Thứ Tư, 5 tháng 7, 2017

Chu Ân Lai và vấn đề Hoàng Sa

Nguyễn Tiến Hưng

  • 7 giờ trước
Hồ Chí Minh và Chu Ân LaiBản quyền hình ảnhKEYSTONE-FRANCE/GETTY IMAGES
Image captionChủ tịch Hồ Chí Minh của Việt Nam DCCH và Thủ tướng TQ, Chu Ân Lai ở Bắc Kinh năm 1955
"Bản đồ với đường chín đoạn là phản ảnh hai nghìn năm lịch sử Trung Quốc," Phó Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Trung Quốc, Vương Quán Trung tuyên bố tại diễn đàn đối thoại Shangri-La năm 2014.
Sở dĩ ông quả quyết như vậy là vì tài liệu Trung Quốc luôn khẳng định: chính thủy thủ Trung Quốc đã phát hiện ra những quần đảo Huangyan (Hoàng Sa) từ hai nghìn năm trước.
Bây giờ đến lượt Phó Chủ tịch Quân Ủy Trung Ương Phạm Trường Long tuyên bố còn mạnh mẽ hơn.
Theo tường thuật của Tân Hoa Xã thì trong chuyến viếng thăm Việt Nam vừa qua (ngày 18 tháng 6), tướng Long đã nhấn mạnh rằng "toàn bộ các hải đảo ở Nam Hải (Biển Đông) đều thuộc lãnh thổ Trung Quốc kể từ xa xưa."
Trong những năm qua, giới truyền thông và lãnh đạo Trung Quốc luôn dùng lịch sử hai nghìn năm để chứng minh chủ quyền ở Biển Đông.
Như vậy, có thể là những thế hệ trẻ đã không biết hoặc không nhớ rằng chính người đàn anh vĩ đại của mình - ông Chu Ân Lai - đã thú nhận rằng TQ đã xâm lăng Việt Nam từ hai nghìn năm trước, như được đề cập trong bài này.

Người tranh đấu cho đường chín đoạn

Năm 1948, dưới thời Thống chế Tưởng Giới Thạch, một bản đồ hành chính của Trung Hoa Dân Quốc có kèm theo một Phụ lục về "vị trí các đảo Nam Hải" gồm 11 vạch được công bố.
Tuy nhiên chính phủ ông Tưởng chỉ xác định một cách mập mờ, không đệ trình yêu sách cho Liên Hiệp Quốc.
Năm 1949, sau khi ông Mao Trạch Đông chiếm được lục địa, Trung Quốc bỏ đi hai vạch ở Vịnh Bắc Việt và vẽ lại bản đồ với một tuyến chín vạch chi tiết.
Tác giả của sáng kiến này chính là Chu Ân Lai (1898-1976), một con người đầy quyền lực, đã thoát được bao nhiêu cơn lốc chính trị của thời gian Cách Mạng Văn Hóa và Hồng Vệ Binh để giữ được chức thủ tướng 27 năm tới khi qua đời.
Đường Lưỡi Bò
Image captionĐường Chín Đoạn do TQ đưa ra
Lúc còn đương thời, ông Chu đã hăng say tranh đấu cho tuyến chín vạch, nhưng vào lúc hoàng hôn của cuộc đời thì trong nơi hậu trường kín đáo, chính ông lại lên án tổ tiên ông đã bóc lột Việt Nam. Như vậy, bằng một cách gián tiếp, ông cũng đã tự phê phán về hành động của chính mình.

Vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa

Vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa thuộc về Việt Nam thì đã được nhiều sử gia, luật gia, chứng minh rõ ràng. Nơi đây chúng tôi chỉ nhắc lại vài sự kiện lịch sử liên hệ để nói đến câu chuyện tâm sự của ông Thủ tướng họ Chu với tiến sĩ Henry Kissinger (Cố vấn TT Nixon) về lịch sử hai nghìn năm, và về con người Việt Nam.
Tháng 3, 1945: sau khi lật đổ Pháp ở Đông Dương, Nhật đã trao trả chủ quyền về lãnh thổ cho Việt Nam. Ngày 11 tháng 3, 1945 Đại sứ Nhật Masayuky Yokohama đã nhân danh Nhật Hoàng trao trả độc lập cho Hoàng đế Bảo Đại:
"Tâu Hoàng Thượng, đêm hôm qua, chúng tôi đã chấm dứt chủ quyền của Pháp ở đất nước này," Đại sứ Mark Masayuki Yokohama nói với cựu hoàng Bảo Đại.
"Tôi được trao nhiệm vụ dâng nền độc lập của Việt Nam cho Hoàng Thượng," có nghĩa là trao trả chủ quyền toàn thể lãnh thổ gồm cả các hải đảo. Ngày hôm sau, vua Bảo Đại mời ông Yokohama tới để trao cho ông một bản sao của tuyên ngôn độc lập Việt Nam.
Năm 1951: một hiệp ước quốc tế gọi là 'Hiệp Ước Hòa Bình với Nhật' hay 'Hiệp Ước San Francisco' (vì ký ở Memorial Opera House tại thành phố San Francisco) được 48 quốc gia tham dự và ký kết ngày 8 tháng 9. Trong số những quốc gia thành viên không có cả hai chính phủ Trung quốc (Bắc Kinh và Đài Loan) nhưng có chính phủ Quốc Gia Việt Nam.
Vì hiệp ước này không đả động gì tới hai nhóm quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa, lại trao đảo Pratas (Đông Sa) cho Liên Hiệp Quốc, bởi vậy ngay trước và sau khi ký kết (ngày 15 tháng 8, và 18 tháng 9, 1951) Thủ tướng Chu Ân Lai tuyên bố mạnh mẽ rằng Hiệp ước San Francisco là bất hợp pháp và khẳng định chủ quyền của TQ ở Biển Đông.
Vào dịp này, ông Chu chính thức công bố cho quôc tế một bản đồ chi tiết: lãnh thổ Trung Quốc gồm cả khu vực ở Biển Đông - vẽ bằng chín cái vạch, trông giống như hình lưỡi con bò, bao gồm tới cả trăm quần đảo, bãi cạn.
Bảy năm sau, lập trường này còn được nhắc lại lần thứ hai - vào năm 1958 - khi ông Chu tuyên bố với quốc tế quyết định về hải phận 12 hải lý kể từ đất liền của TQ và các đảo Trường Sa và Hoàng Sa.

Trung Quốc chuẩn bị ăn mừng năm 2049

Trong cuốn sách "Cuộc Chạy Đua 100 Năm" (The Hundred Year Marathon) xuất bản năm 2015 chuyên gia về Trung Quốc nổi tiếng Michael Pillsbury khẳng định: Trung Quốc đang chuẩn bị để thay thế Mỹ trong vai trò là cường quốc mạnh nhất thế giới vào năm 2049 khi Bắc Kinh ăn mừng kỷ niệm 100 năm chiến thắng.
Để tiến tới mục tiêu ấy, Trung Quốc tập trung để xây một tuyến quốc phòng ngay trên biển. Trong cuốn "Vạn Lý Trường Thành Trên Mặt Biển: Hải quân Trung Quốc bước vào Thế Kỳ 21" (2010), tác giả Bernard Cole (chuyên gia về Á Châu, giáo dư tại Đại Học Quốc Phòng Mỹ) chứng minh rằng chiến lược của TQ là "lục địa hóa mặt biển" (territorialization of the sea), làm sao để kiểm soát được một vùng biển bao trùm 200 hải dậm tính từ vùng duyên hải.
Hai nhận xét này giải mã được tất cả các hành động của Trung Quốc tại Biển Đông trong những năm qua, gây nên tình trạng căng thẳng ngày nay.
Trong bối cảnh ấy, tại Diễn đàn Đối thoại Shangri-La vừa qua (ngày 3 tháng 6, 2017), Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis đã cáo buộc việc Trung Quốc khinh thường lợi ích của các quốc gia khác và không tuân theo luật quốc tế. Trung Quốc kịch liệt phản đối và cho đó là những "nhận xét vô trách nhiệm."

Xây dựng Lãnh Thổ Xanh

Việc "coi thường lợi ích của các quốc gia khác" đã được thể hiện rõ ràng qua những hành động mới nhất. Hãy bỏ qua việc lắp đặt giàn khoan Hải dương 981 năm 2014 và những diễn biến tiếp theo đó, gần đây TQ lại đưa giàn khoan khổng lồ "Lam Kình 1" (Blue Whale 1) cao tương đương một tòa nhà 34 tầng (khoảng 118m) tới Biển Đông.
Ngoài giàn khoan Lam Kình 1 và việc tiếp tục xây dựng các căn cứ quân sự tại các hải đảo, bãi cạn, những hành động trong ba tháng qua còn gồm có:
Tàu du lịch Trường Lạc Công Chúa (Changle Princess) đã khởi hành từ thành phố Tam Á thuộc tỉnh đảo Hải Nam chở theo 308 du khách trong một chuyến đi bốn ngày ba đêm đến nhóm đảo Lưỡi Liềm thuộc quần đảo Hoàng Sa (tin ngày 3/3/2017). Tàu du lịch mới này có thể chuyên chở tới gần 500 người, có 82 phòng, với các dịch vụ ăn uống, giải trí, mua sắm, chăm sóc y tế và bưu điện. Trước đó, phía Trung Quốc đã tiết lộ các dự án khách sạn, biệt thự nghỉ dưỡng và các thương xá trên nhóm đảo Lưỡi Liềm.
Chính quyền tỉnh Hải Nam ở miền nam Trung Quốc cho biết sẽ tổ chức các chuyến du lịch thường xuyên ra quần đảo Nam Sa (tức Trường Sa) ở Biển Đông vào năm 2020. Truyền thông Trung Quốc cho biết rằng tỉnh Hải Nam đang nâng cấp các hải cảng và có kế hoạch tổ chức các tuyến tàu du lịch khắp vùng Biển Đông gồm các nước thuộc "Con đường tơ lụa trên biển".
Hoàng SaBản quyền hình ảnhVCG/GETTY IMAGES
Image captionHoàng Sa: người Trung Quốc đeo bình khí để lặn biển ở nơi được quảng cáo là bãi nước xanh đẹp tuyệt trần ở Vĩnh Lạc Đảo
Chiêu dụ du khách tới các hải đảo để thưởng ngoạn khung cảnh thần tiên: trời xanh, biển rộng, không phải ở chung cư chật chội, chen chúc như trên đất liền, lại dư thừa hải sản tươi sống, tất nhiên là sẽ rất thành công. Như vậy, chẳng mấy lúc phong trào di dân đến hải đảo sẽ bùng lên. Thế là nhiều nhà đầu tư từ bốn phương sẽ đổ xô vào các hải đảo.
Cùng một lúc, Bắc Kinh lại hình thành được một lực lượng lao động cần thiết để khai thác các loại kỹ nghệ hóa-dầu lấy từ dầu thô ở vùng gần Hoàng Sa, Trường Sa. Các hoạt động xây cất nhà cửa và chế biến sẽ theo sau: như thực phẩm, may mặc, đồ tiêu dùng và dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của người dân hải đảo.
Như vậy, đến năm 2049 thì Bắc Kinh lại có thêm một "Trung Quốc Hải Đảo" vì đã hoàn tất việc phát triển được một lãnh thổ xanh, trong lành.

Lịch sử hai nghìn năm

"Hai nghìn năm trước Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam."
Đây không phải là lập luận của một luật gia, sử gia, học giả mà là lời của chính Thủ tướng danh tiếng nhất của CHND Trung Hoa.
Tài liệu của Tòa Bạch Ốc (đã được giải mật) ghi thật rõ biên bản cuộc họp kín tại Bắc Kinh ngày 9 tháng 7, 1971 giữa Thủ tướng Chu Ân Lai và Cố vấn Henry Kissinger. Lúc ấy ông Kissinger gặp ông Chu để sắp xếp chuyến viếng thăm của Tổng thống Nixon (tháng 2, 1972).
Thật lạ lùng: trong buổi họp, ông Chu đã xác nhận: "Hai nghìn năm trước Trung Quốc đã xâm lăng Việt Nam… tổ tiên chúng tôi là những người bóc lột nhưng bị đánh bại bởi hai nữ tướng".
Hành động xâm lăng cũng không dễ, vì ngay từ đầu Trung Quốc đã bị đánh bại, lại bị đánh bại bởi hai nữ tướng.
Nói tới khí phách của con người Việt Nam, ông Chu xác nhận:
"Hai người nữ anh hùng ấy đã đánh bại tổ tiên của chúng tôi là những người bóc lột' (These two heroines who defeated our ancestors who were exploiters).
Biên bản Tòa Bạch Ốc ghi lại đàm thoạ:
-Thủ tướng Chu: "Việt Nam là một nước anh hùng."
-TS Kissinger: "Họ là một dân tộc anh hùng, một dân tộc vĩ đại."
-Thủ tướng Chu:
"Họ là một dân tộc vĩ đại, anh hùng và đáng khâm phục. Hai nghìn năm trước Trung quốc đã xâm lược họ, và Trung quốc đã bị đánh bại. Lại bị đánh bại bởi hai người đàn bà, hai nữ tướng."(Nguyên văn: They are a great and heroic and admirable prople. Two thousand years ago China committed aggression against them, and China was defeated. It was defeated by two ladies, two woman generals).
Ít người, kể cả người Trung Quốc được biết đến câu chuyện là chính Thủ tướng Chu Ân Lai khi sang thăm Việt Nam đã tới Đền thờ Hai Bà Trưng để phúng viếng. Ông Chu nói tiếp:
Chu Ân Lai và Richard NixonBản quyền hình ảnhBETTMANN/GETTY IMAGES
Image captionThủ tướng Chu Ân Lai mở tiệc đãi Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon sang thăm Trung Quốc năm 1972
"Và khi tôi sang Việt Nam với tư cách là đại diện của nước Trung Hoa mới tôi đã đi thăm viếng Hà Nội, tôi đã đích thân đến tận mộ hai nữ tướng ấy và đặt vòng hoa trên những ngôi mộ để tỏ lòng kính trọng của tôi đối với hai vị nữ anh hùng, họ là những người đã đánh bại tổ tiên chúng tôi là những người bóc lột." (Nguyên văn: And when I went to Vietnam as a representative of New China on a visit on North Vietnam, I went personally to the graves of these two women generals and left wreaths of flowers on the graves to pay my respects for these two heroines who had defeated our ancestors who were exploiters).

Lịch sử Việt và Trung viết về Hai Bà Trưng

Về Hai Bà Trưng, sử gia Trần Trọng Kim ghi lại: "Năm Giáp Ngọ (năm 34 công nguyên) là năm Kiến Võ thứ 10, vua Quang Vũ sai Tô Định sang làm Thái Thú quận Giao Chỉ. Tô Định là người bạo ngược, chính trị tàn ác, người Giao chỉ đã có lòng oán giận lắm. Năm Canh Tí (năm 40) người ấy lại giết Thi Sách, người ở huyện Châu Diên (phủ Vĩnh tường, trước thuộc về Sơn Tây, nay thuộc tỉnh Vĩnh Yên).
Vợ Thi Sách là Trưng Trắc, con gái quan lạc tướng ở huyện Mê Linh (làng Hạ Lôi, Huyện Yên lãng, tỉnh Phúc yên) cùng với em gái là Trưng Nhị nổi lên đem quân về đánh Tô Định. Bọn Tô Định phải chạy trốn về quận Nam Hải. Lúc bấy giờ những quận Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố cũng nổi lên theo về với hai bà. Chẳng bao lâu quân hai bà hạ được 65 thành trì. Hai bà bèn xưng vương, đóng đô ở Mê Linh, là chỗ quê nhà."
Rồi ông bình luận: "Hai bà họ Trưng làm vua được ba năm, nhưng lấy cái tài trí người đàn bà mà dấy được nghĩa lớn như thế, khiến cho vua tôi nhà Hán phải lo sợ, ấy cũng là đủ để cái tiếng thơm về muôn đời. Đến ngày nay có nhiều nơi lập đền thờ hai bà để ghi tạc cái danh tiếng của hai người nữ anh hùng nước Việt Nam ta."
Chính Lịch sử Trung Quốc cũng phải ghi nhận về chiến thắng của Hai Bà tuy vẫn ngạo nghễ gọi người dân Việt là "Nam man".
Chương 86 trong sách sử Hậu Hán Thư (thế kỷ thứ 5), quyển thứ 5 viết về "Lịch sử miền Nam và Tây Nam man" (Biographies of the Southern and the Southwestern Barbarians), có ghi:
"Vào năm Kiến Vũ thứ 16, ở quận Giao Chỉ có hai người phụ nữ tên là Trưng Trắc (Zheng Ce) và Trưng Nhị (Zheng Er) nổi loạn và tấn công thủ đô của thái thú. Trưng Trắc là con gái của lạc tướng ở quận Mê Linh (Miling 麊 泠), kết hôn với một người đàn ông tên là Thi Sách (Shi Suo 詩 索). Người phụ nữ này là một chiến binh hung dữ, bị thái thú Giao Chỉ kỷ luật nên nổi giận và nổi loạn. Các thị trấn man rợ của quận Cửu Chân (Jiuzhen), Nhật Nam (Rinan), và Hợp Phố (Hepu) tất cả đều theo hai bà này và đánh chiếm được sáu mươi lăm thành phố và tuyên bố là Vua.."
Tài liệu của Trung Quốc không nói gì tới những tàn ác của quân đội và quan chức Trung Quốc đối với người dân Việt, kể cả việc giết chồng bà Trưng Trắc.
Sau Hai Bà Trưng, Trung Quốc luôn quay lại xâm chiếm nhưng không chiếm hẳn được, trước sau, dù sau mấy trăm năm rồi cũng bị đánh bật ra. Bốn lần Việt Nam bị Bắc thuộc tổng cộng tới hơn một 1000 năm.
Chắc ông Chu đã phản hồi về lịch sử nhà Hán cũng như những triều đại khác, cho nên mới không úp mở khi dùng cả hai chữ "xâm lăng" và "bóc lột" để nói về tổ tiên ông.

Vì sao chiếm Hoàng Sa?

Câu hỏi đặt ra là nếu ông đã nói như vậy, tại sao ông lại để cho Trung Quốc tấn chiếm Hoàng Sa năm 1974?
MaoBản quyền hình ảnhGETTY IMAGES
Image captionTrang tuyên truyền của TQ ca ngợi Mao Trạch Đông đặt ra mục tiêu phát triển Hải quân Quân Giải phóng
Để trả lời phần nào câu hỏi này, trước hết ta phải nhớ rằng: quyền lực ở Trung Quốc luôn tập trung vào tay ông Mao cho tới ngày ông chết (9/9/1976).
Ngoài ra, nếu nhìn vào quãng đời cuối cùng của ông Chu thì thấy từ cuối 1972 ông đã lâm bệnh nặng. Theo tác giả Gao Wenqian viết về tiểu sử ông Chu gần đây, thì một nhóm bác sĩ TQ đã chẩn đoán ông mắc bệnh ung thư bàng quang.
Nhóm này báo cáo rằng nếu được điều trị ngay thì ông có cơ hội hồi phục từ 80 đến 90%. Tuy nhiên việc điều trị cho cấp lãnh đạo thì luôn đòi hỏi phải được ông Mao chấp thuận. Thật lạ lùng: chính ông Mao đã cấm chỉ các bác sĩ không được tiết lộ cho cả ông Chu lẫn bà vợ biết tin về chẩn đoán ung thư, cũng như không được chữa bệnh hay chẩn đoán lại. Ông Chu suy yếu thật nhanh và đã qua đời ngày 8/1/1976. Bàn về tại sao ông Mao lại đối xử với người cận thần, có công lao thật lớn với mình như vậy là ra ngoài khuôn khổ giới hạn của bài này.
Ngày nay, ngoài Hoàng Sa và Trường Sa, TQ đang thâu tóm những hải đảo khác ở Biển Đông.
Các quốc gia 'bị bóc lột' đang xích lại thành những liên minh với nhau và với Mỹ, như bình luận của Tướng không quân Mỹ Herbert Carlisle:
"Thái độ hung hăng của Trung quốc mang lại nguy cơ là họ đã tính toán sai lầm… một số hành xử hung hăng của họ trong thực tế đã đẩy bạn bè chúng tôi lại gần chúng tôi hơn, họ là những người mong muốn chúng tôi hiện diện ở nơi đây" (Khi Đồng Minh Nhảy Vào, trang 609).
Nếu các quốc gia này không nhận được sự liên kết hữu hiệu của Mỹ để cùng nhau hành động cho kịp thời thì sẽ phải chấp nhận một hậu quả trầm trọng của 'một sự đã rồi', đó là một vạn lũy trường thành trên mặt Thái Bình Dương để bá chủ Á Châu, và từ đó sẽ phóng quyền lực đi thật xa.
Chu Ân Lai, Mao Trạch Đông và Lâm Bưu trước khi Lâm bị hạ bệBản quyền hình ảnhKEYSTONE/GETTY IMAGES
Image captionChu Ân Lai, Mao Trạch Đông và Lâm Bưu trước khi Lâm bị hạ bệ
Trong thư ngày 5/04/1954), Tổng thống Dwight Eisenhower viết cho Thủ tướng Anh Winston Churchill:
"Nếu tôi có thể nhắc lại lịch sử, chúng ta đã không ngăn chận Hirohito, Mussolini, Hitler vì đã không cùng hành động chung với nhau, và cho kịp thời. Chính vì thế nên đã dẫn tới một thảm kịch bi đát và một sự nguy hiểm tuyệt vọng trong mấy năm sau. Và như vậy, chúng ta đã học được điều gì chưa trong kinh nghiệm này?"
Vì không ngăn chặn Nhật Hoàng Hirohito nên Nhật Bản đã từng bước bá chủ cả Á Châu.
Để biết xem chính quyền Trump có học được điều gì trong kinh nghiệm này hay không, ta phải chờ đợi tới khi cuộc khủng hoảng chính trị hiện nay tại Washington được hạ nhiệt.
Có dư luận cho rằng để ngăn chặn Trung Quốc, chính quyền Trump (gồm Phó tổng thống Mike Pence - người sẽ kế vị TT Trump trong trường hợp bị bãi nhiệm) đang chuẩn bị đánh "ván bài Nga" (Russian card): liên kết với Moscow để cân bằng với Trung Quốc, ngược lại với "ván bài Trung Quốc" (China card) của TT Nixon, từng dùng Trung Quốc để cân bằng với Liên Xô hồi đó.
Chúng ta hãy chờ xem.
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của Giáo sư Nguyễn Tiến Hưng. Sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Ông là tác giả cuốn 'Khi Đồng minh Tháo chạy' và là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh. Hiện ông định cư tại Virginia, Hoa Kỳ.

Tranh chấp biển Đông có làm ảnh hưởng đến quan hệ giữa hai đảng cộng sản?

Thanh Trúc, RFA

Tướng Phạm Trường Long, Phó chủ tịch quân ủy trung ương Trung Quốc (phải) và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch tại Bắc Kinh hôm 29/8/2016.
Tướng Phạm Trường Long, Phó chủ tịch quân ủy trung ương Trung Quốc (phải) và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Ngô Xuân Lịch tại Bắc Kinh hôm 29/8/2016.
AFP

Quan hệ Việt Nam Trung Quốc thời gian qua khá căng thẳng  từ những diễn biến liên quan đến tranh chấp biển Đông cũng những động thái mới trong tương quan giữa Việt Nam với Hoa Kỳ và Nhật Bản mà Trung Quốc từng đưa ra lời cảnh báo.
Thanh Trúc phỏng vấn giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia về quan hệ quốc tế đại học George Mason, Hoa Kỳ, về những chuyện mới xảy ra trên Biển Đông:
Thanh Trúc: Thưa giáo sư, quan hệ Việt Nam và Trung Quốc trong vài tuần qua theo đánh giá của các chuyên gia quốc tế là đã trở nên căng thẳng sau khi tướng Phạm Trường Long, Phó chủ tịch quân ủy trung ương TQ cắt ngắn chuyến thăm Việt Nam. Nhưng mới đây người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam lại nói là hai bên không căng thẳng. Vậy ông nhận định gì về tình hình quan hệ hai nước hiện nay?
Giáo Sư Nguyễn Mạnh Hùng: Quan hệ 2 nước khi nóng khi lạnh, một trong những căn nguyên mâu thuẫn là vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo trên Biển Đông. Tranh chấp lên đỉnh điểm vào khoảng năm 2014 khi Trung Quốc kéo giàn khoan 981 vào Biển Đông mà Việt Nma phản đối dữ dội lắm. Nhưng sau khi họ kéo ra thì quan hệ 2 bên bắt đầu ấm lại cho  đến chuyến thăm của ông Phạm Trường Long thì sự kiện đột nhiên ông bỏ về rõ ràng là có chuyện cơm không lành canh không ngọt rồi. Bởi vì trong chương trình viếng thăm thì ngoài thảo luận và gặp gỡ các ông lãnh đạo cao cấp nhất của Việt Nam thì ông sẽ chủ trì cùng ông tướng Ngô Xuân Lịch về việc gọi là giao lưu quân sự 2 bên ở vùng biên giới 2 tỉnh Lạng Sơn và Vân Nam, thì chuyện này bị hủy.
Có lẽ 2 bên đều không muốn làm cho nóng lên  thành ra  Trung Quốc chỉ nói rằng ông ấy về bởi vì có khó khăn trong việc xếp đặt chương tình, thành  ra mình cũng không lấy làm lạ khi phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao nói rằng không có căng thẳng, nhưng mà trên thực tế có nhiều chỉ dấu căng thẳng.
Thứ nhất, khi ông tướng Phạm Trường Long đột ngột bỏ về ngày 18 thì chiều hôm đó, đúng lúc Cục Hải Vụ của Trung Quốc tuyên bố đưa giàn khoan Nam Hải đi vào vùng Vịnh Bắc Bộ là vùng 2 bên đang đàm phán để giải quyết vấn đề lãnh hải. Cũng sáng hôm đó, 2 tàu Trung Quốc do những sĩ quan mặc quân phục đã tấn công tàu đánh cá Việt Nam.
Thứ hai, chính báo Trung Quốc tường thuật lại, khi gặp các nhà lãnh đạo cao cấp của Việt Nam chính ông tướng Long đã nói thẳng thừng là tất cả biển và các đảo vùng Biển Đông thuộc về Trung Quốc từ thời thượng cổ rồi.
Thứ ba, tin của CSIS Trung Tâm Nghiên Cứu Chiến Lược Và Quan Hệ Quốc Tế của Mỹ nói rằng ông tướng Long đến Việt Nam để phản đối việc Việt Nam cho phép công ty của Tây Ban Nha khai thác lô 118 Cá Voi Xanh và lô 136  nhưng bị Việt Nam bắt khớp nên ông bỏ về. Ba điều đó cho thấy rõ ràng là có sự căng thẳng.
Quan hệ 2 nước khi nóng khi lạnh, một trong những căn nguyên mâu thuẫn là vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo trên Biển Đông. - GS. Nguyễn Mạnh Hùng
Thanh Trúc : Thưa ông, tờ Hoàn Cầu Thời Báo của Trung Quốc mới đây cảnh báo Việt Nam về ngoại giao đi dây tức là quan hệ với cả Mỹ và Nhật. Những bước tiến nào trong quan hệ của Việt Nam với Nhật và Mỹ gần đây khiến Trung Quốc lo ngại nhất?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Ngược lại giai đoạn ngày xưa người ta từng nói chính phủ do ông Dũng thì thân Mỹ còn đảng thì thân Trung Quốc. Nhưng kể từ 2015 khi ông Trọng thực hiện chuyến đi của ông sang Mỹ và tuyên bố Hoa Kỳ là địa bàn hoạt động tối quan trọng của nền ngoại giao Việt Nam, từ đó có sự đồng ý cả đảng lẫn nhà nước quan hệ Mỹ Việt Nam tăng cường nhanh chóng, nhất là về phương diện quốc phòng. Gần đây nhất là ông Phúc là người lãnh đạo duy nhất của các nước Đông Nam Á được mời sang Hoa Kỳ hội kiến với ông Trump và ký những hiệp ước thỏa thuận tăng cường hợp tác với nhau.Cùng lúc đó chúng ta thấy Hoa Kỳ cũng giao cho Việt Nam tàu hải giám. Lúc ông Phúc sang đây thì thượng nghĩ sĩ McCain đưa một phái đoàn quốc phòng của thượng viện sang thăm Việt Nam mà đi thăm ngay Cam Ranh. Lúc đó khu trục hạm John McCain có mặt ở đó, cho thấy những dấu hiệu Mỹ và Việt Nam xích lại rất gần.
Trước klhi thăm Mỹ thì  ông Phúc cũng sang Nhật gặp thủ tướng Shinzo Abe, hai bên thỏa thuận nâng cao tầm hợp tác quân sự và an ninh, Nhật đồng thời lúc  ấy cam kết viện trợ cho Việt Nam 900 triệu Mỹ kim để tăng cường khả năng hải giám của Việt Nam, trao qua Việt Nam 6 tàu hải giám. Cả Việt Nam, Mỹ, Nhật trong thông cáo chung đều nói về Biển Đông theo lập trường của Việt Nam. Khi mà Việt Nam đi gần với 2 nước lớn có khả năng thì dĩ nhiên phải quan tâm.
Thanh Trúc: Liệu rằng sức ép từ phía Trung Quốc có thể khiến Việt Nam phải thay đổi hay điều chỉnh chính sách ngoại giao trong thời gian tới thưa giáo sư?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Mục tiêu một quốc gia theo đuổi trong hoạt động ngoại giao của họ thì tương đối ít thay đổi nhưng chính sách để thi hành mục tiêu đó phải thay đổi tùy theo hoàn cảnh. Vì thế một khi Trung Quốc có sức ép thì Việt Nam phải tìm cách thích ứng, miễn làm sao bảo vệ được  lập trường của mình. Mục tiêu hiện nay của Việt Nam về vấn để  biển đảo là phải bảo vệ được chủ quyền quốc gia, bảo vệ được những vùng biển đảo nào mình còn kiểm soát được, đấy là quan trọng nhất. Sự bảo vệ đó, một bên là sức ép Trung Quốc, một bên là sự đối lại của Việt Nam, tùy thuộc vào điều gọi là cán cân lực lượng giữa 2 bên. Lực lượng này gồm những yếu tố vô hình lẫn yếu tố hữu hình. Những yếu tố hữu hình thí dụ như quân số, khí giới, đồng minh. Còn  yếu tố vô hình là sự khả tín của đồng minh, quyết tâm và tinh thần của quân sĩ, sự đoàn kết quốc gia, phong trào thế giới và công luận quốc tế. Đó là những điều có thể vận dụng để đối phó những áp lực của Trung Quốc.
Thanh Trúc: Việt Nam và Trung Quốc đều theo chế độ một đảng lãnh đạo mà cụ thể là đảng cộng sản. Theo ông căng thẳng giữa hai nước liên quan đến tranh chấp chủ quyền ngoài biển ảnh hưởng thế nào đến quan hệ giữa hai đảng?
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng: Quan hệ Việt Nam Trung Quốc gồm quan hệ nhà nước và của đảng, thế thì trong trường hợp thông thường vì sự tương đồng ý thức hệ làm cho quan hệ 2 nước, giữa nhà nước với nhà nước, tương đối nó khắn khít hơn. Nhưng trong tình hình bây giờ ở Việt Nam với Trung Quốc thì ý thức hệ không còn quan trọng như xưa nữa. Khi quyền lợi quốc gia có mưu lợi lớn thì thì mâu thuẫn đó ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ giữa các đảng.
Nhưng trong tình hình bây giờ ở Việt Nam với Trung Quốc thì ý thức hệ không còn quan trọng như xưa nữa. - GS. Nguyễn Mạnh Hùng
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Lô Cá Voi Xanh là lô 118 thì rõ ràng nó ở trên vùng thềm lục địa của Việt Nam. Trung Quốc thắc mắc là bởi vì khi khai thác dầu quặng ở đấy thì nó có thể luồn sang nó hút phía bên “đường   lưỡi bò”. Cái đó hoàn toàn nằm ngoài “đường lưỡi bò”. Thế còn khu 136 mà cho công ty Tây Ban Nha khai thác thì nó ở trên đảo  gọi là  bãi Tư Chính, đó là bãi chìm mà hai bên tranh chấp nhiều chục năm nay rồi. Khi Trung Quốc công bố “đường lưỡi bò” thì bãi Tu Chính đó nằm trong đường của Trung Quốc. Việt Nam không nhận “đường lưỡi bò” cho nên có tranh chấp.
Bây giờ vấn đề đặt ra là Việt Nam sẽ khai thác như thế nào thì cho phép khai thác là quyền của Việt Nam. Nhưng việc quyết định có khai thác không, khai thác lúc nào là sự chọn lựa của các hãng dầu. Trong quá khứ đã có trường hợp Trung Quốc ép quá thì  các hãng dầu nó không khai thác nữa. Sẽ  rất khó khăn bởi vì việc đó sẽ gây sự đụng độ mà Việt Nam không muốn. Phải khéo léo lắm, trên nguyên tắc cứ đòi khai thác nhưng cứ trì hoãn cho đến khi giải quyết được vấn đề chủ quyền thì việc khai thác tương đối dễ dàng hơn.
Thanh Trúc: Trong tuyên bố mới đây giữa Nga và Việt Nam, Việt Nam cam kết tăng cường hoạt động mở rộng thăm dò khai thác dầu khí với các tập đoàn của Nga, theo ông sức ép của Trung Quốc có làm Nga phải quan ngại trong việc mở rộng thăm dò khai thác này?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Các công ty của Nga đã từng cộng tác với Việt Nam để khai thác rồi nhưng ở những vùng không có tranh chấp với Trung Quốc. Trong những vùng đó thì không có vấn đề gì xảy ra cả, nhưng khi đụng đến những vùng mà Trung Quốc đòi hỏi là của họ và họ đưa ra cảnh cáo thì dĩ nhiên là Nga phải ngần ngại.
Thanh Trúc: Ông đánh giá thế nào về khả năng có thể xảy ra đụng độ trên biển giữa hai nước trong thời gian tới khi Việt Nam tiến hành các hoạt động thăm dò khai thác ngoài khơi và Trung Quốc cho giàn khoan tới cửa vịnh Bắc Bộ?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Việc tuyên bố và những hành động trên giấy tờ để tiến hành khai thác là một chuyện, nhưng việc thực sự khai thác lại là chuyện khác, nó là vấn đề thời gian. Đụng độ hay không thì trong tình trạng hiện nay, khi mà tàu chiến Mỹ cứ tiếp tục làm công tác tuần tra để bảo vệ  lưu thông hàng hải thì các quốc gia tranh chấp thường muốn làm áp lực nhưng không gây đến chiến tranh. Tôi nghĩ khả năng có những hành động  gây đụng độ thì có nhưng rất thấp.
Thanh Trúc: Thưa ông  hôm 30 tháng Sáu Nhóm Sáng kiến Minh Bạch Hàng Hải AMTI thuộc Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược & Quốc tế (CSIS) tại thủ đô Washington DC của Hoa Kỳ cho biết trong một báo cáo gần đây là 3 đảo nhân tạo lớn nhất mà Trung Quốc bồi đắp lên tại khu vực Trường Sa đang sẵn sàng để được bố trí các trang thiết bị quân sự như bệ phóng tên lửa, chưa kể những công trình ngầm chứa đạn dược, theo ông những hoạt động này của Trung Quốc ảnh hưởng thế nào đến an ninh khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Trung Quốc muốn có vai trò trọng yếu toàn vùng Á Châu, mục tiêu của họ kiên trì lắm, họ cứ từng bước họ tiến hành. Trước hết họ xây những đảo nhân tạo có tính cách phòng thủ mà Mỹ và các nước khác đều phản đối. Họ thành công trong việc đó vì không có phản ứng mạnh. Chúng ta thấy  ông Tillerson khi ra điều trần để quốc hội chấp thuận cho  ông làm ngoại trưởng Mỹ, đã tuyên bố không cho phép tàu Trung Quốc đến những đảo nhân tạo đó. Ông nói vậy thôi chứ đâu có thực hiện được.
Thanh Trúc: Hoa Kỳ mới đây cho tàu chiến USS Stethem đi qua khu vực 12 hải lý thuộc đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa để thách thức các đòi hỏi về chủ quyền của Trung Quốc ở khu vực này.  Đây là một hoạt động thuộc chương trình tự do hàng hải của Mỹ được thực hiện từ thời Tổng thống Obama nhưng bị một số chuyên gia đánh giá là không có hiệu quả, theo ông việc chính quyền Tổng thống Trump cho tàu đi qua đảo Tri Tôn lần này nói lên điều gì trong cách tiếp cận với vấn đề biển Đông của chính quyền Mỹ mới?
GS Nguyễn Mạnh Hùng: Có 2 nhận xét về điều đó. Thứ nhất Fon-Op tuần tra bảo vệ lưu thông hàng hải thì dưới thời Obama nó có tính cách rón rén hơn nhiều. Dưới thời ông Trump  thì nó mạnh hơn, nó đi vào trong vùng 12 hải lý. Không những thế nó lại còn thi hành gọi là tuần tra chứ không còn gọi là “peaceful transit”nữa, nó khác hẳn trước. Thật ra từ hồi ông Trump lên thì có 2 cuộc  tuần tra kiểu đó. Mỹ muốn chứng tỏ sự hiện diện của mình . Nhận xét thứ hai của tôi là hiệu quả đến đâu thì mình không biết là vì tổng thống Trump  hành động khó tiên đoán lắm, ông thích “make deal” thích kinh tế nhiều lắm và ông làm những quyết định có tính cách tức thời trong khi các cố vấn quân sự của ông thì có tính cách chiến lược.
Đối với những lãnh đạo Á Châu thì họ rất lo vì một đằng thì ông Trump cứ lơ là, một đằng thì tổng trưởng quốc phòng với mấy ông cố vấn anh an ninh quốc gia đều nói chúng tôi cam kết với các ông. Bây giờ vạch ra là mình cứ dấn thân với Mỹ mà đùng một cái ông tổng thống làm cái “deal” với ông Tập Cận Bình chẳng hạn thì mình ngỡ ngàng bởi vì chính sách tay chân của Mỹ không phối hợp với nhau.
Xin cảm ơn giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng về bài phỏng vấn này.