Thứ Bảy, 9 tháng 9, 2017

Trần Đình Triển - Người đẩy hệ thống ngân hàng VN bê bối là ông Nguyễn Tấn Dũng và Nông Đức Mạnh; Đại án liên lụy đến cựu phó thống đốc ngân hàng nhà nước

Người đẩy hệ thống ngân hàng VN bê bối là ai?

Tôi đã từ bỏ ngân hàng 9 năm nay, ra đi chưa một lần quay lại. Bao nhiêu điều muốn nói với Đảng, với nhà nước và nhân dân; nhưng nói có ai nghe không? Tôi cũng đã có lần báo cáo với một vị lãnh đạo có thẩm quyền nhưng chuyện đâu cũng về đó.

Các phi công Đỗ Xuân Hòa, Trần Quang Tuấn hiệp đồng trước chuyến bay chuyên cơ. Ảnh: Hoàng Hà

Nhìn bề ngoài cảm thấy hệ thống ngân hàng đang bình yên, nhưng thực chất bên trong đã đến mức báo động - Đó là nhận thức của những người thật sự vì đất nước và có trí tuệ. Tôi thật sự lo lắng!

Anh Đặng Thanh Bình ( nguyên Phó Thống đốc NHNN) bị khởi tố, tôi cho rằng lỗi chính không phải do anh Đặng Thanh Bình. Tôi đồng tình với câu nói của bị cáo Nguyễn Thị Thu ( nguyên Trưởng ban kế toán OceanBank) tại toà: "Quản lý nhà nước đã đẩy chúng tôi vào vòng lao lý". Vậy thì câu hỏi lớn đặt ra là do ai?

Đó chính là nguyên Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và sự vô trách nhiệm, thiếu kiến thức và quyết đoán của nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh.

Với tinh thần và ý thức vì Tổ quốc và nhân dân, vì sự tiến bộ; không mặc cảm, không định kiến, không vì động cơ nào khác là cùng nêu vấn đề, nói thẳng nói thật để tìm ra giải pháp tốt nhất cho công tác quản lý và cơ chế phù hợp,...phát huy hiệu quả lĩnh vực rường cột của nền kinh tế. Từ hôm nay, nếu rảnh rỗi tôi nêu dẫn chứng và quan điểm của cá nhân tôi về nội dung trên.

Trần Đình Triển

(FB Trần Đình Triển)

Đại án liên lụy đến cựu phó thống đốc ngân hàng nhà nước

08/09/2017
Ông Đặng Thanh Bình, từng là phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước, nghỉ hưu năm 2015
Bộ Công an Việt Nam hôm 8/9 thông báo khởi tố bị can đối với ông Đặng Thanh Bình, nguyên Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước, về tội “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.
Tuy chưa bắt giữ nhưng nhà chức trách áp dụng các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú đối với ông Bình.
Báo chí trong nước dẫn lại thông tin của Bộ Công an cho hay ông Bình bị khởi tố do có liên quan đến “đại án” kinh tế là vụ Ngân hàng Xây dựng thất thoát 9.000 tỷ đồng.
Ngân hàng này, gọi tắt là VNCB, đã đổi tên từ Ngân hàng Đại tín (Trust Bank) hồi tháng 5/2013. Tính đến thời điểm đó, VNCB thua lỗ trầm trọng, bị Ngân hàng Nhà nước đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.
Trong tình trạng đó, về lý thuyết, mọi giao dịch của VNCB có giá trị từ 5 tỷ đồng trở lên phải có ý kiến của Tổ giám sát của Ngân hàng Nhà nước.
Trên thực tế, bất chấp việc bị kiểm soát đặc biệt, chủ tịch Hội đồng Quản trị của VNCB ở thời điểm đó là Phạm Công Danh vẫn lập các hồ sơ khống để rút tiền, vay tiền của chính ngân hàng, dùng để trả các khoản nợ, tiền lãi vay bên ngoài và chi tiêu cá nhân.
Theo các tài liệu vụ án, tính đến tháng 5/2014, ông Danh và các các nhân viên dưới quyền gây thiệt hại cho ngân hàng 9.000 tỷ đồng.
Vì tội này, ông Danh đã nhận mức án 30 năm tù giam sau 2 phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm lần lượt vào mùa thu 2016 và đầu năm 2017.
Giờ đây, vụ án ngân hàng VNCB đi vào giai đoạn 2, trong đó công an điều tra về hành vi “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” của 4 thành viên tổ giám sát của Ngân hàng nhà nước đặt tại VNCB. Đó là các ông Hà Tấn Phước, Lê Văn Thanh, Phạm Thế Tuân và Ngô Văn Thanh.
Dù cựu Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước Đặng Thanh Bình không phải là thành viên tổ giám sát, song ông bị liên lụy vì có trách nhiệm quản lý với tư cách là lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước.
Càng về sau này, hai mươi mấy năm vừa qua, các vụ án ngày càng lớn, ngày càng mở rộng. Sờ đâu cũng thấy tham ô, tham nhũng. Như vậy người ta thấy bộ máy có vấn đề. Mong muốn lớn nhất là đừng để thất thoát tài sản, kiên quyết tìm cách thu hồi lại. Nặng về trị chỗ này trị chỗ kia thì cuối cùng không đi đến đâu.
Cựu Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Trần Quốc Thuận nói động thái lãnh đạo đảng “bật đèn xanh” cho việc khởi tố ông Bình, từng giữ chức tương đương thứ trưởng, cho thấy họ nhìn ra “vấn đề nghiêm trọng” trong vụ VNCB nói riêng và nạn tham nhũng ở Việt Nam nói chung.
Nhưng ông Thuận bình luận với VOA từ thành phố Hồ Chí Minh rằng công cuộc chống tham nhũng vẫn luẩn quẩn:
“Cái lớn nhất là người ta chưa thấy đưa ra giải pháp gì để làm sao không xảy ra những vụ như vậy. Càng về sau này, hai mươi mấy năm vừa qua, các vụ án ngày càng lớn, ngày càng mở rộng. Sờ đâu cũng thấy tham ô, tham nhũng. Như vậy người ta thấy bộ máy có vấn đề. Mong muốn lớn nhất là đừng để thất thoát tài sản, kiên quyết tìm cách thu hồi lại. Nặng về trị chỗ này trị chỗ kia thì cuối cùng không đi đến đâu”.
Vị cựu phó thống đốc 63 tuổi có thâm niên 25 năm làm trong ngành ngân hàng. Ông Bình được bổ nhiệm làm Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước năm 2005.
Các chức vụ trước đó của ông trong cùng ngân hàng bao gồm Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ và đào tạo từ 2002, Vụ trưởng Vụ Pháp chế năm 1997, và Vụ trưởng Vụ Các định chế tài chính năm 1994. Ông Đặng Thanh Bình nghỉ hưu năm 2015.

Thứ Sáu, 8 tháng 9, 2017

Quan niệm của người xưa về tướng đàn ông bần hàn hay phú quý

Người có tính cách như thế nào sẽ được biểu lộ ra ngoài như thế ấy. Người đàn ông có thần mắt hung ác thì đa phần là bạc tình; mũi dày thì phú quý; tinh thần lạc quan thì sống thọ trẻ lâu…

đàn ông, Phú Quý, nhân tướng, cổ nhân,
Đàn ông xương trán rộng rãi, khi nhìn như có thần khí thoát ra, hai mắt sáng sủa trong sáng như ánh trăng mùa thu là tướng người đàn ông có phúc. (Ảnh: Yan)
Người xưa cho rằng, con người cũng giống như tự nhiên, đều được tạo hóa từ Ngũ hành sinh khắc mà ra. Nếu trong các mối quan hệ, luân lý làm người mà phù hợp với trời đất thì vinh hoa phú quý và ngược lại. Những sang hèn phú quý ấy lại được thể hiện ra ngoại hình, gọi là “tướng”.
Vì vậy, muốn biết một người phú quý sang hèn, thọ trường hay đoản mệnh thì người xưa nghe tiếng, nhìn sắc mặt cũng có thể biết được. Dưới đây xin giới thiệu một số quan niệm của người xưa khi quan sát tướng người đàn ông để bạn đọc tham khảo.
Đàn ông có tướng phú quý
Khi xem tướng mặt của người đàn ông, người xưa chú ý năm bộ phận nổi rõ trên mặt gọi là “ngũ nhạc”, ngũ nhạc chia thành Đông Tây Nam Bắc và trung ương, tức trái phải trên dưới và ở giữa. Người có tổng thể Đông Tây nhạc (phía bên trái phải mặt) vừa phải hài hòa; Nam nhạc (trên trán) bằng phẳng rộng rãi; Bắc nhạc (cằm) đầy đặn tròn trịa; trung nhạc (giữa mặt) vuông vức nổi cao, trên giáp với ấn đường là tướng người đàn ông đại phú đại quý.
Nếu tướng mạo đường đường, trang nghiêm, thần sắc có uy, xương trán rộng rãi, khi nhìn như có thần khí thoát ra, hai mắt sáng sủa trong sáng như ánh trăng mùa thu là tướng người đàn ông có phúc.
Nếu lông mày ngay ngắn cao hẳn lên trên mắt khoảng nửa thốn (1,3cm), lông mày gọn gàng, thanh dài ra phía tóc mai là người thông minh, phú quý, cơ trí, có tài.
Nếu xương đầu to tròn nhưng không có góc cạnh, bụng to, lưng gồ gề không bằng phẳng, vai ngang nhô lên, kiểu tướng này người xưa quan niệm rằng nếu mười người thì có đến 9 người là thô kệch hoặc trí óc chậm chạp, ngây ngô nếu không thì cũng ham mê cờ bạc.
Những người có tiếng nói to trầm nghe như sấm bên tai hoặc âm vực hùng hậu có lực như tiếng trống, cho dù tướng mạo không được tốt thì cuộc đời cũng không phải lo đến chuyện cơm áo gạo tiền. Ngược lại, những người tiếng nói không có lực, giọng khàn thông thường là tướng nghèo.
Người đàn ông có lưng rộng rãi đầy đặn, có cơ lưng nổi lên rõ ràng như lưng rùa thì quan trường thuận lợi. Ngược lại, lưng hẹp thấp sâu xuống như lòng máng, không đầy đặn, thông thường là tướng không phú cũng không quý, thậm chí nghèo khổ vì gặp nhiều hoạn nạn.
Người xưa quan niệm bụng thuộc âm, là nơi cất giữ vật chất nên người có bụng dài lại xệ xuống dưới là quý tướng. Nếu bụng hướng lên trên, nhỏ và ngắn thì ăn cơm không biết no, nghèo đói và dốt nát, kém về trí lực.
Người đàn ông có ngực bằng phẳng dài, rộng dày, ngực có thể che được người là người có trí cao, phúc dày. Ngược lại, ngực hẹp mà dài thì thông thường là khó đạt được những dự định như tính toán, ngực mỏng lại hẹp là người đàn ông bần tiện, nghèo đói thấp hèn và nông cạn.
Người đàn ông có lỗ rốn rộng và sâu là người thông minh, có phúc; khu vực rốn thấp xuống là người biết tính toán lo xa. Ngược lại, nếu lỗ rốn cao lại hẹp thì thông thường là kém về mặt tri thức, mông muội thiếu hiểu biết và nông cạn.
Người xưa khi miêu tả tướng đi của đàn ông thường nói, tướng đi như con rùa là người thông minh; tướng đi như con la con lừa là người nghèo nàn thanh đạm; tướng đi mà hai gót chân chạm nhau thì già yếu sớm. Khi xem tướng đi của người đàn ông để chọn chồng cho con, người xưa thường cho người đó đi khoảng chục bước, sau đó gọi anh ta quay lại nếu người đó quay đầu về bên trái là có chức tước trong quan trường, phù hợp với phụ nữ.
Trong mệnh lý học quan niệm rằng, đi thuộc dương, ngồi thuộc âm. Nếu đi như nước chảy thì ngồi phải như núi thái sơn. Nếu tướng ngồi vững chãi như bàn thạch, như núi là người đại quý. Trong quan niệm dân gian cũng cho rằng những người khi ngồi hay rung đùi, vẫy cổ chân là người nghèo.
Nhưng có lẽ ít người biết được tại sao lại có quan niệm như vậy. Theo quan niệm người xưa, nếu rung cây thì lá rụng, người ngồi mà rung đùi vẫy chân là tán tài, tức tài lộc không tụ vào người được, vào bao nhiêu đều bị rũ ra hết.
Người có mắt như mắt dê, tứ phía đều lộ lòng trắng; đầu nhỏ, trán hẹp; lông mày rậm tóc khô như cỏ; miệng to môi dày, đầu mũi nhọn, cằm mỏng; vành tai hướng về phía sau, đầu lưỡi lộ rõ là mệnh tướng ác, không tốt.
Trong quan niệm mệnh lý học cho rằng, người có đầu nhỏ, mắt nhỏ, bụng nhỏ, tai nhỏ, miệng nhỏ, đồng thời năm bộ phận nhỏ này đều ngay ngắn đoan chính không bị khiếm khuyết là tướng phú và quý. Nhưng nếu năm bộ phận trên có ba, bốn bộ phận nhỏ nhưng có một hoặc hai bộ phận to hơn bình thường thì lại là tướng nghèo khổ bần hàn.
Người đàn ông có góc trán bị khuyết, mắt nhìn ngang thẳng về phía trước, môi không che phủ hết răng, sống mũi gãy thấp, tiếng nói khỏe nhưng phân tán, da thô, tướng đi nghiêng lệch không thẳng, sắc mặt khô đỏ thường là tướng lụi bại thua lỗ.
Phần thiên đình phía trên trán đầy đặn, trên trán lại có xương “phục tê” gồ lên, quan sát kĩ giống như cái sừng ngắn của con tê giác là quý tướng. Xương phục tê nằm trên ấn đường, giữa trán nhô hẳn lên cao, xung quanh xương này có các đường lằn rãnh chia tách rõ nét, nếu xương này chạy lên đến huyệt bách hội ở đỉnh đầu thì vừa quý vừa thọ.
Hình dạng xương phục tê hình vuông là quý nhất sau đó đến hình tròn, cuối cùng là hình thoi. Người có xương trán hướng lên trên cũng là quý tướng, nắm giữ quyền lực, xương trán càng hướng lên trên càng tốt, quyền uy càng lớn.
Người có tai trắng hơn mặt, tức phần da ở tai trắng hơn da ở mặt được coi là “thanh quý tướng”, tức người có danh tiếng lẫy lừng, sự nghiệp thuận lợi, phúc lộc quyền quý đều hội tụ.
Người có lông mày dài, thanh nhỏ, đuôi lông mày hướng lên trên, uy phong lẫm liệt là đại diện cho người đạt được nhiều thành tựu trong sự nghiệp. Lông mày trong quan niệm người xưa là đại diện cho “trung niên vận”. Người có kiểu lông mày trên được coi là quý tướng.
Trong nhân tướng học ấn đường nằm ở giữa hai lông mày gọi là “xương kim thành” vuông vức, rộng rãi nhô cao hoặc có xương nhô cao chạy từ ấn đường lên huyệt bách hội trên đỉnh đầu gọi là “xương ngọc trụ hoặc trung phong thiên trụ” đều là người có quý tướng.
Người xưa cho rằng những người có xương ngọc trụ có tài năng sách lược hơn người, làm việc ngay thẳng uy nghiêm, danh tiếng vang dội khắp nơi, những người này thường có nghiệp làm bá vương hoặc công thần trụ cột của quốc gia.
Tướng trán đầy đặn, rộng là người có trí nhớ tốt, theo quan niệm người xưa, trán đại diện cho vận thiếu niên, tức việc tốt xấu trước 30 tuổi. Người có trán cao đầy đặn có trí nhớ tốt, là người biết lễ nghĩa trên dưới, không tự nhiên gây gổ hoặc có hành động thô lỗ. Phụ nữ thường có trán đầy đặn hơn đàn ông nên thông thường trí nhớ cũng tốt hơn nam giới.
Vì vậy, phụ nữ muốn tìm một người đàn ông có tri thức trí tuệ hơn mình có thể lưu ý xem người ấy có trán đầy đặn rộng rãi hay không.
TinhHoa tổng hợ

VIỆT NAM CÓ "TAM GIẢ QUỶ" Ở SƠN LA

Bí ẩn ‘Tam giác quỷ’ ở Việt Nam, nơi những chiếc máy bay một đi không trở lại

Tam giác quỷ Bermuda ở Bắc Đại Tây Dương nổi tiếng là mồ chôn nhiều tàu thuyền qua lại, còn tam giác quỷ ở Tây Bắc Việt Nam lại là nỗi khiếp sợ của máy bay mà ít người biết đến. Thậm chí, ngành hàng không còn phải chấp nhận đi vòng xa hơn để tránh rủi ro, bất trắc.

Việt Nam, tam giác quỷ, núi u bò,
Đỉnh núi U Bò quanh năm bao phủ trong mây trắng (Ảnh: mocchautourism.com)
Khu vực này được gọi là núi U Bò thuộc huyện Bắc Yên, Sơn La. Ngọn núi này cao hơn 3.000 m so với mực nước biển, nằm ở phần đuôi của dãy Hoàng Liên Sơn hùng vĩ. Theo người dân địa phương kể lại, từ hàng chục năm qua đã có cả chục chiếc máy bay đi qua khu vực này rồi đâm xuống núi. Hai vụ gần đây nhất xảy ra năm 1985 và 1994.
Cuối năm 1985, Cục Hàng không dân dụng Việt Nam thông báo có một chiếc máy bay quân sự chở các chuyên gia Nga từ Bắc Lào về Việt Nam đã mất liên lạc và mất tích. Theo như sơ đồ đường bay, thì chiếc máy bay này đã bay qua khu vực Bắc Yên.
Một số đồng bào Mông sống ở các xã Xím Vàng, Tà Xùa, Háng Đồng kể lại rằng, họ đã nghe thấy một tiếng nổ trầm, như tiếng bom vọng lại từ rất xa. Những cụ già từng chứng kiến máy bay rơi ở khu vực này thời chiến tranh thì khẳng định chắc nịch rằng, tiếng nổ đó đúng là tiếng máy bay đâm vào núi.
Đoàn tìm kiếm gồm hàng trăm người nhanh chóng được thành lập, họ đi suốt ngày đêm trong rừng, song tuyệt nhiên không thấy xác máy bay ở đâu.
Đến ngày tìm kiếm thứ ba thì đoàn nhận được tin báo của một thợ săn người Mông rằng, chính mắt anh ta đã nhìn thấy một chiếc trực thăng xuyên qua những đám mây, lao thẳng vào vách núi U Bò, rồi một tiếng nổ lớn phát ra, khói lửa cháy ngùn ngụt.
Xác định được địa điểm rơi máy bay, nhưng đội tìm kiếm phải lần mò suốt 4 ngày nữa, mới tìm thấy, bởi rừng rú quá hoang rậm, núi non quá cheo leo, hiểm trở. Những gì còn lại chỉ là những mảnh vụn máy bay và xác người cháy đen văng tứ phía.
Việt Nam, tam giác quỷ, núi u bò,
Một chiếc trực thăng xấu số đã từng rơi xuống khu vực này. (Ảnh minh họa: enternews.vn)
Bẵng đi 10 năm, đến năm 1994, huyện Bắc Yên lại xôn xao tin máy bay rơi khi đồng bào Mông sống trên những đỉnh núi cao ở các xã Xím Vàng, Tà Xùa kể rằng nghe thấy tiếng nổ lớn. Lần này, một chiếc máy bay trực thăng chở các chuyên gia bay từ Điện Biên về đã mất tích vào ngày 7/5/1994. Chiếc máy bay này chở các chuyên gia đi khảo sát để mở đường bay du lịch từ Hà Nội lên Điện Biên và Sơn La nhưng việc khảo sát chưa hoàn thành thì họ đã gặp nạn.
Đó là chiếc trực thăng Bell Long Ran Gere. Đây là loại máy bay khá hiện đại thời bấy giờ. Điều đặc biệt, viên phi công lái chiếc Bell Long Ran Gere là một người rất dày dạn kinh nghiệm với hơn 5.000 giờ bay.
Trong ngành hàng không, người có số giờ bay này rất ít. Bay được từng này giờ là đẳng cấp rất cao, đủ kinh nghiệm để xử lý tình huống bất trắc có thể coi là phức tạp nhất nếu xảy ra với máy bay. Theo cơ quan quản lý bay, thì khi chiếc máy bay qua khu vực này, đã mất tín hiệu đột ngột.
Bằng chứng về những vụ nổ máy bay ở núi U Bò còn được hiện diện trong rất nhiều dụng cụ làm việc của người Mông nơi đây. Bởi cứ mỗi lần nghe thấy tiếng nổ, bà con trong xã lại tổ chức vào ngọn núi U Bò để tìm, trước hết là tìm những nạn nhân xấu số, sau đó là kiếm sắt thép về rèn dao, cuốc, xẻng….
Nguyên nhân là gì?
Theo lý giải của đồng bào Mông, thì nguyên nhân có thể do ngọn núi U Bò quá cao, lại quanh năm chìm trong mây mù, trong khi phi công lại chủ quan khi lái máy bay qua khu vực này, nên đã đâm vào vách núi. Lý giải này có vẻ không đáng tin cậy lắm, bởi máy bay có nhiều công nghệ hiện đại, thiết bị định vị dẫn đường, vả lại phi công đều đã nắm rõ địa hình địa vật, chứ đâu dễ dàng bay liều trong mây.
Hơn nữa, có một thực tế là ngoài một số máy bay đâm vào vách núi vỡ tan tành thì theo lời kể của các cụ già người Mông có nhiều máy bay không va vào vách núi mà rơi thẳng xuống chân núi.
Một số suy đoán ngả theo hướng rối loạn từ trường. Ông Hạng A Củ, Chủ tịch UBND xã Xím Vàng bảo: “Ngày trước thi thoảng lại có đoàn nghiên cứu lên đây hỏi han, rồi thuê người Mông chúng ta dẫn đường vào chân ngọn núi U Bò kia. Họ vác theo máy móc đo đạc cái gì ta cũng chả biết. Còn có cả những phái đoàn người Tây vào xã ta tìm hiểu chuyện máy bay rơi. Nhưng họ có tìm hiểu được gì không thì ta không biết, vì họ có nói đâu”. 
Theo GS-TSKH Đặng Vũ Khúc (Cục Địa chất Khoáng sản Việt Nam), vùng đất nơi thâm sơn cùng cốc này có nhiều dị thường về địa chất, từ trường, nên khi máy bay di chuyển qua, những bộ phận điều khiển bằng điện tử dễ bị nhiễu loạn, gây nên những tai nạn thảm khốc.
Việt Nam, tam giác quỷ, núi u bò,
Các thiết bị định vị của máy bay có thể đã bị nhiễu loạn khi bay qua núi U Bò. (Ảnh minh họa: mypaper.pchome.com.tw)
Đại tá Mùi Trọng Bứng, nguyên Huyện đội trưởng Bắc Yên cho biết, hồi năm 1993, có một đoàn khảo sát địa chất lên đây nghiên cứu, ông đã hỏi thì họ đặt nghi vấn về một mỏ uranium nằm trong lòng đất Bắc Yên. Có thể, thứ nguyên liệu chế tạo bom nguyên tử này đã gây nhiễu loạn các thiết bị điện tử.
Một số ý kiến cho rằng, khu vực Xím Vàng nhiều núi cao, vực sâu, thung lũng hun hút. Những cấu tạo đặc biệt về địa hình, địa vật, tạo ra luồng không khí đối lưu mạnh, đủ sức hút rơi cả máy bay.
Từ năm 1994 đến nay, nơi này không xảy ra vụ máy bay rơi nào nữa, mặc dù các nhà khoa học vẫn chưa tìm được lời giải, song đường bay từ Hà Nội lên Sơn La, Điện Biên, Bắc Lào và ngược lại, xuyên qua khu vực xã Xím Vàng đã bị cấm. Do đó, gần hai chục năm nay, không có tiếng động cơ máy bay vang lên trên bầu trời Xím Vàng nữa.
Rõ ràng không phải ngẫu nhiên khi riêng trong thời kỳ Pháp thuộc, đã có tới 5 tai nạn máy bay xảy ra bí ẩn ở vùng đất này. Chưa kể, một số vụ máy bay khi qua đây bị mất tích. Thêm vào đó, thời kỳ chiến tranh, máy bay Mỹ thường bay từ Thượng Lào, Thái Lan qua khu vực này ném bom miền Bắc. Nhiều phi công cho biết, khi bay qua vùng Bắc Yên, các thiết bị điện tử thường nhiễu loạn, tâm trí phi công không được ổn định. Vì thế, họ thường tìm cách tránh khu vực này, dù phải bay đường vòng.
Giống như những gì xảy ra ở vùng tam giác quỷ Bermuda nổi tiếng, có lẽ sẽ còn cần rất nhiều thời gian, cùng sự đột phá mạnh mẽ về công nghệ để những bí ẩn xung quanh ngọn núi “tử thần” và những chiếc máy bay rơi không rõ nguyên nhân mới có thể bước ra khỏi bức màn bí ẩn.
Theo Đại Kỷ Nguyên

Thứ Năm, 7 tháng 9, 2017

Ăn mặc thế nào mới có thể tiếp thụ năng lượng của trời đất?; Lời vàng nhắn nhủ: Bạn có can đảm sống như cây mao trúc?

Cổ Nhân chúng ta thường giảng tam tài: Thiên – Địa – Nhân, hay Thiên – Nhân hợp nhất. Không chỉ để che chắn nhân thể, hay thể hiện tính thẩm mỹ, mà trang phục của chúng ta còn có ý tứ rất thâm sâu ứng với đất trời.

trôi dạt, tiếp thụ, Năng lượng, ăn mặc,
Trang phục của chúng ta có ý tứ rất thâm sâu ứng với đất trời. (Ảnh: Herbapol Wrocław)
Đôi lúc chúng ta để ý một chút sẽ thấy, tại các khu vực thành phố có những lúc khí tượng thủy văn dự báo có mưa nhưng lại không mưa, chỉ là có thể có cảm giác rất ngột ngạt mà thôi, nhưng mà vùng núi xung quanh thì đã mưa rồi, điều này là tại sao vậy?
Bởi vì nếu dự báo thời tiết ngày nay khi chỉ căn cứ vào nhiệt độ, độ ẩm, hướng gió của không khí… để dự đoán thời tiết, thì đây chỉ là tầng bề mặt Thiên khí, chưa xét đến Địa khí, chỉ có Thiên – Địa, Âm – Dương lưỡng khí giao hòa, mưa mới rơi xuống. Do đó có khả năng là không chuẩn xác.
Cấu tạo của cơ thể người là thích ứng với trường năng lượng của Địa cầu này, trường năng lượng của Nhân thể và Thiên Địa vận hành là đồng bộ, Thiên khí và Địa khí đối với cơ thể con người đều có thể có ảnh hưởng.
Bàn chân của người có một chức năng rất quan trọng, tức là tiếp thụ Địa khí, dưới lòng bàn chân có một huyệt vị, tên là huyệt Dũng Tuyền; đúng như tên của nó, huyệt vị này chính là tiếp thụ Địa khí (khí của đất) tuôn trào vào cơ thể (dũng: tuôn, phun trào). Một cách tương đối, đỉnh đầu vẫn còn một huyệt Bách Hội, dương khí của trời hội tụ tại đó.
trôi dạt, tiếp thụ, Năng lượng, ăn mặc,
Vị trí huyệt Dũng Tuyền. (Ảnh: Medlatec)
Có đôi khi chúng ta có thể cảm thấy, nếu ngủ tại thành phố lớn, ngủ một giấc dậy cảm thấy rất mệt mỏi, trạng thái của con người rất mê man, còn như ở vùng núi hoặc nông thôn, cho dù thời gian ngủ ngắn, nhưng giấc ngủ rất ngon, tỉnh dậy cảm thấy nhẹ nhàng khoan khoái.
Đây là bởi vì thành thị ngày nay khắp nơi đều là xi măng, bị cô lập với Địa khí. Ban ngày dương khí vận hành là chính, buổi tối lúc ngủ âm khí vận hành là chủ yếu, nếu mà xi măng phủ kín bề mặt đất, làm cho Địa khí toàn bộ bị cô lập, cơ thể người hấp thụ không được đầy đủ âm khí từ đất, tức là dễ tạo thành chất lượng giấc ngủ không được lý tưởng. (Tất nhiên còn phải kể đến các yếu tố như ô nhiễm môi trường…).
Truyền thống văn hóa của Nhật Bản hầu như đều bắt nguồn từ Trung Quốc xưa, trên thực tế bây giờ họ lại bảo tồn tốt hơn Trung Quốc. Chủ gia đình Nhật Bản trường phái cũ cho con cái đi giày, không bao giờ làm đế cao su. Giày vải kiểu cũ, khi đóng đế giày, ở giữa cũng có một vị trí để lộ ra, mọi người thường tưởng là để cho giày nhẹ mà làm vậy, thực tế lại không phải, nơi đó là vị trí huyệt Dũng Tuyền, là để con người tiếp Địa khí.
trôi dạt, tiếp thụ, Năng lượng, ăn mặc,
Đi giày vải giúp cơ thể hấp thu tốt địa khí. (Ảnh: en.wikipedia.org)
Địa là thổ, tỳ vị (dạ dày) cũng thuộc thổ. Sống trên lầu cao quá lâu, rời quá xa mặt đất, trong cơ thể sẽ thiếu thổ khí (thổ khí bất túc), chức năng tỳ vị sẽ không được tốt.
Cách tốt nhất là bình thường để sẵn một đôi giày vải cũ, cần kiểu phiên bản truyền thống, không được là đế cao su, hoặc các loại dép có thông lỗ dưới đế, hoặc dùng chân đất, có thời gian thì đi vào, xuống đất đi bộ vài vòng, như vậy có lợi cho cơ thể tiếp thụ Địa khí, tự bản thân cũng có thể cảm thấy thư thái phần nào.
Cuộc sống hiện tại quá phức tạp, áp lực quá lớn, dục vọng nhiều, đi ra phố mà nhìn thì thấy rất nhiều người nhăn mày cau mặt, mặt mày thư giãn là quá ít gặp. Giữa hai lông mày là nơi hội tụ trường năng lượng của cơ thể, cũng là nơi tiếp thụ năng lượng đến từ khí trời. Vậy làm sao mới có thể thư giãn mặt mày được đây? Có thể bắt đầu từ việc mặc một bộ quần áo rộng rãi, mặc y phục bó chật rất khó có cảm giác thân tâm thư thái.
Taị sao Trung Quốc bây giờ có nhiều nhà nghiên cứu đề xướng mặc Hán phục, mặc lên Hán phục là cảm thấy bản thân được rộng mở rồi, sẽ cảm thấy sự đoan trang chính ý, có được trường khí thênh thang rộng lớn. Y phục có thể ảnh hưởng đến tâm trạng của con người, mà tâm trạng có thể ảnh hưởng đến năng lượng con người tiếp thụ từ bên ngoài.
Hiểu được Trung Y mới biết, tại sao trước đây Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc thường chú trọng độ dày của trang phục phía sau thắt lưng. Giữa lưng là vị trí hai thận, huyệt Mệnh Môn tại đó, là nơi cố thủ (gìn giữ) nguyên khí cơ thể, các võ sư chính là để phòng trừ khi luyện võ khí nguyên dương thoát ra, mới buộc đai thắt lưng dày dặn.
trôi dạt, tiếp thụ, Năng lượng, ăn mặc,
Các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc trước đây thường chú trọng độ dày của trang phục phía sau thắt lưng. (Ảnh: travel.tribunnews.com)
Trong một khoảng không gian, không khí dưới nóng thì trên lạnh, trên lạnh thì sẽ hướng xuống dưới, dưới nóng thì sẽ hướng lên trên, như vậy mới có thể sản sinh tuần hoàn; Nếu mà trên nóng dưới lạnh, thì vĩnh viễn không thể sản sinh lưu động, không thể tuần hoàn.
Cơ thể chúng ta cũng vậy, bây giờ rất nhiều người không chú ý khí nguyên dương của vùng thắt lưng, phía dưới cơ thể hàn rồi, phía trên tương đối nhiệt, trên nhiệt dưới hàn, dẫn tới trên dưới không tuần hoàn, xuất hiện tình trạng âm dương ly tuyệt, từ đó mà sinh bệnh.
Triệu chứng tương đối rõ ràng là: Vùng thắt lưng sờ thấy tương đối lạnh, lại sờ trán, thì lại thấy nóng, có thể cảm thấy rất bồn chồn, lo lắng, trầm cảm, ban ngày tinh lực không đầy đủ, mệt mỏi, buổi tối còn không ngủ được. Nếu mà gặp thầy thuốc tầm thường, nhìn thấy bốc hỏa thì kê thuốc mát, thì nguy rồi, càng hàn càng tổn thương nguyên khí của hạ tiêu.
Rất nhiều nữ giới, khi trời mùa hè vì để khoe thân hình đẹp, mà mặc tương đối ít, thậm chí là mặc hở rốn hở lưng, trực tiếp làm vị trí mệnh môn ở lưng sau toàn bộ lộ ra ngoài, khi ngồi văn phòng lại còn mở điều hòa, hàn tà xâm nhập, hậu quả gây ra cho sức khỏe càng nghiêm trọng.
Nữ giới mỗi tháng đều có chu kỳ, hệ thống sinh sản tiêu hao năng lượng khá nhiều, cũng rất dễ tổn thương, nếu bội chi (chi nhiều hơn thu – sử dụng quá nhiều) dương khí, có thể tạo thành tổn thương rất lớn, rất nhiều bệnh phụ khoa, thậm chí vô sinh cũng là từ đó mà tạo thành.
trôi dạt, tiếp thụ, Năng lượng, ăn mặc,
(Ảnh: webgiadinh.org)
Vậy nên bình thường khi ngồi, lấy một tấm thảm hoặc khăn choàng, đắp lên thắt lưng, hoặc lấy một tấm đệm, đệm vào vị trí sau thắt lưng cũng được, đều có thể có tác dụng phòng hộ, có thể gìn giữ được khí nguyên dương của bản thân, đồng thời cũng phòng ngừa ngoại tà xâm nhập mà tránh được bệnh tật.
Đằng sau mỗi một nền văn hóa truyền thống, đều có nội hàm, ý tứ sâu xa; không chỉ thể hiện vẻ đẹp tinh tế, mà còn giữ gìn giá trị đạo đức cao quý, giúp con người hòa hợp với trời đất duy trì sự sống, bảo vệ sự tồn vong của nhân loại trong suốt chặng đường lịch sử lâu dài.
Theo Đại Kỷ Nguyên VN


Lời vàng nhắn nhủ: Bạn có can đảm sống như cây mao trúc?

Cuộc đời là một hành trình vô cùng gian nan và khó nhọc, bất kể là ai, cũng ít nhiều phải nếm trải những cay đắng trên bước đường đời. Điều làm nên sự khác biệt, chính là tâm thái của mỗi người khi đối diện với những gian khó ấy…

thành công, tâm thái, mao trúc, khó khăn,
Bạn có dám can đảm sống như cây mao trúc – bài học cho những người chưa thành công. (Ảnh: Azone)
Dưới đây là bức thư của Giáo sư trường Đại học Seoul gửi đến một người học trò đang vô cùng mệt mỏi và chán nản vì thất bại liên tiếp trên con đường tìm việc. Mời quý vị cùng đọc và suy ngẫm.
Cách đây không lâu, tôi có đi Thành Đô. Ở đó, tôi được nghe kể về một loại cây có tên là “mao trúc”. Người ta nói hạt mao trúc rơi xuống đất, chỉ mọc lên một cây măng nhỏ rồi hoàn toàn không có chuyển biến gì trong suốt 5 năm trời. Thế rồi từ khoảng cuối năm thứ 5, cây lớn vọt lên với tốc độ đáng kinh ngạc, một ngày cao thêm tới vài chục xăng ti mét, cho tới khi đạt tới chiều cao gần 25 mét.
Thật kì diệu phải không? Như vậy, không phải là mao trúc không hề lớn lên trong suốt năm năm trời. Mà thực ra, trong lòng đất, cây đã đâm rễ, cần mẫn bền bỉ chuẩn bị cho cú nhảy vọt sắp tới. Và rồi khi đến lúc, cây lớn vọt lên, nhanh hơn, cao hơn bất cứ loại cây nào.
Tôi nghĩ, cuộc đời chúng ta cũng rất giống với cây mao trúc này. Và bạn hãy thử liên tưởng đến việc đun nước xem. Khi nước đã đạt tới 100 độ C, dù có gia nhiệt đến đâu đi nữa, nhiệt độ cũng không tăng thêm. Nếu như dừng ở đó thì nước lập tức nguội đi. Nhưng nếu không bỏ cuộc mà tiếp tục đun, nước sẽ biến thành hơi và bay lên trời.
Để có sự thay đổi về chất, phải kiên trì chịu đựng quãng thời gian khổ ải không có lấy một chút thành quả nào như vậy…
Vì thế, thành công dường như rất khó. Nếu như nỗ lực mười phần mà thành quả cũng đạt được đầy đủ mười phần không thiếu một ly, kết quả lập tức bày ra trước mắt thì làm gì có ai không nỗ lực? Vậy nhưng, hiện thực thì lại khác. Có một điểm mà ở đó, dù cố gắng đến đâu cũng hoàn toàn không có sự thay đổi nào, giống như nước ở 100 độ C vậy.
Nhiều người tới được điểm này, cũng đã cố gắng ở mức độ nào đó nhưng rồi cuối cùng lại bỏ cuộc. Nhưng một số ít những người lặng lẽ cố gắng cầm cự qua giai đoạn này, đổ thêm nhiều giọt mồ hôi nóng bỏng nữa, cuối cùng, họ sẽ được nếm trải vị ngọt của thành công.
Mỗi chúng ta đều đợi chờ “cơ hội” đến với mình. Nếu đó là một cơ hội vàng có thể xoay chuyển cuộc đời người thì càng quý. Nhiều người than rằng sao cơ hội đó chẳng bao giờ đến với mình. Nhưng từ “cơ hội” đồng nghĩa với từ “chuẩn bị”.
Khi chưa chuẩn bị sẵn sàng thì cơ hội có đến cũng sẽ thường bay qua vô ích, rồi cũng có khi cơ hội đến mà không biết, cứ thế để cơ hội đó trôi đi. Chỉ khi nào đã hoàn thành quá trình chuẩn bị bền bỉ, thì dù chỉ là một cơ hội nhỏ, ta cũng có thể nắm bắt và sử dụng tối đa lợi thế của nó.
Trong năm, có một ngày mặt trời lên cao nhất và chiếu sáng lâu nhất. Đó là ngày Hạ chí, 21 tháng 6 dương lịch. Vậy nhưng chúng ta vốn cũng đã biết, đó không phải là ngày nóng nhất trong năm. Sau đó, mặt trời còn tiếp tục nung nóng trái đất, cho tới thượng tuần tháng Tám mới đạt tới ngày nóng nhất trong năm. Vào ngày Hạ chí tháng Sáu, dù đã lên tới điểm cao nhất nhưng vẫn không phải là nóng nhất, mặt trời cũng không có lý do gì để buồn bã hay bỏ cuộc cả.
Vậy nên thời điểm mà cơ hội chưa tới, thực ra lại chính là thời cơ tốt nhất…
Bạn hãy chuẩn bị đi. Giống như cây mao trúc, giống như nước sôi, giống như mặt trời.
Trong suy nghĩ của tôi, tôi lo không biết liệu có phải bạn đang lang thang tìm kiếm chiếc thang cuốn của cuộc đời hay không. Tôi đang nói tới những thứ như bằng cấp chuyên môn hay một công việc ổn định có thể bảo đảm cả đời… Đó chính là chiếc thang cuốn mà chỉ cần đặt bước chân đầu tiên sao cho khéo thì sẽ đưa ta thẳng tiến đến với thành công.
thành công, tâm thái, mao trúc, khó khăn,
Quãng thời gian khó khăn, biết đâu lại chính là quá trình năm năm của cây mao trúc. (Ảnh: Hoavouu)
Vậy nhưng, thực tế, trong cuộc đời chúng ta, không có chiếc thang cuốn nào cả. Bạn hãy tìm đến nơi làm việc mà bạn ao ước đó xem. Trong đó cũng là cả một cuộc đấu tranh sinh tồn, cạnh tranh khốc liệt với biết bao nỗi lo toan. Công việc không phải là chiếc thang cuốn đưa chúng ta thẳng tiến đến đích, mà giống như cầu thang bộ, trong quá trình từng bước từng bước leo lên, chúng ta phải tìm kiếm sự đền đáp cho nỗ lực của mình.
Vậy nên trước hết, bạn hãy thử lên xe buýt. Lên xe rồi, có thể bạn tạm thời sẽ phải đứng. Có thể tất cả mọi người đều đang ngồi, chỉ có mình bạn phải đứng. Đây là lúc bực mình nhất phải không? Vậy nhưng không hề có chuyện người đứng ghen tị với người ngồi. Cũng không có chuyện người ngồi chê người đứng. Chúng ta cứ đi xe buýt thôi. Cho đến khi tới được đích của mình.
Không phải vì bây giờ bạn chưa tìm được việc làm, chưa thành công thì cuộc đời bạn coi như dừng lại. Bạn đang đi trên chuyến xe buýt mang tên cuộc đời. Chỉ vì bạn phải đứng nên cảm thấy mệt mỏi hơn so với người đang ngồi. Mong bạn đừng vì phải đứng mà cảm thấy mình kém cỏi, cũng đừng oán trách những người đang ngồi.
Còn nếu như bạn thực sự muốn được ngồi, thì chỉ cần xuống xe, đợi xe sau có ghế trống, hoặc nếu cần thiết thì đợi đến trạm cuối, bắt xe quay ngược trở lại là được. Nghĩa là bạn hãy quay lại từ đầu, chuẩn bị một bước xuất phát mới. Không muộn như ta tưởng.
Tôi xin kể câu chuyện có thật của một người tôi quen. Sau khi tốt nghiệp đại học, anh ấy đi phỏng vấn xin việc 19 lần thì đều trượt cả. Phải đến mức nào thì anh ấy mới đếm cả số lần bị đánh trượt của mình như thế chứ? Tưởng chỉ vài lần đầu chưa có kinh nghiệm, nhưng hơn chục lần, tới gần hai chục lần như thế, thì đây không còn là nỗi buồn vì chưa tìm được việc làm nữa mà là nỗi đau khổ, nhục nhã vì sự tồn tại của mình bị xã hội chối từ.
Người quen của tôi bây giờ trở thành giám đốc. Anh ấy bảo mỗi khi phỏng vấn nhân viên ứng tuyển, anh ấy nhất định phải nói thêm 1 câu như thế này: “Chúng tôi không tìm người xuất chúng hay ưu tú. Chúng tôi chỉ đơn giản là tìm người có tố chất phù hợp với công việc này. Bạn có thể là người thích hợp với công việc này nhưng lại là người vô dụng trong công việc khác”.
Đúng là như vậy. Không phải bạn bị xã hội chối bỏ, không phải bạn bất tài. Chỉ là vẫn chưa có sự gặp gỡ giữa khả năng nổi trội của bạn và nơi công nhận khả năng đó. Xin hãy nhớ điều này: khởi đầu từ xuất phát điểm thấp nhất không có gì phải xấu hổ, nhưng ngay cả ý định bắt tay vào cuộc cũng không có nổi mới là đáng xấu hổ. Công việc đầu tiên không nói lên con người thực sự của bạn, chính công việc cuối cùng mới nói lên điều đó.
Quãng thời gian dài đằng đẵng mà bạn đang trải qua đây, biết đâu lại chính là quá trình năm năm của cây mao trúc. Vô số những bản hồ sơ xin việc đã rải đi vô ích kia, biết đâu lại chính là ngọn lửa biến chất lỏng 100 độ C thành thể khí. Sắp đến rồi giây phút đền đáp giá trị của sự chờ đợi bấy lâu. Sắp đến rồi thời điểm vươn vùn vụt thành cây tre cao nhất thế giới. Sắp đến rồi thời khắc biến thành hơi nước tự do bay lên cao nhìn ngắm thế gian. Mong bạn sẽ chiến đấu kiên cường.

Sưu tầm

Nội tình TQ trong tiểu thuyết Hồ Cẩm Đào (P.1): Trọng trách và tang thương

Sau cuộc nói chuyện với Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào rất bực bội. Nghĩ đến người bạn tốt Trương Mạnh Nghiệp của mình, nhưng rồi lại nghĩ đến các cuộc vận động chính trị thì bất chợt lạnh run. Lúc này, Hồ thấy thật khó xử…

Phap Luan Cong, hồ cẩm đào, Giang Trạch Dân,
Qua việc đàn áp đẫm máu sinh viên tại quảng trường Thiên An Môn, Đặng Tiểu Bình đã chú ý đến Giang Trạch Dân và đề bạt Giang làm tổng bí thư trung ương đảng. Giang Trạch Dân với ý đồ khuếch đại việc sùng bái cá nhân, coi mình như thần thánh, nên đã lập ra kế hoạch phục hồi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chuyên chính, lấy mô thức của cuộc cách mạng văn hóa làm cơ sở. Đặng Tiểu Bình thấy vậy thì hối hận, lại muốn phế truất Giang; vì vậy khi xuống phương Nam có nói câu: “Ai không cải cách, người ấy phải hạ đài!”. Giang sợ đến hồn bay phách tán, chạy đến chỗ Đặng khóc lóc, cầu xin Đặng chấp nhận cải cách mở cửa nền kinh tế thị trường theo ý của mình. Đặng Tiểu Bình cảnh báo Giang: Nếu muốn củng cố quyền lực chính trị, phải dựa vào lòng dân, lo cho dân được ấm no, không được để dân bần cùng khốn khổ.
Giang cung kính cúi đầu lắng nghe như con đang ngoan ngoãn nghe lời cha căn dặn, lại còn đề xuất việc cho phép các nhà tư bản gia nhập Đảng. Nhưng về sau, khi Đặng Tiểu Bình sức khỏe suy yếu phải nhập viện, Giang Trạch Dân lại nói ngược: trong cải cách mở cửa cũng phải có tính đấu tranh giữa xã hội và tư bản. Lúc này, Đặng không đủ năng lực để thay đổi vị trí Tổng bí thư của Giang nữa. Ông nghĩ: Phải tìm ra người trong ủy viên trung ương đảng có thể thay thế vị trí của hắn (Giang), để duy trì cải cách mở cửa nền kinh tế và chế ngự Giang.
Nghĩ tới nghĩ lui, Đặng nhớ ra một người, người này có tài là đã bình định được khu vực phân tranh, tất có đủ trí mưu để đối phó với Giang Trạch Dân. Điều quan trọng là người này phải biết nghe lời, đó chính là Hồ Cẩm Đào.
Đặng Tiểu Bình cho gọi Hồ Cẩm Đào lại, nói: “Hiện tại trong trung ương đảng có người không nghe lời tôi, việc cải cách mở cửa nền kinh tế trong tương lai khiến tôi lo lắng, kỳ bầu tổng bí thư sắp tới đây, tôi muốn anh thay thế Giang Trạch Dân tôi mới an tâm. Gọi anh đến là muốn anh chuẩn bị tâm lý, đến kỳ đại hội 16 sẽ hoàn toàn thay thế Giang”.
Hồ Cẩm Đào trong lòng chấn động, thật không ngờ lại có việc như vậy, Hồ chợt nghĩ đến kết cục của các vị tổng bí thư các khóa trước, từ Trần Độc Tú đến Triệu Tử Dương, tất cả khi hạ đài đều có kết cục bi thảm: Trần Độc Tú bị liệt vào thành phần thiên hữu; Cù Thu Bạch bị Quốc Dân đảng sát hại; Vương Minh bị Mao Trạch Đông lật đổ; Mao Trạch Đông tự mình đoạn tử tuyệt tôn, thân thể bất toàn, mộ táng trên mặt đất, bị toàn thế giới lên án, lão bà (ý chỉ Giang Thanh, vợ của Mao) lại tự sát trong giám ngục; Hoa Quốc Phong bị Đặng Tiểu Bình phế truất; Ngô Diệu Bang tức giận đến đột quỵ mà chết, Triệu Tử Dương thì bị giam lỏng… Lúc này Hồ hạ giọng, nói: “Tôi chẳng có đức độ và năng lực gì, chỉ sợ mọi người không phục”.
Đặng Tiểu Bình nói: “Quân sự có Nhị Dương phụ trách, kinh tế có Dung Cơ giúp anh. Anh có nhiệm vụ áp chế Giang Trạch Dân, anh phải nắm vững chính sách lớn, chọn thời cơ thích hợp nói lên tiếng nói của mình, sao cho sau 16 năm mở cửa cải cách nền kinh tế thị trường được tiếp tục phát triển”.
Hồ Cẩm Đào không biết nói sao, đành gật đầu ưng thuận. Do vậy, Đặng nói với tất cả thường ủy và ủy viên rằng: “Hồ Cẩm Đào sẽ làm tổng bí thư của nhiệm kỳ tới. Xét về trí tuệ và năng lực trong việc thúc đẩy cải cách mở cửa với quốc tế, tôi thấy Hồ Cẩm Đào đạt yêu cầu, nên tôi giao trọng trách này”.
Giang Trạch Dân bề ngoài vẫn lộ vẻ tươi cười, trước mặt Đặng bắt tay Hồ rất nhiệt tình, nhưng trong tâm rất căm hận Đặng và Hồ. Giang rủa thầm: “Cái lão Đặng lùn này mau mau đi gặp Marx đi, mi không tin tưởng lão gia, sau này lão gia sẽ xử lý con cháu của mi, khiến cho mi ở địa ngục cũng không được an lòng”. (Quả thật, sau này khi Đặng chết, con cháu của Đặng đã bị Giang trả thù thê thảm, và đây chính là nguyên nhân)
Không lâu sau, Đặng Tiểu Bình chết. Giang Trạch Dân lòng mừng đến phát cuồng, ngay trong lễ truy điệu, đã chịu không nổi, cầm khăn tay lau nước mắt, khóc vì sung sướng. Tiếp sau đó, Giang lấy danh nghĩa loại trừ phần tử hủ hóa trong giới lãnh đạo quân đội, thu tóm hết quyền lực trong tay, tất cả tinh lực lúc này dồn vào việc loại trừ Hồ Cẩm Đào, có thế Giang mới hy vọng nắm được quyền lực tối cao. Những người như Kiều Thạch, Lý Thụy Hoàn đã thấy được mưu kế tiểu nhân của Giang, nên âm thầm trợ giúp Hồ Cẩm Đào, bèn nghĩ ra cách đem việc Đặng Tiểu Bình chỉ định Hồ Cẩm Đào giữ chức tổng bí thư nhiệm kỳ tới công bố ra bên ngoài, làm cho việc chỉ định này trở hành sự thật. Giang Trạch Dân không thể thay đổi gì được, nên rất hận Kiều Thạch và Lý Thụy Hoàn.
Lúc Giang từ Thượng Hải đến Trung Nam Hải có mang theo một kẻ rất thân tín và trung thành, đó là Tăng Khánh Hồng. Tăng hiến kế cho Giang: “Chúng ta lợi dụng người Mỹ cùng lực lượng trong nước phế bỏ Hồ Cẩm Đào”. Giang hỏi: “Làm như thế nào?”. Tăng kề tai Giang nói nhỏ… Giang hiểu ra vô cùng cao hứng.
Đương thời Trung Đông rất rối loạn, người Mỹ đem quân đến Trung Đông, hy vọng dùng vũ lực duy trì hòa bình ở đó. Giang theo kế sách của Tăng, cũng phái quân đội sang, lấy danh nghĩa duy trì hòa bình tại Trung Đông, tại đại sứ quán Nam Tư bí mật đối kháng quân Mỹ. Mỹ chịu không được bèn oanh tạc đại sứ quán Nam Tư. Giang thấy người Mỹ trúng kế, vô cùng đẹp ý, tiếp tục kích phát sự cừu hận của nhân dân trong nước đối với Mỹ, khiến Hồ Cẩm Đào phải xuất hiện trên truyền hình để lên tiếng nói cùng nhân dân, phản đối Mỹ Quốc.
Hồ Cẩm Đào hiểu rõ ý đồ của Giang, một sự việc lớn như vậy, nếu giải quyết không ổn, sẽ bị Giang Trạch Dân mượn cớ đó mà phế truất mình. Lần đầu nếm độc thủ của Giang, Hồ thấy mình càng phải đề phòng, bởi tương lai toàn là cạm bẫy đang chờ.
Nhưng Hồ cũng rất khôn khéo, một mặt đàm phán với Mỹ, một mặt dùng đủ cách để hạ cơn giận của dân chúng, khiến chuyện lớn thành nhỏ, chuyện nhỏ biến thành không.
Giang yêu cầu Hồ dùng lực lượng dân chúng đứng lên biểu tình phản đối nước Mỹ. Hồ nói: “Chính quyền cộng sản trước nay đã ổn định, nay nếu để dân chúng đứng lên thị uy một cách quy mô như thế. Mai kia dân chúng lại dùng hình thức này để phản đối đảng cộng sản, thì chúng ta rất khó khống chế”.
Nghe vậy Giang sợ ảnh hưởng đến chính quyền của mình, nên vội đình chỉ lập tức vấn đề cho dân đứng lên biểu tình. Mọi việc bình ổn trở lại, coi như Hồ Cẩm Đào đã thắng được một keo.
Giang Trạch Dân đâu chịu bỏ cuộc, lúc ấy phong trào luyện khí công nơi quần chúng nhân dân trong nước đang lên thành cao trào. Vài chính trị gia tại Trung Nam Hải đề xướng vận động rèn luyện thân thể. Đặc biệt là môn Pháp Luân Công được truyền ra vào năm 1992, rất có hiệu quả trong việc giữ gìn sức khỏe và nâng cao đạo đức, đã tiết kiệm rất lớn cho chi phí y tế của quốc gia; chỉ sau 7 năm phổ truyền môn tập ra công chúng, toàn quốc đã có 100 triệu người luyện tập. Người sáng lập môn Pháp Luân Công có uy tín rất lớn đối với dân chúng. Do vậy Giang Trạch Dân mười phần đố kỵ, Tăng Khánh Hồng lại chõ miệng nói vào: “Dân chúng đều tin Pháp Luân Công, còn ai tin vào ông nữa? Cần phải thủ tiêu Pháp Luân Công. Pháp Luân Công giảng về Chân -Thiện – Nhẫn, ta đem vấn đề này ra để đấu tranh chính trị thì rất dễ đàn áp nó. Một mặt để củng cố uy thế của ông, mặt khác để những người tại Trung Nam Hải bày tỏ thái độ, xem ai hài lòng với ông, đặc biệt là tên họ Hồ, bắt hắn phải ra mặt đối địch cùng dân chúng, từ đó cho hắn hạ đài không khó”.
Do vậy mới có việc La Cán cùng tay sai tại Thiên Tân soạn ra văn bản bôi nhọ Pháp Luân Công. Từ đó mới có cảnh sát Thiên Tân tìm bắt học viên Pháp Luân Công, khiến họ phải lên Bắc Kinh khiếu nại; cũng do kế sách của Giang, Tăng, La mới dẫn đến việc học viên Pháp Luân Công ngồi tĩnh tọa trên đường Phủ Hữu.
Giang Trạch Dân thấy kế hoạch sắp thành, quá vui mừng, cố ý viết thư cho cục thường ủy nói: “Pháp Luân Công đồng tâm hiệp lực như vậy, nhất định sau lưng phải có người chỉ đạo, có thế lực chống Trung Quốc ở nước ngoài hậu thuẫn, nên phải kiên quyết diệt tuyệt”.
Phap Luan Cong, hồ cẩm đào, Giang Trạch Dân,
Ngay sau đó, toàn quốc trên vạn người viết thư gửi đến Giang nói rằng: Pháp Luân Công đã đem lại biến đổi kỳ diệu cho cả thân lẫn tâm, mang lại điều tốt đẹp cho đất nước, Pháp Luân Công là cứu người, khuyên Giang đừng trấn áp Pháp Luân Công, để tương lai không bị quả báo.
Giang Trạch Dân hoàn toàn chẳng xem các thư đó, mỗi ngày đều kêu thư ký đốt bỏ từng chồng từng chồng thư. Tuy nhiên, tâm Giang rất lo sợ, sợ vì mỗi ngày đều thấy có nhiều người đồng lòng bảo vệ Pháp Luân Công như vậy, chứng tỏ Pháp Luân Công rất được lòng dân, vượt xa hắn tưởng; nên Giang càng tức tối và đố kỵ.
Giang kêu Hồ Cẩm Đào đến, cố tình hỏi: “Anh thấy Pháp Luân Công ra sao?”. Hồ Cẩm Đào ý thức được cuộc đại vận động chính trị, nên đã sớm suy nghĩ về việc này, bèn nói: “Trong các vị thường ủy về hưu có nhiều người đang luyện, cũng có không ít thân nhân của các thường ủy đương nhiệm cũng đang luyện, nếu trấn áp Pháp Luân Công, sẽ là một việc rất hệ trọng”.
“Thật là hồ đồ, giác ngộ chính trị quá trì độn, số học viên Pháp Luân Công vượt xa số đảng viên, đây chính là cơ sở để tranh đoạt quần chúng cùng đảng ta, sợ gì hệ trọng hay không hệ trọng” – Giang đưa mắt nhìn Hồ, nói thêm:“Nghe nói anh có người bạn thân tên Trương Mạnh Nghiệp cũng đang luyện Pháp Luân Công, người đó thế nào, anh nên đem người đó ra làm vai phản diện điển hình”.
Hồ Cẩm Đào thấy buổi nói chuyện có vẻ không ổn, đôi mắt đảo nhanh, chuyển giọng nói liền: “Anh ta là bạn thời đại học của tôi, lúc trẻ còn là người bạn tốt, hiện tại đang luyện Pháp Luân Công. Nghe nói, anh ta cũng có uy tín trong các bạn đồng học, vậy nên trước tiên phải hạ thủ anh ta trước”.
Giang Trạch Dân nghĩ một hồi, rồi nói: “Ngày mai khai mạc đại hội thường ủy, đem việc trấn áp này ra bàn, để mọi người thống nhất tư tưởng”.
Sau khi đi ra, Hồ thấy trong lòng bực bội, đây rõ ràng là hắn cố ý kiếm chuyện với mình mà, Trương Mạnh Nghiệp là người bạn tốt của mình; lúc hội giao lưu bạn học Thanh Hoa mới mở, ba ngày trước trong buổi gặp gỡ, Trương Mạnh Nghiệp còn quan tâm đến sức khỏe của vợ chồng mình, tặng mình hai bản Chuyển Pháp Luân; vợ chồng mình đã đọc qua, thấy đây là sách khuyến thiện, sách dạy tu Phật, mình rất cung kính đặt trên giá sách ở tầng cao nhất. Nhưng khi nghĩ đến các cuộc vận động chính trị của Đảng, Hồ Cẩm Đào cảm thấy lạnh run, lúc còn trẻ cha và mình đã bị liệt vào thành phần hữu khuynh, bắt về quê làm các hoạt động khổ sai, mất hết tự do, đến nay trong ký ức vẫn còn nhớ rõ, các cuộc vận động của đảng cộng sản thật giống như khổ hình trong địa ngục, quả là đáng sợ. Nghĩ vậy, Hồ Cẩm Đào thấy thật khó xử. Hồ nghĩ tới nghĩ lui, bèn gọi điện thoại cho bạn học cũ ở Bắc Kinh, thông báo cuộc vận động chính trị mới sắp xảy ra, nói Trương Mạnh Nghiệp tạm thời không nên luyện công nữa, tốt nhất là lánh ra nước ngoài.
Trong ngày thứ hai của đại hội thường ủy, Giang Trạch Dân bức bách các ủy viên khác phải đồng thuận đàn áp Pháp Luân Công, sau cùng hỏi Hồ Cẩm Đào: “Đồng chí Cẩm Đào hãy bày tỏ thái độ”. Hồ Cẩm Đào nhìn thấy lính tráng tuần tra ngoài hội trường, biết rằng trong cuộc vận động này, nếu bày tỏ thái độ khác, là đã chọn con đường chết. Hồ lại nghĩ tới Đặng Tiểu Bình, lúc sống kêu Hồ phải phản đối, chống lại Giang. Nghĩ vậy Hồ liền nói: “Trấn áp thì tôi hoàn toàn đồng ý, nhưng kinh phí sẽ rất lớn”. Giang nhảy dựng lên, chỉ vào mặt Hồ, mắng: “Phải cho anh xuống đài thôi, anh sợ tốn tiền, tiền có nhiều, tính gì nữa?”.
Thế là, sau khi thống nhất ý kiến, cuộc đại truy sát học viên Pháp Luân Công vào cuối thế kỷ chính thức bắt đầu. Đây là cuộc bức hại nhân quyền nghiêm trọng nhất của nhân loại thế kỷ 20. Trường bức hại này diễn ra trên toàn thế giới, kéo dài gần 20 năm.
Kỳ thực trước khi Giang Trạch Dân phát động cuộc bức hại Pháp Luân Công, thiên tượng đã sớm cảnh báo nhiều lần. Năm đó tại Trung Quốc hồng thủy tràn lan, mưa to bão lớn suốt mùa hạ, nước dâng ngập tràn phá hoại mùa màng nông trại. Tại các tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc, Hà Giang, An Huy, hồng thủy ngập tràn biến thành thành phố biển nước, có nơi nước dâng cao đến hai tầng lầu, khiến bao dân chúng bỏ mạng. Thấy vậy Giang lại rất phấn khích, cho rằng trời báo điềm may, trong họa loạn mà đoạt quyền thị uy, cũng chính là cơ hội chỉnh đốn chính trị. Giang ra lệnh cho các nơi bị hồng thủy nghiêm trọng phải phá đê đập để thoát nước. Một vài tỉnh thành, trong lãnh đạo có vài người không đồng ý, nói: “Nước dâng đã chậm lại, nếu bây giờ phá đập thoát nước mà không báo dân biết, sẽ gây tai họa nghiêm trọng, đấy là xem thường mạng sống con người”. Nhưng Giang lại hạ lệnh: “Vì phòng chống lụt phải phá đê đập, ai không nghe lời sẽ chịu trách nhiệm!’.
Do không di dời dân lại không báo dân biết, nên khi phá đê đập, thôn trang vùng thấp bị nước dâng cao đến ba tầng lầu, dân chết vô số. Ba chữ “giang trạch dân” có hàm ý là mượn nước để giết dân, khiến dân lầm than khổ cực, hủy diệt đất nước Trung Quốc. Hồng thủy thật sự đã khiến Giang hưng phấn, mời vài người ngoại quốc đến Trung Nam Hải ăn mừng, ngẩng cao đầu hát khúc: “Đại hải đây – cố hương của ta”.
Thư ký của Hồ Cẩm Đào nói với Hồ: “Dân chúng đang trong cảnh lầm than cơ cực, bây giờ ông đi thị sát vài nơi, xem xét dân tình. Đây là cơ hội tốt để ông lấy được lòng dân cùng chính trị tư bản, không nên thông báo cho bất kỳ nơi nào, sáng mai ông nên thực hiện ngay chứ?”.
Hồ Cẩm Đào nghĩ ngợi hồi lâu rồi nói: “Không nên lập công cao hơn chủ, từ từ đợi đã, có thể Giang chủ tịch có cách tính khác”.
Ý của Hồ là: trong sự việc hồng thủy vừa qua, cần tìm đến nơi không bị thủy tai để thị sát, cho quay phim vài nơi nước lụt mà dân không bị thương hại đến một cọng lông, đem lên truyền hình, thì làm sao ảnh hưởng đến mình được? Quả nhiên, đến ngày thứ 3, tại Hồ Bắc nơi có ngập lụt nhưng dân không bị tai nạn, Giang cầm loa phóng thanh nói: “Dưới sự lãnh đạo của đảng, nhất định sẽ chống trời đấu đất, giành lấy thắng lợi!”, rồi ra lệnh Hồ đến thị sát nơi bị thủy tai nghiêm trọng nhất tại Hồ Bắc. Thư ký tỉnh Hồ Bắc là tay chân Hồ Cẩm đào, đã cho Tân Văn Liên Bá phát thanh trong 20 phút nói: tử vong tại Hồ Bắc rất nghiêm trọng, kinh tế tổn thất rất nặng nề, Hồ Bắc đang cần người phụ trách. Ý của tay thư ký này là Hồ Bắc cần có Hồ Cẩm Đào phụ trách.
Trên truyền hình, thư ký tỉnh Hồ Bắc vừa kể việc thủy tai vừa khóc lóc, nói cấp đảng ủy đáng lẽ có thể dẹp thủy tai tốt hơn lại không làm, sau khi xảy ra vụ việc mới đưa Hồ Cẩm Đào đến khảo sát. Mà đảng ủy là Giang Trạch Dân đứng đầu. Do vậy Giang nổi trận lôi đình, định cách chức thư ký tỉnh Hồ Bắc. Sau này Tăng Khánh Hồng, La Cán đề xuất, nếu muốn bức hại Pháp Luân Công trên toàn quốc, thì nên lấy Hồ Bắc làm thí điểm, thư ký tỉnh Hồ Bắc sẽ có chỗ dùng tới, thư ký tỉnh ủy các tỉnh khác không nên đụng trước. Để xử trí Hồ Bắc cần tạm thời giữ lại tay thư ký này.
Lúc mới bắt đầu trấn áp Pháp Luân Công, thiên tượng biến đổi dị thường. Vào ngày đó của tháng 7/1999, trời đang quang đãng trong sáng, đột nhiên trở nên ảm đạm thê lương, phát sinh nguyệt thực, toàn Trung Quốc từ Đông sang Tây, trời đều u tối, dân chúng khắp nơi sợ hãi. Giang Trạch Dân lệnh cho quân cảnh, đặc vụ giả làm học viên Pháp Luân Công vừa đi chơi đàng điếm, đánh nhau chửi nhau, bài bạc hút sách… lại vừa đi khắp nơi tự xưng là người luyện công, hô Pháp Luân Đại Pháp hảo. Khiến dân chúng ngộ nhận học viên Pháp Luân Công là những người xấu.
Hồ Cẩm Đào về đến nhà, lấy bản Chuyển Pháp Luân trên giá xuống, đưa cho vợ mình là Lưu Vĩnh Thanh, nói: “Nhờ em giao cuốn này cho bạn đồng học ở Bắc Kinh, nói họ trả lại cho bạn Trương giúp anh”.
Sau khi bà Lưu nhận sách, trời đang ảm đạm trở nên trong sáng.
Nhân dân Trung Quốc đã rất chán ghét các cuộc vận động chính trị của ĐCSTQ, hơn nữa Pháp Luân Công đã xuất hiện ở Trung Quốc được 7, 8 năm, đều cảm thấy môn này rất tốt, không ai muốn tham gia bức hại Pháp Luân Công, họ chỉ muốn kiếm tiền, sống cuộc sống an nhàn thoải mái. Do dân chúng không tích cực trong việc bức hại Pháp Luân Công, Giang cảm thấy không đạt hiệu quả như ý muốn, nên sai khiến Tăng, La ngụy tạo vụ tự thiêu ở Thiên An môn đăng lên báo chí, lập tức toàn quốc bị thật giả lẫn lộn khó lòng phân biệt.
Phap Luan Cong, hồ cẩm đào, Giang Trạch Dân,
Giang Trạch Dân chỉ đạo dàn dựng vụ tự thiêu giả ở quảng trường Thiên An Môn để vu khống Pháp Luân Công.
Ngụy án về vụ tự thiêu tệ hại nhất trong thế kỷ, đã khiến toàn Trung Quốc chìm trong bóng tối, dân chúng cừu hận, mọi đấu đá oán thù phát sinh từ đây. Cuộc đại truy nã toàn quốc bắt đầu, rất nhiều học viên Pháp Luân Công bị bắt bớ, bị giam vào lao ngục, bị nhốt trong chuồng hổ, bị ngâm trong nước ớt, bị tiêm thuốc độc, thậm chí bị mổ sống cướp nội tạng, còn  bị thủ tiêu thân thể… Cảnh sát nào đánh chết học viên Pháp Luân Công cũng không coi là  phạm pháp, mà còn được khen thưởng. Mục đích của việc tra tấn hành hạ học viên Pháp Luân Công là bắt họ phải viết chuyển hóa thư, yết phê thư, hối quá thư, quyết liệt thư, bảo chứng thư mục đích là ép họ từ bỏ tu luyện. Thân bằng quyến thuộc của họ cũng bị liên đới, bị đuổi việc, ai bao che thì bị trừng phạt, ai tố giác thì được thưởng. Do vậy trên toàn quốc, nhiều người vì ham lợi, đã bán rẻ lương tâm, tham gia vào cuộc bức hại Pháp Luân Công, cũng từ đây thế thái dân tình đã trở nên biến dị với đầy ma tính.
Trương Mạnh Nghiệp bị đặc công dùng xe đụng chết, mẹ của ông thì bị bắt giam, Tiểu Trương là con gái của Trương Mạnh Nghiệp lúc trước hay theo cha đến thăm gia đình Hồ Cẩm Đào ở Bắc Kinh nên vợ Hồ biết mặt, trốn đến Bắc Kinh, điện thoại nhờ vợ của Hồ là Lưu Vĩnh Thanh bảo vệ nhưng Hồ không đồng ý. Cuối cùng bà Lưu cũng đồng cảm, kêu bảo mẫu đem con gái của Trương Mạnh nghiệp về nuôi dưỡng.
Bà Lưu không đến thăm Tiểu Trương, chỉ kêu bảo mẫu đem tư liệu lịch sử cho Tiểu Trương xem. Tiểu Trương không biết ý gì, xem qua thấy đó là tư liệu của nội bộ ĐCSTQ từ năm 1936 đến 1989:
Năm 1936, Hồng quân trên đường hành quân, đến Giang Tây, Mao Trạch Đông vì để tập trung quyền lực, đã phát động cuộc vận động đoàn AB, chỉnh túc các phần tử làm trái ý, giết hại hết một phần ba Hồng quân.
Cuối năm 1940, trong cuộc vận động chỉnh an tại Diên Phong, một số lớn các phần tử trí thức toàn quốc trong việc kháng Nhật tại Diên An phải viết bản tự kiểm về việc có liên hệ với Quốc Dân đảng, rất nhiều người tận mắt chứng kiến thân nhân bị giết bởi cuộc chỉnh lý hoặc tự sát, hoặc bị điên, tổng số ước độ một phần tư.
Từ năm 1951 đến 1956, trong các cuộc vận động: tam phản, ngũ phản, phản hữu, phản phú, có khoảng 500 vạn nhà địa chủ, tư bản, phú ông hoặc các người thuộc phe cánh hữu bị giết chết bởi các cán bộ hoặc dân quân địa phương.
Cuộc cách mạng Đại nhảy vọt làm chết đói 4 ngàn vạn người.
Trong cuộc Văn Cách số phần tử tri thức, đảng viên, cán bộ bị chết bởi các vệ sĩ giai cấp vô sản, dân quân và hồng vệ binh ước khoảng 500 vạn.
Năm 1989 khoảng 100 vạn học sinh, thanh niên, thị dân bị chết bởi quân cảnh vệ.
(Còn nữa)
Tác giả: Đồ Xích Long
Lưu ý: Bài viết không phải là tác phẩm văn học kỷ thực, mà chỉ là tiểu thuyết, vậy nên mời quý độc giả đọc tham khảo.
Chánh Bình, dịch từ Epoch Times