử dụng từ năm 2000. Những chiếc xe máy này hàng ngày vẫn xả khí thải ra môi trường gây ô nhiễm nghiêm trọng.

Mức độ ô nhiễm không khí ở Hà Nội cao gấp đôi TP Hồ Chí Minh 
Bên cạnh các nguồn gây ô nhiễm nội tại, GS Dũng cũng lưu ý tới các nguồn xa, di chuyển về Hà Nội theo hướng gió. “Vào mùa đông, theo gió mùa đông bắc, bụi từ phía Bắc có thể di chuyển xuống Thủ đô làm gia tăng nồng độ ô nhiễm. Chưa kể, ở phía Bắc có tới gần 20 nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động. Phần lớn các nhà máy này mới chỉ có thiết bị xử lí bụi, một số có khả năng xử lí SO2, chưa có nhà máy nào có thiết bị xử lí NOx" – GS Dũng nói thêm.

Đồng quan điểm, bà Khanh cho rằng, các nhà máy nhiệt điện than cũng góp phần làm gia tăng ô nhiễm không khí ở Hà Nội. Mặc dù quy mô dân số, số lượng phương tiện giao thông của Thủ đô ít hơn TP Hồ Chí Minh nhưng ô nhiễm không khí tại đây lại cao gấp đôi. 
"Dù các nhà máy nhiệt điện cách xa Hà Nội xong bụi mịn PM2,5 có khả năng phát tán rất xa. Theo World Bank, 60% nguồn gây ô nhiễm của New Delhi (Ấn Độ) đến từ bên ngoài. Hà Nội cũng không ngoại lệ. Chúng ta cần hành động khẩn cấp để giảm phát thải từ nhiệt điện than, hướng tới sử dụng năng lượng tái tạo" – bà Khanh nói. 
Khánh Vy

ÔNG TUYÊN GIÁO NÓI VỀ SỰ NGOẠN MỤC CỦA HÀNG CHỤC DỰ ÁN ĐẦU TƯ HÀNG TỶ USD THÀNH SẮT VỤN, CHẾT MÀ KHÔNG CÓ CHỖ CHÔN ?

Kinh tế thị trường định hướng XHCN tạo ra phát triển ngoạn mục cho đất nước
Bộ trưởng Trương Minh Tuấn



Bộ trưởng Trương Minh Tuấn
Theo Bộ trưởng Thông tin - Truyền thông Trương Minh Tuấn, các thành tựu phát triển đất nước trong các năm qua đã chứng minh thể chế kinh tế của chúng ta là đúng đắn, là phù hợp với mục đích của cách mạng Việt Nam…
Bộ trưởng Trương Minh Tuấn vừa có bài viết về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Thanh Niên đăng tải bài viết này để chia sẻ góc nhìn của Bộ trưởng về kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN.
Từ khi lý luận về “KTTT định hướng XHCN” được nghiên cứu và triển khai ở Việt Nam đến nay, đã có nhiều ý kiến tranh luận, thậm chí có ý kiến còn phê phán, bác bỏ. Nhưng các thành tựu phát triển đất nước trong các năm qua đã chứng minh thể chế kinh tế của chúng ta là đúng đắn, là phù hợp với mục đích của cách mạng Việt Nam, phù hợp với con đường đã được Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta lựa chọn.
Trong một số cuộc trao đổi học thuật và trên một số diễn đàn, nhiều người cho rằng KTTT định hướng XHCN chưa có tiền lệ trong lịch sử, khó tránh khỏi sai lầm, vấp váp, cho nên phải “dò đá qua sông”. Có người thì nói, KTTT mang giá trị phổ quát của nhân loại, không cần thiết phải thêm “cái đuôi” XHCN. Thậm chí, có ý kiến cho rằng, CNXH và KTTT không thể dung nạp lẫn nhau, nên gắn KTTT với CNXH là khiên cưỡng…
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi không tranh luận về học thuật, mà chỉ đề cập đến các vấn đề thực tiễn trong quá trình phát triển của đất nước, và sự tiếp nhận của cuộc sống người dân, sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với KTTT định hướng XHCN.
Nhu cầu tự thân của cuộc sống
Trước hết, đối với Đảng ta, CNXH không phải một giáo điều xơ cứng mà chính là nhu cầu của cuộc sống. Ngay từ khi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn Quốc tế III và Người nói, sở dĩ Người có sự lựa chọn này vì Quốc tế III đề cập đến con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức. Người nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu” (Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, NXB Chính trị Quốc gia, Tập 1, H.2006, tr.112).
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ mong muốn và nhận thức đó, cũng là mong muốn và sự nhận thức của cả dân tộc ta trong hoàn cảnh nước mất, nhà tan. Sau khi Cách mạng Tháng 8 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói một cách giản dị về mục tiêu của cách mạng: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm” (Hồ Chí Minh toàn tập - Tập 5, NXB Chính trị Quốc gia, H.2011, tr.81).
Có thể nói, lời của Bác Hồ đã đưa ra chấm phá đầu tiên về mục tiêu của KTTT định hướng XHCN, bởi xét đến cùng thì không có kinh tế thị trường thì người đủ ăn khó có thể “khá giàu”, người giàu khó có thể “giàu thêm”. Và nếu không có định hướng XHCN, thì chắc chắn người nghèo khó có thể “đủ ăn”.
KTTT tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho mọi người, bình đẳng về cơ hội và bình đẳng trước rủi ro, tức là cơ hội để thành đạt ngang nhau, và nếu có tai biến thì việc chịu rủi ro cũng ngang nhau. Trong cơ hội và rủi ro ngang nhau đó, ai nhạy bén nắm bắt được cơ hội thì trở nên giàu có, ai không nắm bắt được cơ hội thì nghèo vẫn hoàn nghèo; ai biết lo xa đề phòng rủi ro người ấy giữ được thành quả, ai không đề phòng được rủi ro người ấy có thể trắng tay.
Để bảo đảm KTTT vận hành đầy đủ, không thể không có nhà nước pháp quyền với hệ thống luật pháp minh bạch xây dựng trên tinh thần pháp trị, ở đó mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Nhưng khi trong xã hội còn những người yếu thế, người bất hạnh không thể tự mình vươn lên nắm bắt cơ hội,… thì cần có chính sách thích hợp để họ không bị thiệt thòi, không bị bần cùng hóa.
Nhà nước tư bản phương tây vẫn tỏ ra quan tâm tới các nhóm yếu thế thông qua chính sách an sinh xã hội. Nhưng việc họ áp dụng mức thuế cao, vay nợ để thực hiện “công bằng xã hội” xét đến cùng không dành cho các thành phần yếu thế bất hạnh mà chủ yếu phục vụ tầng lớp trung lưu với mục tiêu sâu xa là thu hút phiếu bầu.
Điều này là kết quả tất yếu của nền dân chủ với thể chế đa nguyên, đa đảng luôn bị chi phối bởi các nhóm lợi ích, và các chính sách được ban hành thường là sự thỏa hiệp giữa các nhóm đa số có thế lực, khó có thể đáp ứng lợi ích các nhóm yếu thế, thậm chí còn xâm phạm lợi ích chính đáng của các nhóm này. Công bằng xã hội chỉ là trên danh nghĩa, thực tế là nhà nước phình to ra song tình trạng bất công vẫn diễn ra gay gắt.
KTTT định hướng XHCN vẫn hội đủ các yếu tố của KTTT, nhưng có các thiết chế để bảo vệ các nhóm yếu thế, tạo điều kiện cho họ vươn lên tiếp cận các cơ hội của thị trường, giúp họ đối phó với các rủi ro nghiệt ngã mà tự họ không có khả năng đối phó.
Trong bối cảnh cụ thể ở nước ta, các nhóm yếu thế này chính là đông đảo nhân dân lao động, cùng những người bất hạnh, các gia đình bị thiệt thòi do phải hy sinh xương máu và của cải cho sự nghiệp giành độc lập dân tộc, nông dân ít ruộng đất, người nghèo, người lao động có thu nhập thấp... Và việc quan tâm đến lợi ích của họ là thực hiện điều Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Đổi mới không phải là một lý thuyết “nhập cảnh”
Trong một thời gian dài (miền bắc sau năm 1954, cả nước từ năm 1975 đến giữa thập niên 80 của thế kỷ trước) chúng ta áp dụng kinh tế kế hoạch hóa, và một số người đã phê phán, coi đó là cơ chế kinh tế đã để lại một số di hại với quá trình phát triển đất nước.
Tuy nhiên, trước khi phê phán lại cần nhớ rằng, kinh tế kế hoạch hóa được áp dụng trong bối cảnh hai cuộc chiến tranh xâm lược của nước ngoài và cuộc cấm vận kinh tế tai ác kéo dài nhiều năm sau năm 1975; hơn thế nữa, chính kinh tế kế hoạch hóa đó đã bảo đảm hậu cần cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và thắng lợi của các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía bắc, biên giới tây nam, đồng thời duy trì được tiềm lực của đất nước đủ sức vượt qua cấm vận, khủng hoảng để sau năm 1986 có thể hồi sinh nhanh chóng.
Phê phán kinh tế kế hoạch hóa phải đặt trong bối cảnh lịch sử đó, nếu không sẽ không hiểu vì sao Đảng ta đã khởi xướng, tổ chức, lãnh đạo công cuộc Đổi mới và Đổi mới từ đâu tới.
Đổi mới không phải là một lý thuyết “nhập cảnh”, không phải do “sức ép” bên ngoài mà là sự đáp ứng yêu cầu từ sự chuyển động nội tại của đất nước. Không phải ai khác, chính những người cộng sản Việt Nam đã khởi xướng công cuộc Đổi mới, chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế KTTT định hướng XHCN.
Không phải bắt đầu từ Nghị quyết Đại hội VI, mà từ trước đó rất lâu, những mầm mống của KTTT đã được những người cộng sản chân chính nuôi dưỡng, khuyến khích ngay trong “gọng kìm” kế hoạch hóa.
Chúng tôi gọi “gọng kìm” kế hoạch hóa vì cơ chế tập trung quan liêu đã ăn sâu vào cấu trúc xã hội, thành định chế, thành nếp nghĩ, muốn tháo bỏ không hề dễ dàng. Các đảng viên cộng sản đã phải thực hiện “khoán chui”, phải “vượt rào” để thoát rào cản về cơ chế.
Giữa lúc đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc bị phê phán gay gắt do thực hiện “khoán chui” ở Vĩnh Phúc, Tổng bí thư Lê Duẩn đã đến thăm và động viên ông (Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 4-4-2017). Nhiều Bí thư Tỉnh ủy, được sự hậu thuẫn của các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Trung ương Đảng, đã “vượt rào” xóa ngăn sông cấm chợ, xóa bao cấp, bảo vệ cách làm ăn mới ở cơ sở, mở đường cho sự vận hành của thị trường theo quy luật của nó.
Nghị quyết Đại hội VI đánh dấu sự chuyển biến căn bản trong toàn Đảng, hướng kinh tế cả nước vận hành theo cơ chế thị trường. Như vậy, Đảng ta không khư khư “công thức” của CNXH theo truyền thống quốc tế, mà thực hiện CNXH theo Tư tưởng Hồ Chí Minh với mục tiêu: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm” với phương châm “Việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”.
Sự lãnh đạo của Đảng bảo đảm để loại trừ các nhóm lợi ích chi phối…
Để bảo đảm định hướng XHCN đạt tới mục tiêu, trong nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta, doanh nghiệp nhà nước (DNNN) giữ vai trò chủ đạo. Có không ít ý kiến bài bác hoặc tranh cãi tư biện về sự chủ đạo này. Trong khi về đường lối và trong thực tiễn, chúng ta có một lộ trình giảm dần số lượng DNNN bằng nhiều hình thức thích hợp, như: cổ phần hóa và giao, khoán, bán, cho thuê. Thực tế số DNNN đã giảm rất mạnh theo lộ trình và theo các hình thức đó.
Chủ trương của Đảng và Nhà nước là chỉ giữ lại 100% vốn Nhà nước tại một số ngành kinh tế trọng yếu và những ngành mà tư nhân chưa đủ khả năng tham gia, như doanh nghiệp công ích, với mục đích bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, an ninh kinh tế và giữ vai trò điều tiết để ngăn ngừa bất ổn, khủng hoảng kinh tế, cũng là để bảo vệ sự an lành môi trường làm ăn, cuộc sống của mọi người dân.
Đó là ý nghĩa của vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước. Vai trò này hoàn toàn không ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Phương châm của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động kinh tế là: Nhà nước chỉ làm những gì người dân không làm được, nói cách khác, Nhà nước đã và sẽ lùi dần khỏi các lĩnh vực mà người dân và các thành phần kinh tế khác có thể làm. Việc cổ phần hóa một số ngành có liên quan đến an ninh quốc gia như hàng không, an ninh năng lượng như xăng dầu,… mới đây là nằm trong xu hướng đó.
Yếu tố quan trọng nhất của định hướng XHCN trong KTTT của chúng ta là vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò của Nhà nước pháp quyền XHCN. Đảng đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc, Đảng không có lợi ích của riêng mình. Bởi vậy, sự lãnh đạo của Đảng là sự bảo đảm để loại trừ các nhóm lợi ích chi phối quá trình xây dựng và thực thi pháp luật, đó là sự bảo đảm cho sự hiện hữu của tinh thần pháp trị.
Trong Nhà nước pháp quyền XHCN của chúng ta, các đạo luật được ban hành không phải là kết quả của quá trình vận động và thỏa hiệp giữa các nhóm lợi ích chi phối cơ quan lập pháp, mà xuất phát từ nhu cầu phát triển đất nước và lợi ích phổ quát của người dân, trong đó có lợi ích của các nhóm yếu thế, nghĩa là không có chính sách hoặc đạo luật nào phục vụ cho lợi ích của người giàu mà đánh mất cơ hội của người nghèo.
Sức thuyết phục của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Thực tế cho thấy hơn 30 năm vận hành của KTTT định hướng XHCN đã tạo ra sự phát triển ngoạn mục của đất nước. Công cuộc Đổi mới nhanh chóng đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng, duy trì tốc độ tăng trưởng vào hàng cao trên thế giới.
Năm 1988, quy mô GDP chưa tới 5,5 tỉ USD, GDP đầu người chỉ đạt 86 USD; đến năm 2016, GDP đã đạt 205,32 tỉ USD, tăng hơn 37 lần, GDP đầu người đạt 2.215 USD, tăng gần 27 lần so với năm 1988, rút ngắn đáng kể khoảng cách thu nhập so với các nước trong khu vực.
Theo dữ liệu so sánh của Ngân hàng Thế giới (WB), năm 1990, GDP bình quân đầu người của Thái Lan là 1.508 USD (tính tròn), con số tương ứng của Việt Nam là 98 USD, khoảng cách chênh lệch tới 15,3 lần. Đến năm 2015, GDP bình quân đầu người của Thái Lan lên 5.815 USD, con số tương ứng của Việt Nam là 2.111 USD, khoảng cách rút ngắn còn 2,7 lần.



Với Philippines, năm 1990, GDP bình quân đầu người cao gấp 7,3 lần so với Việt Nam (715 USD/98 USD), khoảng cách này đến năm 2015 còn chưa tới 1,4 lần (2.904 USD/2.111 USD). Với Ấn Độ, năm 1990, GDP bình quân đầu người cao gấp 3,8 lần so với Việt Nam (375 USD/98 USD), đến năm 2015, Việt Nam đã vượt Ấn Độ (2.111 USD/1.593 USD).
Thành tựu ngoạn mục nhất là công cuộc xóa đói giảm nghèo: Năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước chiếm tới 58%, đến cuối năm 2016 đã giảm chỉ còn 8,38% (theo chuẩn nghèo mới). Theo dữ liệu so sánh của Ngân hàng phát triển châu Á (ADB), tỷ lệ người nghèo so với dân số của Việt Nam năm 2015 ở mức 9,8%, thấp xa so với con số tương ứng của Philippines (25,2%), Ấn Độ (21,9%), và thấp hơn cả Thái Lan (12,6%), Indonesia (11,3%).
Trên đây không phải là những con số tuyên truyền của Việt Nam về tính ưu việt của KTTT định hướng XHCN, mà là sự ghi nhận khách quan của cộng đồng quốc tế. Dĩ nhiên, KTTT định hướng XHCN của Việt Nam còn nhiều vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện để thị trường có thể vận hành nhịp nhàng, đồng bộ với sự lựa chọn con đường phát triển, từ đó thúc đẩy nhanh hơn quá trình “người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm” như mong muốn của Bác Hồ.
Vì vậy, việc trao đổi về thể chế KTTT định hướng XHCN là cần thiết, thậm chí cần có những tranh luận, phản biện để làm sáng rõ những vấn đề về lý luận, nhưng nếu không xuất phát từ đặc điểm lịch sử và thực tiễn của Việt Nam, thì mọi sự trao đổi, tranh luận, phản biện đều sa vào tư biện, không hữu ích cho cuộc sống của người dân và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, cho quá trình phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.
Tiêu đề do Thanh Niên đặt
Trương Minh Tuấn
Bộ trưởng Bộ TT-TT

Sức thuyết phục của kinh tế thị trường định hướng XHCN

07:20 06/06/2017
Từ khi lý luận về “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” được nghiên cứu và triển khai ở Việt Nam đến nay, đã có nhiều ý kiến trao đổi, thậm chí bác bỏ, phê phán.

Nhưng các thành tựu phát triển đất nước trong các năm qua đã chứng minh lý luận mang tính chất chỉ đạo này là lựa chọn đúng, là phù hợp với mục đích của cách mạng Việt Nam, phù hợp với con đường đã được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn.
Trong một số cuộc trao đổi học thuật và trên một số diễn đàn, nhiều người cho rằng kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) chưa có tiền lệ trong lịch sử, khó tránh khỏi sai lầm, vấp váp, nên phải “dò đá qua sông”. Có người thì nói, kinh tế thị trường mang giá trị phổ quát của nhân loại, không cần thiết phải thêm “cái đuôi” XHCN. Thậm chí có ý kiến cho rằng chủ nghĩa xã hội (CNXH) và KTTT không thể dung nạp lẫn nhau nên gắn KTTT với CNXH là khiên cưỡng… Tuy nhiên, trong phạm vi bài viết này, chúng tôi không tranh luận về học thuật, mà chỉ đề cập đến các vấn đề thực tiễn trong quá trình phát triển của đất nước, và sự tiếp nhận của cuộc sống người dân, sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với KTTT định hướng XHCN.
Trước hết, đối với Đảng ta, CNXH không phải một giáo điều xơ cứng mà chính là nhu cầu của cuộc sống. Ngay từ khi tìm đường cứu nước, Hồ Chủ tịch đã chọn Quốc tế III và Người nói, sở dĩ Người có sự lựa chọn này vì Quốc tế III đề cập đến con đường giải phóng các dân tộc bị áp bức. Người nói: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những gì tôi muốn, đấy là tất cả những gì tôi hiểu” (Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, NXB Chính trị Quốc gia, Tập 1, H.1993, tr.94). Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ mong muốn và nhận thức đó, cũng là mong muốn và sự nhận thức của cả dân tộc ta trong hoàn cảnh nước mất, nhà tan. Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Hồ Chủ tịch nói một cách giản dị về mục tiêu của cách mạng : “Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu thêm” (Hồ Chí Minh toàn tập - Tập 5, NXB Chính trị Quốc gia, H.2000, tr.62). Có thể nói lời của Bác Hồ đã đưa ra chấm phá đầu tiên về mục tiêu của KTTT định hướng XHCN, bởi xét đến cùng thì không có kinh tế thị trường thì người đủ ăn khó có thể “khá giàu”, người giàu khó có thể “giàu thêm”. Và đặc biệt, không có định hướng XHCN, thì chắc chắn người nghèo khó có thể “đủ ăn”. 
Từ sự vận hành của nó, KTTT tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho mọi người, bình đẳng về cơ hội và bình đẳng trước rủi ro, tức là cơ hội để thành đạt ngang nhau, và nếu có tai biến thì việc chịu rủi ro cũng ngang nhau. Trong cơ hội ngang nhau đó, ai nhạy bén nắm bắt được cơ hội thì trở nên giàu có, ai không nắm bắt được cơ hội thì nghèo vẫn hoàn nghèo; ai biết lo xa đề phòng rủi ro người ấy giữ được thành quả, ai không đề phòng được rủi ro người ấy có thể trắng tay. 
Để bảo đảm KTTT vận hành đầy đủ, không thể không có nhà nước pháp quyền với hệ thống luật pháp minh bạch xây dựng trên tinh thần pháp trị, ở đó mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Nhưng khi trong xã hội còn những người yếu thế, người bất hạnh không thể tự mình vươn lên nắm bắt cơ hội,… thì cần có chính sách thích hợp để họ không bị thiệt thòi, không bị bần cùng hóa. Nhà nước tư bản phương tây vẫn tỏ ra quan tâm tới các nhóm yếu thế thông qua chính sách an sinh xã hội. Nhưng việc họ áp dụng mức thuế cao, vay nợ để thực hiện “công bằng xã hội” xét đến cùng không dành cho các thành phần yếu thế bất hạnh mà chủ yếu phục vụ tầng lớp trung lưu với mục tiêu sâu xa là thu hút phiếu bầu. Điều này là kết quả tất yếu của nền dân chủ với thể chế đa nguyên, đa đảng luôn bị chi phối bởi các nhóm lợi ích, và các chính sách được ban hành thường là sự thỏa hiệp giữa các nhóm đa số có thế lực, khó có thể đáp ứng lợi ích các nhóm yếu thế, thậm chí còn xâm phạm lợi ích chính đáng của các nhóm này. Công bằng xã hội chỉ là trên danh nghĩa, thực tế là nhà nước phình to ra song tình trạng bất công vẫn diễn ra gay gắt. 
KTTT định hướng XHCN vẫn hội đủ các yếu tố của KTTT, nhưng có các thiết chế để bảo vệ các nhóm yếu thế, tạo điều kiện cho họ vươn lên tiếp cận các cơ hội của thị trường, giúp họ đối phó với các rủi ro nghiệt ngã mà tự họ không có khả năng đối phó. Trong bối cảnh cụ thể ở nước ta, các nhóm yếu thế này chính là đông đảo nhân dân lao động, cùng những người bất hạnh, các gia đình bị thiệt thòi do phải hy sinh xương máu và của cải cho sự nghiệp giành độc lập dân tộc, nông dân ít ruộng đất, người nghèo, người lao động có thu nhập thấp... Và việc quan tâm đến lợi ích của họ là thực hiện điều Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”.
Trong một thời gian dài (miền Bắc sau 1954, cả nước từ 1975 đến giữa thập niên 80 của thế kỷ trước) chúng ta áp dụng kinh tế kế hoạch hóa, và một số người đã phê phán, coi đó là cơ chế kinh tế đã để lại một số di hại với quá trình phát triển đất nước. Tuy nhiên, trước khi phê phán lại cần nhớ rằng, kinh tế kế hoạch hóa được áp dụng trong bối cảnh hai cuộc chiến tranh xâm lược của nước ngoài và cuộc cấm vận kinh tế tai ác kéo dài nhiều năm sau năm 1975; hơn thế nữa, chính kinh tế kế hoạch hóa đó đã bảo đảm hậu cần cho thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và thắng lợi của các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc, biên giới Tây Nam, đồng thời duy trì được tiềm lực của đất nước đủ sức vượt qua cấm vận, khủng hoảng để sau năm 1986 có thể hồi sinh nhanh chóng. 
Phê phán kinh tế kế hoạch hóa phải đặt trong bối cảnh lịch sử đó, nếu không sẽ không hiểu vì sao Đảng ta đã khởi xướng, tổ chức, lãnh đạo công cuộc Đổi mới và Đổi mới từ đâu tới. Đổi mới không phải là một lý thuyết “nhập cảnh”, không phải do “sức ép” bên ngoài mà là sự đáp ứng yêu cầu từ sự chuyển động nội tại của đất nước. Không phải ai khác, chính những người cộng sản Việt Nam đã khởi xướng công cuộc Đổi mới, chuyển nền kinh tế kế hoạch hóa với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế KTTT định hướng XHCN. Không phải bắt đầu từ Nghị quyết Đại hội VI, mà từ trước đó rất lâu, những mầm mống của KTTT đã được những người cộng sản chân chính nuôi dưỡng, khuyến khích ngay trong “gọng kìm” kế hoạch hóa. 
Chúng tôi gọi “gọng kìm” kế hoạch hóa vì cơ chế tập trung quan liêu đã ăn sâu vào cấu trúc xã hội, thành định chế, thành nếp nghĩ, muốn tháo bỏ không hề dễ dàng. Các đảng viên cộng sản đã phải thực hiện “khoán chui”, phải “vượt rào” để thoát rào cản về cơ chế. Giữa lúc đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Kim Ngọc bị phê phán gay gắt do thực hiện “khoán chui” ở Vĩnh Phúc, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã đến thăm và động viên ông
(1). Nhiều Bí thư Tỉnh ủy, được sự hậu thuẫn của các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Trung ương Đảng, đã “vượt rào” xóa ngăn sông cấm chợ, xóa bao cấp, bảo vệ cách làm ăn mới ở cơ sở, mở đường cho sự vận hành của thị trường theo quy luật của nó. Nghị quyết Đại hội VI đánh dấu sự chuyển biến căn bản trong toàn Đảng, hướng kinh tế cả nước vận hành theo cơ chế thị trường. Như vậy, Đảng ta không khư khư “công thức” của CNXH theo truyền thống quốc tế, mà thực hiện CNXH theo Tư tưởng Hồ Chí Minh với mục tiêu: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu thêm” với phương châm “Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”.
Để đảm bảo định hướng XHCN đạt tới mục tiêu, trong nền kinh tế nhiều thành phần của nước ta, doanh nghiệp Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Có không ít ý kiến bài bác hoặc tranh cãi tư biện về sự chủ đạo này. Trong khi về đường lối và trong thực tiễn, chúng ta có một lộ trình giảm thiểu số lượng doanh nghiệp Nhà nước bằng nhiều hình thức thích hợp, như: cổ phần hóa và giao, khoán, bán, cho thuê. Thực tế số doanh nghiệp Nhà nước đã giảm rất mạnh theo lộ trình và theo các hình thức đó. 
Chủ trương của Đảng và Nhà nước là chỉ giữ lại 100% vốn Nhà nước tại một số ngành kinh tế trọng yếu và những ngành mà tư nhân chưa đủ khả năng tham gia, như doanh nghiệp công ích, với mục đích bảm đảm quốc phòng, an ninh quốc gia, an ninh kinh tế và giữ vai trò điều tiết để ngăn ngừa bất ổn, khủng hoảng kinh tế, cũng là để bảo vệ sự an lành môi trường làm ăn, cuộc sống của mọi người dân. Đó là ý nghĩa của vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước. Vai trò này hoàn toàn không ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Phương châm của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động kinh tế là: nhà nước chỉ làm những gì người dân không làm được, nói cách khác, Nhà nước đã và sẽ lùi dần khỏi các lĩnh vực mà người dân và các thành phần kinh tế khác có thể làm. Việc cổ phần hóa một số ngành có liên quan đến an ninh quốc gia như hàng không, an ninh năng lượng như xăng dầu,… mới đây là nằm trong xu hướng đó.
Yếu tố quan trọng nhất của định hướng XHCN trong KTTT của chúng ta là vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò của Nhà nước pháp quyền XHCN. Đảng đại biểu cho lợi ích của giai cấp công nhân và của toàn dân tộc, Đảng không có lợi ích của riêng mình. Bởi vậy, sự lãnh đạo của Đảng là sự đảm bảo để loại trừ các nhóm lợi ích chi phối quá trình xây dựng và thực thi pháp luật, đó là sự bảo đảm cho sự hiện hữu của tinh thần pháp trị. Trong Nhà nước pháp quyền XHCN của chúng ta, các đạo luật được ban hành không phải là kết quả của quá trình vận động và thỏa hiệp giữa các nhóm lợi ích chi phối cơ quan lập pháp, mà xuất phát từ nhu cầu phát triển đất nước và lợi ích phổ quát của người dân, trong đó có lợi ích của các nhóm yếu thế, nghĩa là không có chính sách hoặc đạo luật nào phục vụ cho lợi ích của người giàu mà đánh mất cơ hội của người nghèo.
Thực tế cho thấy hơn 30 năm vận hành của KTTT định hướng XHCN đã tạo ra sự phát triển ngoạn mục của đất nước. Công cuộc Đổi mới nhanh chóng đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng, duy trì tốc độ tăng trưởng vào hàng cao trên thế giới. Năm 1988 quy mô GDP chưa tới 5,5 tỷ USD, GDP đầu người chỉ đạt 86 USD; đến năm 2016, GDP đã đạt 205,32 tỷ USD, tăng hơn 37 lần, GDP đầu người đạt 2.215 USD, tăng gần 27 lần so với năm 1988, rút ngắn đáng kể khoảng cách thu nhập so với các nước trong khu vực. 
Theo dữ liệu so sánh của Ngân hàng thế giới (WB), năm 1990 GDP bình quân đầu người của Thái Lan là 1.508 USD (tính tròn), con số tương ứng của Việt Nam là 98 USD, khoảng cách chênh lệch tới 15,3 lần. Đến năm 2015, GDP bình quân đầu người của Thái Lan lên 5.815 USD, con số tương ứng của Việt Nam là 2.111 USD, khoảng cách rút ngắn còn 2,7 lần. Với Philippines năm 1990, GDP bình quân đầu người cao gấp 7,3 lần so với Việt Nam (715 USD/98 USD), khoảng cách này đến năm 2015 còn chưa tới 1,4 lần (2.904 USD/2.111 USD). Với Ấn Độ năm 1990, GDP bình quân đầu người cao gấp 3,8 lần so với Việt Nam (375 USD/98), đến năm 2015 Việt Nam đã vượt Ấn Độ (2.111 USD/1.593 USD)
(2). Thành tựu ngoạn mục nhất là công cuộc xóa đói giảm nghèo: năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước chiếm tới 58%, đến cuối năm 2016 đã giảm chỉ còn 8.38% (theo chuẩn nghèo mới)
(3). Theo dữ liệu so sánh của Ngân hàng phát triển châu Á - ADB, tỷ lệ người nghèo so với dân số của Việt Nam năm 2015 ở mức 9,8%, thấp xa so với con số tương ứng của Philippines (25,2%), Ấn Độ (21,9%), thấp hơn cả Thái Lan (12,6%), Indonesia (11,3%)
(4). Đây không phải là những con số tuyên truyền của Việt Nam về tính ưu việt của KTTT định hướng XHCN, mà là sự ghi nhận rất khách quan của cộng đồng quốc tế. Dĩ nhiên, KTTT định hướng XHCN của Việt Nam còn nhiều vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện để thị trường có thể vận hành nhịp nhàng, đồng bộ với sự lựa chọn con đường phát triển, từ đó thúc đẩy nhanh hơn quá trình “người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người giàu thì giàu thêm” như mong muốn của Bác Hồ. Tuy nhiên, các kết quả trên đây cho thấy, việc trao đổi (thậm chí là phê phán) lý luận về KTTT định hướng XHCN là cần thiết, nhưng trao đổi như thế nào thì vẫn cần tránh xu hướng tư biện, coi nhẹ kết quả, thành tựu từ sự vận hành của lý luận đó trong thực tiễn../.
1. Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 4-4-2017.

2. Tài liệu của WB, và tính toán của tác giả.

3. Tài liệu từ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội

4. ADB: Chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986)
Trương Minh Tuấn