This entry was posted
on Tháng Năm 24, 2016, in Lịch sử Việt
Nam and tagged tiếng việt, Việt- Mường. Bookmark
the permalink. Để lại bình luận
Tĩnh Túc
Tiếng
nói là nhịp cầu cảm thông để trao đổi tư tưởng trong sinh hoạt xã hội giữa con
người cùng dòng giống xứ sở. Có con người là có ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn tự có
ảnh hưởng rất lớn và quan hệ mật thiết đến sự hưng vong của giống nòi. Dân tộc
có một trình độ văn hóa cao, càng văn minh thì họ lại càng chú trọng đến ngôn
ngữ văn tự.
Dân
tộc ta, ngót năm ngàn năm lịch sử, có cùng chung một gốc, cùng chung một tiếng
nói. Từ Bắc chí Nam, ngoại trừ một số dân thiểu số còn dùng thổ âm và một số
địa phương dùng phương ngữ hay phát âm có đôi chút sai biệt, chúng ta đều nói, nghe
và hiểu một thứ tiếng, đó là tiếng Việt Nam.
Vậy
tiếng Việt có tự bao giờ!?
Tiếng
Việt bắt nguồn từ đâu!?
Tiếng
Việt có phải tự ngàn xưa đã là một tiếng nói thật sự thuần Việt hay là một kết
quả của sự hỗn hợp trại lẫn của nhiều tiếng nói khác nhau ?!
Trước
khi tìm về cội nguồn tiếng Việt, việc phải làm đầu tiên là ta phải đi ngược
dòng thời gian để tìm ra gốc tích của tổ tiên Việt Nam. Qua đó, ta mới có thể
truy nguyên được tiếng nói của dân tộc. Vì thời gian lịch sử xa xăm mù mịt, vấn
đề nguồn gốc Việt Nam, cũng như nguồn gốc tiếng Việt thật khó mà khẳng định một
cách chính xác. Kê cứu theo sử ký, truyền thuyết, giả thuyết và nhất là những ý
kiến, lập luận, ức thuyết của các học giả, sử gia Việt, Pháp, Tàu thì vấn đề
này càng rẽ ra trăm mối, bất nhất và mâu thuẫn. Tuy nhiên, tôi cũng ghi chép
lại những điều đã đọc để các bạn rộng đường thảo luận và kính xin các bậc thức
giả sửa sai hoặc góp ý giùm cho.
Nguồn
gốc dân tộc Việt
Tiếng
Việt vào thời đại sơ cổ:
Kể
từ trời mở viêm bang
Sơ đầu có họ Hồng Bàng mới ra
Cháu đời Viêm Ðế thứ ba
Nối dòng Hỏa Ðức gọi là Ðế minh
Quan phong khi giá Nam hành
Hay đâu Mai Lĩnh duyên sinh Lam Kiều
Vụ Tiên vừa nở đào yêu
Xe Loan nối gót, tơ điều kết duyên
Dòng thần sánh với người tiên
Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối ra
Phong làm quân trưởng nước ta
Tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương
Hóa Cơ dựng mối luân thường
Ðộng Ðình sớm kết với nàng Thần Long
Bến hoa ứng vẻ lưu hồng
Sinh con là hiệu Lạc Long trị vì(1)
Sơ đầu có họ Hồng Bàng mới ra
Cháu đời Viêm Ðế thứ ba
Nối dòng Hỏa Ðức gọi là Ðế minh
Quan phong khi giá Nam hành
Hay đâu Mai Lĩnh duyên sinh Lam Kiều
Vụ Tiên vừa nở đào yêu
Xe Loan nối gót, tơ điều kết duyên
Dòng thần sánh với người tiên
Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối ra
Phong làm quân trưởng nước ta
Tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương
Hóa Cơ dựng mối luân thường
Ðộng Ðình sớm kết với nàng Thần Long
Bến hoa ứng vẻ lưu hồng
Sinh con là hiệu Lạc Long trị vì(1)
Theo
truyền thuyết (tục truyền) thì khai mở họ Hồng Bàng (2879 – 258 tr. CN) là Lộc
Tục, con trai vua Ðế Minh. Sau Ðế Minh nhường ngôi lại cho con trưởng là Ðế
Nghi làm vua phương Bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh
Dương Vương, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cõi nước Xích Quỷ phía bắc giáp Ðộng
Ðình Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba
Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Ðông hải. Kinh Dương Vương làm vua nước Xích
Quỷ vào khoảng năm Nhâm tuất (2879 tr. CN) và lấy con gái Ðộng Ðình Quân là
Long Nữ đẻ ra Lạc Long Quân Sùng Lãm.
Lạc
Long Quân lấy con gái vua Ðế Lai tên Âu Cơ, sanh được 100 con trai. Chia 50 đứa
con theo mẹ lên núi, 50 đứa con theo cha xuống bể Nam Hải. Lạc Long Quân phong
cho con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương, tức Quốc tổ của dân
tộc Việt Nam ngày nay. (2)
Tuy
nhiên, theo sách Ðại Việt Sử Lược do Tiền Hi Tộ đời nhà Thanh hiệu đính, có ghi
một đoạn rất quan trọng như sau:
“Ðến
đời Trang Vương nhà Chu, năm 696-682 tr. CN, ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo
thuật, áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu
nước là Văn Lang… Truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương.”(3)
Như
vậy là Hùng Vương đã xuất hiện ở thế kỷ thứ 7 tr. CN. Từ đó cho tới năm 257 tr.
CN thì nước Văn Lang bị Thục An Dương Vương thôn tính. Tính ra họ Hùng trị vì
được 439 năm, nếu đem ra 18 đời, thì mỗi đời trung bình từ 25 tới 30 năm. Như
thế có phần xác thực hơn là nói họ Hồng Bàng và họ Hùng cai trị cả mấy nghìn
năm như truyền thuyết ghi chép.
Thế
nhưng trong truyện số 10 của Lĩnh Nam Chích Quái nói về chim Bạch trĩ, lại thấy
ghi rằng: về đời vua Thành Vương nhà Chu, Hùng Vương sai bề tôi tự xưng là họ
Việt Thường đem chim trĩ sang cống hiến. Vì ngôn ngữ bất đồng, Chu công phải
dùng ba lần thông ngôn mới hiểu nhau được. Căn cứ vào sử ký của Tư Mã Thiên, bộ
sử xa xưa nhất của Trung Hoa có ghi chép như sau:
“Năm
Tân Mão thứ 6 (nhằm năm 1110 tr. CN) đời Thành Vương nhà Chu, phía nam bộ Giao
Chỉ có họ Việt Thường, qua ba lần sứ dịch, dâng chim trĩ trắng.”(4)
Nếu
đúng như vậy thì họ Hùng Vương đã trị vì ít nhất là trên 800 năm. Không đúng
theo sử ký của Tiền Hi Tộ, trong Tứ Khố Toàn Thư của nhà Thanh. Lại càng không
đúng với Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim hoặc của truyền thuyết.
Ðó
là chiếu theo sử ký và tục truyền để tìm ngọn ngành tổ tiên dân Việt, mà chúng
ta cũng đã thấy nhiều điều không trùng khớp hoặc bất đồng kiến với nhau. Nhưng
cũng nhờ qua tài liệu quan trọng nêu trên, ta có thể chắc rằng dân tộc Việt bấy
giờ có một ngôn ngữ riêng biệt. Chính vì thế mà vua Chu đã phải ba lần kiếm tìm
người thông ngôn mới có thể hiểu nhau được.
Về
gốc tích của dân Việt, theo sự ghi chép của ông Trần Trọng Kim, dựa vào lập
luận của các nhà nghiên cứu nước Pháp, viết rằng:
“Theo
ý kiến của những nhà kê cứu của nước Pháp, thì người Việt Nam và người Thái đều
ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt theo sông Hồng Hà lần xuống đông nam, lập
ra nước Việt Nam ta bây giờ. Còn người Thái thì theo sông Mê kông, lập ra nước
Tiêm La (Thái Lan) và các nước Lào.”
Lại
có nhiều người Tàu và người Việt cho rằng, nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống
dân Tam Miêu ở, sau đó giống Hán tộc ở phía Tây bắc đến đánh đuổi, chiếm giữ
vùng sông Hoành hà lập ra nước Tàu, rồi lấn dần xuống phương nam. Người Tam
miêu phải lẩn tránh vào rừng núi hoặc đào tị xuống miền Việt Nam ta bây giờ. (5)
Tuy nhiên, ngay chính ông Trần Trọng Kim cũng không tin vào giả thuyết này.
Trong
quyển Văn Phạm Việt Nam của Bùi Ðức Tịnh (tr. 171 – 188) khi viết về lịch sử
tiếng Việt, ngay câu đầu tiên ông Bùi Ðức Tịnh tán thành thuyết của các học giả
cho rằng Việt ngữ là một thứ tiếng thuộc về dòng Thái. Vì dòng tiếng Thái có
hai đặc điểm: giọng trầm bổng như tiếng Trung Hoa, vừa có ngữ pháp đặt xuôi của
loại tiếng Ấn độ – Mã Lai. Nhà bác học Schmidt cho rằng dòng tiếng Thái thuộc
về tông-chi rộng-rãi bao trùm các ngôn ngữ của những thị tộc Ðông Nam Á và Ðại
dương châu thời sơ cổ, và đề nghị đặt tên cho tông chi ngôn ngữ này là ”tông
chi Úc – Á”. Nhưng thuyết của ông không được chứng minh một cách đầy đủ. Bác sĩ
Rivet, trong đại hội các nhà tiền sử học họp tại Hà Nội vào năm 1932 cũng có
đưa ra một ức thuyết: Từ miền nam châu Á hoặc từ Nam dương quần đảo, vào một
thời đại tối cổ, đã có những đoàn di dân tản mác đi theo hình rẻ quạt, vượt
trùng dương đến ở những đảo rải rác trên Thái bình dương và Ðại tây dương …
Người ta thường gọi chung họ là các giống Ðại dương nhân (Océaniens). Ðó là
những người Ne’gritos, Me’lane’sien (Australien), Indone’sien và Mông cổ. Theo
các nhà nhân chủng học, có lẽ trước tiên, tại bán đảo Ðông dương có hai giống
người Me’lane’sien và Indone’sien. Do đó, có thể ức đoán rằng vào thời sơ cổ,
đã có những thị tộc người Indone’sien ở vùng trung châu Bắc Việt và miền bắc
Trung Việt. Một mặt khác, trước đời nhà Chu (khoảng 1050 đến 771 tr. CN) khắp
vùng lưu vực sông Dương Tử, từ miền Vạn Huyện tỉnh Tứ Xuyên cho đến dọc miền
biển cũng đã có chi nhánh của chủng tộc Indone’sien, mà sử gia Tàu gọi họ là
giống Man di. Những phần tử Việt tộc này đã di cư lần xuống miền Nam theo đường
sông hoặc đường biển.
Theo
Ðào Duy Anh, có lẽ nhóm Việt tộc ở miền bờ biển Phước Kiến, hằng năm dùng
thuyền gỗ hoặc mảng tre giăng buồm, nhân gió bấc vượt biển đến các miền duyên
hải phương nam, đại khái vùng Hải nam, vùng trung châu sông Nhị và sông Mã phía
Bắc Việt ngày nay. Ðến mùa gió Nồm, họ lại vượt biển trở về nguyên quán. Thế là
ngay từ những ngày rất xưa, đã có sự tiếp xúc người Indonesian ở dọc theo bờ
biển nước Bắc Việt với những người Indonesian, chi nhánh Việt tộc, ở vùng Phước
Kiến. Khi nước Việt bị nước Sở diệt (333 tr. CN) làn sóng Việt tộc tràn xuống
miền nam càng nhiều. Nhóm Việt tộc vùng Phước Kiến di cư vào miền bắc Việt nam,
là nơi đã quen biết trước. Họ đem theo cái thị tộc cũ là Lạc, và một nền văn
hóa tuy có chỗ tương đồng với thổ dân trước nhưng đã chịu ít nhiều ảnh hưởng
của giống Mongolic ở phương Bắc. Sở dĩ có tên Lạc Việt ấy là vì trong các cuộc
vượt biển hàng năm, nhóm Việt tộc vùng Phước Kiến đi và về đồng thời với một
giống hậu điểu thuộc loại ngỗng trời gọi là chim Lạc. Có lẽ họ đã nhận giống
chim ấy là vật tổ .(6)
Theo
nhà sử học người Pháp, ông Léonard Aurousseau, căn cứ vào tài liệu sử sách
Trung Hoa, thì dân tộc Việt Nam chính là một trong các dân Bách Việt gốc ở tỉnh
Chiết Giang (Trung Hoa) vào khoảng thế kỷ thứ 5 tr. CN, rồi lần xuống phía nam,
hợp với dân bản xứ, nhờ vào điều kiện địa dư thuận tiện, đã chống lại sự xâm
lăng của Tần Thủy Hoàng. Dưới đời Triệu Ðà, nhờ chế độ cai trị dễ dãi mà Triệu
Ðà khôn khéo biệt lập, tự củng cố địa vị ở phía nam xứ Trung Hoa, tránh được
ảnh hưởng của người Tàu .(7)
Nhưng
lập luận này đã không đứng vững khi ông Phạm Quỳnh xét về phương diện ngôn ngữ
đã chất vấn trong bài ” Xét về cội rễ tiếng Việt Nam” như sau: (8)
“Bọn
dân Việt hồi đó, rợ Bách Việt là thủy tổ cho dân Việt Nam đó, nói tiếng gì? Nếu
là tiếng Trung Hoa thì không hiểu làm sao mà biến mất hẳn đi mà xuất hiện ra
một thứ tiếng khác hẳn tiếng Trung Hoa. Nếu không phải là tiếng Trung Hoa, thì
các rợ Bách Việt ấy tất phải có một hay nhiều thứ tiếng thổ âm riêng. Như vậy
thì sao trong suốt các rợ Bách Việt ấy duy có người Việt Nam, tuy sau này còn
phụ thuộc Trung Hoa đến ngàn năm nữa mà vẫn giữ được tiếng nguyên âm, còn thời
các rợ khác ở Nam Phương nước Tàu bỏ mất hết đi để nói tiếng Trung Hoa cả? Nếu
ta thừa nhận cái thuyết của ông Léonard Aurousseau, thì cái vấn đề tiếng nói
tưởng cũng khó giải quyết vậy”.
Theo
ông Lê Ngọc Trụ (9) thì dân tộc Việt Nam đã có từ lâu đời sinh sống tại đồng
bằng Bắc Việt. Còn nhóm người Việt (Câu Tiễn) miền Chiết Giang, sau thời loạn
Xuân Thu bị nhà Sở thôn tính (333 tr. CN) đã di cư xuống miền nam theo đất liền
đến chung sống với các dân tộc khác như Việt-Ðông-Hải vùng Ô Châu, Mân-Việt
vùng Phúc Châu, Nam-Việt vùng Quảng Ðông, Âu-Lạc-Việt vùng phía nam tỉnh Quảng
Tây và Bắc Việt Nam, một lớp vào tới cả Thanh Hoá (Cửu Chân). Nhưng họ chỉ là
nhóm người thiểu số và bị đồng hóa, chứ họ chẳng phải là gốc tích tổ tiên Việt
Nam như ông Léonard Aurousseau đã nêu ra. Ngoài ra, ông Lê Ngọc Trụ còn cho
rằng(10), tổ tiên dân tộc Việt đã cư trú ở những vùng triền núi từ sông Ðà (Hắc
giang) tới Quảng Bình, sống chung hoà với dân tộc Mường. Cho nên đến ngày nay,
tiếng nói ở những vùng này có nhiều chỗ tương tợ tiếng Mường. Dân Mường là dân
miền núi, cho nên họ rút lần rải rác vào sâu dãy Hoành Sơn, do đó họ không bị
ảnh hưởng văn hoá của các đại cường quốc Ấn Tàu, và chính vì thế họ vẫn giữ được
các cổ tục và tiếng nói của họ cũng không bị thay đổi nhiều. Nên khi so sánh
hai thứ tiếng Mường Việt, ông cho rằng tiếng Việt và tiếng Mường có lẽ từ một
nguồn gốc mà ra. Thí dụ:
Mường
Thạch Bi Hà Tĩnh Hà Nội
ka Ga
Gà
kảy Gái Gái
kốk kộk Gốc
ka?w Ga.w Gạo
kảy Gái Gái
kốk kộk Gốc
ka?w Ga.w Gạo
Tiến
sĩ Hương Giang Thái Văn Kiểm cũng có cùng quan điểm lập luận như giáo sư Lê
Ngọc Trụ và cho rằng, dân Bách Việt phát xuất từ miền Duyên hải miền nam Trung
Hoa và giống dân Lạc Việt sinh sống lâu đời tại đồng bằng miền Bắc Việt Nam
hoàn toàn không cùng chủng tộc. Sau nhiều cuộc xung đột, hai giống tộc này đã
chịu hòa đồng chung sống với nhau như một đại tộc. Về sau, người Mường, cũng là
sắc dân Lạc, đã chạy vào ẩn núp trong núi rừng, cao nguyên, để tránh sự xâm
lăng đô hộ của người Tàu. Nhờ đó, họ vẫn giữ nguyên được ngôn ngữ, phong tục
tập quán và kỹ thuật đúc trống đồng mà trước thời kỳ Bắc thuộc đã được đúc tại
miền duyên hải Bắc việt và lưu vực sông Mã (nền văn hoá thạch khí Hòa Bình và
Bắc Sơn với nền văn hoá đồng đen Ðông Sơn). Do đó các nhà nhân chủng học cho
rằng: ” người Mường là Tiền-Việt” (proto Vietnamiens)(11) , vì trong ngôn ngữ,
tục lệ có nhiều điểm tương đồng với người Lạc. Ông có tìm được bản văn
Mường-Việt nói về sự tích của sông Pờ (sông Bờ, tức sông Hồng ngày nay) trong
quyển Cours de Langue Annamite của A. Cheon, do nhà in F-h Schneider, xuất bản
tại Hà Nội năm 1899-1901 (nguyên văn):
“Khây
khước măng pâu pô. Khi trước nghe người ta nói rằng cỏ mống ông, thên hốp là
rằng có một ông tên gọi là ông Tùng, mà cở hai bợ chồng; ông Ðồng, mà cở hai bợ
chồng nã rú ra tế nã lấp cải nó rủ nhau để nó lập cái ksông Pơ. Nã tan lẽ ksông
sông Bờ. Nó toan lấy sông Pờ pao tất Thạch Bi. Bơ nã Bờ vào đất Thạch Bi. Vợ nó
mê, ti lê ksú tê, nã lấp mới đi lấy đá, để nó lấp ksông. Lòng klởi skinh tha
sông. Lòng trời sinh ra mốch ông hốp là ông Sách; một ông gọi là ông Sắt; me
thuỗng mê thếch pât bởi mói xuống mới thách vật với ông Tùng. Nã me pao lò, nã
ông Ðồng. Nó mới vào lò; nó tỏ ming nã pât ông Tùng đỏ mình nó mới vật ông
Ðồng. Ông Tùng mê chẩi hết mìng, ông Ðồng mới cháy hết mình, mê chết. Cho đên
cải ksông mới chết. Cho đến cái sông dỉ chăng lấp ản, mê dênh cải cấy chẳng lấp
được, mới nên cái Thác pờ dỉ. Thác bờ ấy.”
Ðọc
đoạn văn trên, ta thấy tiếng Việt được chuyển dịch xen kẽ lẫn vào bản văn tiếng
Mường, rất tối nghĩa. Cho nên tôi mạo muội viết ra hai bản Mường và Việt rõ
ràng để quí vị dễ đọc và so sánh:
Bản
văn tiếng Mường:
“Khây
khước măng pâu pô, cỏ mống ông thên hốp ông Ðồng, mà cở hai bợ chồng nã rú ra
tế nã lấp cải ksông Pơ. Nã tan lẽ ksông Pờ pao tất Thạch Bi. Bơ nã mê, ti lê
ksú tê nã lấp ksông. Lòng klởi skinh tha mốch ông hốp là ông Sách me thuỗng mê
thếch pât bởi ông Ðồng. Nã me pao lò, nã tỏ ming nã pât ông Ðồng. Ông Ðồng mê
chẩi hết mìng, mê chết. Cho đên cải ksông dỉ chăng lấp ản, mê dênh cải cấy cái
Thác pờ dỉ.”
Bản
văn dịch sang tiếng Việt:
“Khi
trước nghe người ta nói rằng, có một ông tên gọi là ông Tùng, mà cả hai vợ
chồng nó rủ nhau để nó lấp cái sông Bờ. Nó toan lấy sông Bờ vào đất Thạch Bi.
Vợ nó mới đi lấy đá, để nó lấp sông. Lòng trời sinh ra một ông gọi là ông Sắt
mới xuống mới thách vật với ông Tùng. Nó mới vào lò, nó đỏ mình nó vật ông
Tùng. Ông Tùng mới cháy hết mình, mới chết. Cho nên cái sông ấy chẳng lấp được,
mới nên cái Thác bờ ấy.”
Khi
nhắc đến nguồn gốc của Việt ngữ, ông Phạm Thế Ngũ cũng có nêu giả thuyết là
người Việt có cùng tông tổ với người Mường, vì các nhà khảo cổ, khi xét về
phong tục, lịch sử cũng như ngôn ngữ của người Việt, đã thấy có rất nhiều điểm
giống với người Mường. Hiện nay, trong tiếng Việt có rất nhiều tiếng tương tự
với tiếng Mường, và có thể xem đó là hình thức tối cổ của tiếng Việt tương
đương, thí dụ :(12)
một
Hai ba trời đất núi sông trâu gà tằm ăn lá dâu
móc
Hai pa tlòy tất nủy không tlu kà thảm ăn lá tô
Thứ
tiếng cổ ấy, về sau, trong ngôn ngữ người Việt, thâu nhận thêm những yếu tố vay
mượn của các chủng tộc lân cận mà trở thành tiếng Việt. Và ông kết luận rằng:
“dân tộc Việt Nam là kết quả tạp chủng và lai lẫn với các dân tộc đã sinh sống
trên bán đảo Ðông dương, và tiếng Việt là kết quả trại lẫn của nhiều thứ tiếng
của các dân tộc ấy.” (13)
Trong
quyển Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam(14), ông Bình Nguyên Lộc đã có một
số nhận định và chứng minh khoa học cụ thể về vấn đề nan giải nêu trên.
Theo
ông, viết thượng cổ sử khác xa với viết sử. Vì viết sử chỉ cần sử liệu, còn
viết thượng cổ sử thì cần phải chứng minh bằng khoa học, do đó muốn tìm tòi về
các chủng tộc ta phải vận dụng kiến thức khoa học chính xác của ngành Chủng Tộc
Học (Anthropologie physique). Riêng về nguồn gốc của một chủng tộc thì khoa học
chỉ nhìn nhận 3 chứng tích sau:
Khoa
Chủng Tộc Học
Khoa
KhảoTiền Sử
Khoa
Ngôn Ngữ Tỷ Hiệu (Études comparatives des Langues)
Theo
ông trên thế giới ngày nay không còn chủng tộc nào là thuần chủng. Ngay cả trên
cao nguyên của nước ta có người Thượng mà ta cứ ngỡ là thuần chủng, nhưng thực
sự họ đã lai giống đến nhiều lần rồi. Về vấn đề nguồn gốc dân Việt, ngôn ngữ
Việt, từ lâu đã có những nhà bác học Pháp thuộc viện Bác Cổ Viễn Ðông, các sử
gia, ngữ học gia, giáo sư Việt Pháp khổ công tìm tòi nghiên cứu, nhưng vẫn chưa
tìm được một giải đáp thoả đáng. Và họ đã đưa ra một số ức thuyết khá hỗn loạn:
Ông
Kari Himy cho rằng tiếng ta có bà con với tiếng Môn
Ông
H. Maspe’so bỏ Việt Ngữ vào chung với Thái ngữ
Ông
E. Souvignet cho rằng tiếng Việt có liên hệ với Mã Lai
Bs.
Reynand nhấn mạnh về ngữ vựng Miên Việt giống nhau quá nhiều
Gs.
Lê Ngọc Trụ và Sử gia Nguyễn Phương khẳng định tiếng ta là tiếng Tàu
Sg.
Phạm Văn Sơn kết luận Việt ngữ + Việt chủng là một chủng tộc, một ngôn ngữ
riêng biệt
Từ
năm 1920 nhờ những cuộc phát kiến ngẫu nhiên của dân chúng vùng Ðông Sơn tỉnh
Thanh Hóa đã khai quật được một số cổ vật đồng pha kế tiếp nhau ở cách lưu vực
sông Nhật Lệ, sông Gianh, sông Cả, sông Mã, sông Ðà, sông Nhị, sông Lệ. Nghiên
cứu sơ khởi cổ mộ Ðông Sơn, người ta tìm thấy người chết có đồ tùy táng, trong
đó có trống bằng đồng thau khá rực rỡ. Ước tính theo số tuổi cổ vật, mộ này ắt
đã được chôn trước thời Hai Bà Trưng (40- 43) đến 32 năm. Nhưng qua đó vẫn chưa
xác định được người dưới mồ là người bản xứ, vì rất có thể họ là dân tộc khác
sang nước ta rồi sau khi chết được mai táng tại đó. Mãi về sau, khi khai quật
được nhà bằng gỗ và tre đã hoá thạch, các nhà nghiên cứu khảo cổ đưa ra được
một kết luận quan trọng. Nhà ấy có lối kiến trúc giống như hình nhà khắc trên
trống đồng trong cổ mộ. Bấy giờ mới chắc chắn được là người có trống chôn theo
là người bản xứ. Hợp kim của trống khai quật được phân chất và kết quả đưa ra
đó là hợp kim đặc biệt, khác hẳn với hợp kim của Tàu, Ấn Ðộ hay của Tây phương
thời đó. Các nhà bác học gọi người trong mộ táng được khai quật thuộc chủng tộc
Indone’sien. Indone’sien, thuật ngữ của ngành Chủng Tộc học có nghĩa là Cổ Mã
Lai, chứ không thuần nghĩa thông thường được chú giải trong các tự điển ngôn
ngữ hiện nay là người dân của xứ Nam Dương quần đảo. Mặc dù các dân tộc Nam
Dương, Mã Lai Á đều từ gốc chủng tộc Cổ Mã Lai mà ra nhưng đã không còn thuần
giống.
Chủng
Cổ Mã Lai phát tích từ Tây Tạng, hay nói rõ hơn là tại chân cao nguyên Tây
Tạng, vùng đất quanh chân núi Himalaya (Hi-Malaya có nghĩa là núi của người
Malaya).
Từ
6000 năm trở về xưa hơn, dân Cổ Mã Lai từ quanh cao nguyên Tây Tạng xuống chiếm
đất Ấn Ðộ, đẩy lui thổ dân kém cỏi nơi đó lên vùng đồi núi và hợp chủng với
chủng tộc Melane’sien đã có mặt từ lâu trên đất Ấn (Chủng Melane’sien chẳng
những là thổ trước trên đất Ấn mà còn tìm thấy di tích ở khắp đất Trung Hoa và
Ðông Nam Á). Nền văn minh của họ tồn tại được một ngàn năm thì bị dân Aryen xâm
lăng đánh đuổi. Vì vậy, một mặt giống dân Indone’sien di cư về hướng Nam, đến bán
đảo Mã Lai Á, sang Nam Dương quần đảo, rồi từ đó sang Madagascar đến tận Phi
Luật Tân. Mặt khác họ di dân sang Ðông Ấn, rồi từ Ðông Ấn họ đi sang Hoa Nam
(Trung Hoa), hoặc đi bằng đường biển sang Ðông Pháp (danh từ cổ chỉ các nước Cổ
Việt Nam, Ai-Lao, Cao Miên).
Vào
khoảng 2500 năm sau, dân từ các vùng đất quanh núi Hy Mã Lạp Sơn (Himalaya)
dưới sự thống lãnh của Xy Vưu tới Hoa Bắc (Trung Hoa). Nhóm dân này được gọi là
Cửu Lê gồm 9 nhóm, làm bá chủ Hoa Bắc không được bao lâu thì bị người Tàu từ
Tây Bắc dưới quyền của Hiên Viên xâm nhập. Dân Cửu Lê thua và bị đánh đuổi,
chia làm hai: chi Âu và chi Lạc. Toàn thể chi Âu vượt Hoàng Hà để nam thiên,
còn chi Lạc thì lại chia hai, một số cũng vượt Hoàng Hà, số kia theo đường biển
sang Ðại Hàn, Nhựt Bổn, Ðài Loan và Ðông Nam Á. Rời đồng bằng Hoa Bắc thì dân
chi Âu chiếm địa bàn núi rừng ở Hoa Nam , còn dân chi Lạc thì chiếm địa bàn
sông ngòi ở Hoa Nam và ở các vùng đất mới. Nơi đây, họ đã gặp các dân thổ trước
nhưng đồng chủng cho nên đã sống chung hòa không gây chiến tranh lấn đất.
Người
Tàu dùng danh từ Việt để chỉ bất kỳ thổ dân nào từ sông Dương Tử đổ xuống, tức
nhiều nhóm dân gốc Cổ Mã Lai nhưng khác chi. Theo sử Tàu thì có ba nhóm Lạc:
Lạc bộ Trãi bị gọi là rợ Ðông Di, có địa bàn ở sông Bộc, tỉnh Sơn Ðông lên đến
Hà Bắc; Lạc bộ Chuy bị gọi là rợ Khuyển Nhung, có địa bàn vùng sông Lạc (Thiểm
Tây Ba Thục, ngày nay con sông Lạc này được đổi viết thành bộ Thủy); và Lạc bộ
Mã, bị gọi là rợ Nam Man chỉ dân Việt ở Hoa Nam. Về phía Nam, đất Ngũ Lĩnh là
địa bàn của các quốc gia Bách Việt trong đó có Ðông Âu, Mân Việt và Tây Âu
nhưng không có Cổ Việt. Mặc dù về mặt chủng học tộc, ta thuộc về Bách Việt
nhưng không phải là dân của ba nước kể trên.
Trong
ba nước này, Tây Âu là một quốc gia cường mạnh nhất, gồm ba quận Nam Hải (Quãng
Ðông), Quế Lâm (Quãng Tây) và Tượng Quận (phần đất giữa Quãng Tây và Vân Nam).
Theo bức dư đồ ngôn ngữ Ethnolinguistico Groups of Mainland Southeast Asia do
Human Relations Area Files Yale University xuất bản thì Tây Âu là địa bàn của
người Thái, một dân tộc thuộc chủng Mã Lai mà người Tàu xưa gọi là dân Âu. Thái
là một danh tự xưng của họ khi bị Hoa tộc lấn đất dữ dội.
Nhà
Tần tiêu diệt cả ba quốc gia Bách Việt này và họ lại phải nam thiên xuống
thượng du Bắc Việt và Thái Lan ngày nay. Thái có nghĩa là ” tự do, thoái khỏí’.
Trước đó họ xưng là Ngu hoặc Ngê-U. Tiếng Quan thoại phiên âm danh tự đó cũng
là Ngê-U. Duy chỉ các nhà nho đọc sai ra là Âu, chứ người Mường họ vẫn đọc đúng
là Ngu. Người Thái ở miền thượng du Bắc Việt ngày nay đã khác hẳn với người
Thái Lan, vì ngưởi Thái Lan đến bờ biển lập quốc cả hàng trăm năm và theo văn
hóa của Ấn Ðộ và Phật giáo. Còn người Thái thượng du Bắc Việt còn giữ nguyên
văn minh cổ thời của họ.
Theo
như trên thì truyền thuyết Âu Cơ và Lạc Long Quân rất tương đồng với bối cảnh
lịch sử của dân Cửu Lê, khi bị Hiên Viên xâm lăng thì phải chia hai, chi Âu
chiếm địa bàn núi rừng (Âu Cơ là Tiên đem con lên núi) và chi Lạc chiếm địa bàn
sông ngòi, ven biển (Lạc Long Quân đem con xuống biển). Cả ba Lạc này đều có
mặt tại Cổ Việt Nam nên ngôn ngữ của ta mới hỗn hợp tiếng Mã Lai nhiều đợt. Ðịa
bàn phương đông của chủng dân Cổ Mã Lai bị dân Tàu lấn đất, họ đành phải nam
thiên. Tới vùng đất mới, họ lại bị Tàu xâm lăng lần nữa, chẳng hạn như ở Cổ
Việt bị nhà Hán chinh phục. Lần bị chiếm đất này, họ không còn đất lánh thân,
nên một số ở lại chịu văn hóa Tàu, còn một số khác rút lên rừng núi, rồi vì khí
hậu và phong thổ không ưu đãi, thiếu thốn phương tiện canh tân nên nhóm người
này bị thái hóa. Do đó người Thượng trên cao nguyên vẫn còn giữ nhiều phong tục
văn hóa của chủng Cổ Mã Lai hơn dân ta, kẻ ở lại đồng bằng đã khác xa, nhất là
khi bị ảnh hưởng văn hóa mới và hợp chủng với dân xâm lược.
Sau
đây là những dấu vết Mã Lai còn sót lại trong xã hội Việt Nam ngày nay:
1.
Trống Ðồng:
Dân
ta vẫn duy trì phong tục của Lạc Việt, như tả nhậm, xâm mình, nhuộm răng, búi
tóc, chít khăn, tục thờ thần Âm Dương Vật và cả tục thờ Thần Trống Ðồng.
Sau
thời gian dài nghiên cứu về thời đại đồng thau xưa ở Bắc phần Việt nam các nhà
khảo cổ cho thấy rằng người Việt Nam thời xưa đã đạt được một trình độ luyện
kim và chế tác kim loại khá cao để đúc được nhiều loại trống đồng. Do số lượng
trống đồng tìm thấy được tại miền Bắc Việt Nam quá nhiều và đủ loại cho nên các
nhà khảo cổ đã nghĩ rằng Việt nam phải là quê hương của trống đồng. Tuy rằng
cũng có tìm được một vài trống đồng rải rác tại vài nước Ðông Nam Á hoặc vùng
Nam Trung Hoa giáp ranh giới Việt Nam nhưng số lượng ít ỏi và kém mỹ thuật,
nhất là các tầm vật này nằm trên những lộ trình xuyên biên giới Việt-Hoa, nên
đã làm các nhà khảo cổ nghĩ rằng đó có thể là những trống thâu lượm từ Việt Nam
đem về.
Trong
sách Ðại Nam Nhất Thống Chí(15) ghi: “Núi Ðồng Cổ: có tên nữa là núi Khả Lao ở
cách huyện Yên Ðịnh 16 dặm về phía tây …. Phía tả núi có đền thần, trong đền có
một cái trống bằng đồng, nặng chừng 100 cân, đường kính phỏng 2 thước một tấc,
chiều cao phỏng 1 thước 5 tấc, một mặt trống rỗng, một mặt có chín vòng tròn, ở
giữa mặt trống có rốn tròn, chung quanh lưng trống là hình hồi văn chữ ‘vạn’,
bên cạnh có văn chữ như hình văn tự khoa đẩu. Tương truyền cái trống này chế từ
đời Hùng Vương. “
Trong
tác phẩm Kiến văn Tiểu Lục, Lê Quí Ðôn đã viết như sau: “Nước nhà, vua Thái
Tông nhà Lý dựng miếu thờ Thần Ðồng Cổ Sơn ở đằng sau chùa Thành Thọ. Hằng năm
cứ đến ngày mồng bốn tháng tư lập một đàn ở trước miếu này, rồi dàn binh lính,
đọc lời thề để quần thần cùng thề… “.
Nhiều
thư tịch Trung Hoa xưa cũng có nói đến trống đồng có nguồn gốc ở Việt Nam như:
(16)
Sách
Bách Việt Nguyên Lưu Dư Văn Hóa, Lã Hương Lân ghi: “Thời cổ, văn hoá Việt rất
đáng được lưu ý là sự chế tạo trống đồng và cách sử dụng. Trống đồng Lạc Việt
rất nổi tiếng nên thường được gọi là Lạc Việt đồng cổ.
Sách
Hậu Hán Thư quyển 54 thời Hậu Hán có ghi ở mục Mã Viện:
“Mã
Viện thích cưỡi ngựa. Lúc sang đánh Giao Chỉ, ra lệnh tịch thâu trống đồng để
đúc ngựa kiểu.”
Sách
Chu Phiên Chí, Triệu Như Quát cũng có kể về Mã Viện như trên.
Sách
Lĩnh Ngoại Ðai Ðáp, Chu Khứ Phi, một học giả đời Tống, có thừa nhận rằng trống
đồng không thuộc về văn hóa Hán.
Trong
các sách Quảng Châu Ký, Tán Thư Trấn Thủ, Thủy Kinh Chú, Linh Biểu Lục Di đều
có ghi: “Man, Di là chủ nhân của trống đồng Lạc Việt.”
Ông
V. Goloubew đã kể lại trong tập kỷ yếu B.E.F.E.O vol XXXIII, năm 1933 như sau:
“Làng An-Nê, huyện An Ðịnh, tỉnh Thanh Hóa, là một vùng hoàn toàn Việt Nam, và
gần đó không có dân Mường. Trong đền thờ trên đường Phủ Quãng, gần bến đò An
Ðịnh đưa sang sông Mã, có trống đồng cùng loại với trống đồng Hoà Bình để ở Bảo
tàng viện Hà Nội. Mặt trống rộng 0,85 và cao 0,58th. Trống này chỉ để thờ chứ
không được đánh, bằng vào lớp bụi dày trên mặt trống…”
Ông
R. Mercier thì đối chiếu cách chế tạo trống đồng của dân Ðông Sơn với cách chế
tạo đồng đồng của dân Việt Nam ngày nay ở Thanh Hóa, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hà
Ðông, Nam Ðịnh và thấy cả hai dân tộc đều dùng kỹ thuật và dụng cụ thô sơ y như
nhau. Ông nghiên cứu chiếc trống lớn nhất ở bảo tàng viện L. Finot. Ðó là một
cái trống đúc nguyên khối, không có ráp mối. Bên hông trống đếm được cả thảy 280
vết đen hình vuông, một phân tây mỗi cạnh. Nhờ đó ông khám phá được kỹ thuật
đúc trống thợ Ðông Sơn xa xưa. Họ làm hai cái khuôn, một lớn một nhỏ, cái nhỏ
nằm trong cái lớn, hai cái cách nhau khoảng 1/2 một phân tây, khoảng trống ấy
được chêm bằng các khúc gỗ. Khi đổ đồng pha vào khoảng trống ấy, gỗ chêm bị
cháy và để lại dấu vết bên hông trống. Ông Mercier nói rằng chỉ có dân Việt Nam
các tỉnh cao nguyên mới đúc bằng kỹ thuật và dụng cụ thô sơ như thế mà thôi.
Về
vấn đề vật tổ biểu tượng của dân Việt là chim Lạc (theo ông Ðào Duy Anh đưa ra)
thì ông Bình Nguyên Lộc không đồng ý, vì chữ Lạc được viết với dạng bộ Trãi, bộ
Chuy và bộ Mã chứ không hề viết theo dạng bộ Ðiểu, chỉ loài chim. Theo ông thì
vật tổ biểu tượng của dân ta ngàn xưa là cây cau, nai, mặt trời, giao long bằng
cứ vào những hình chạm khắc trong các đền đài chùa chiền, trên các cổ vật Ðông
Sơn, phong tục, cổ tích vv… Danh hiệu Văn Lang cũng từ đó mà ra, có nghĩa là
một loại cau có sọc trắng, chứ không thuần nghĩa là người con trai xâm mình.
2.
Kiến trúc:
Ngôi
nhà cổ Việt độc nhất, do ông Pajot nhân viên của viện Viễn Ðông Bác Cổ tìm được
tại bờ sông Mã năm 1927, nhưng mãi đến 17 tháng Giêng 1938, nhà khảo cổ V.
Goboulew mới báo cáo trong một buổi thuyết trình. Có sự chậm trễ đó cũng bởi vì
ông gặp khó khăn trong việc định tuổi cho các vật liệu dùng làm căn nhà. Và căn
nhà đó được định cùng tuổi với ngôi mộ cổ đã khai quật.
Ðó
là một nhà sàn có cột cái cao 4,50 thước, sàn cao 1 thước. Mái nhà dài xuống
tới sàn, và vì thế mà cửa phải trổ ra ở góc hồi. Sàn bằng tre sặt, một loại tre
giống tầm vong ở miền Nam. Sườn nhà không có trính ( loại sườn nhà mà miền Nam
gọi là nọc ngựa, miền Trung gọi là nhà chữ Ðinh). Hình dáng ngôi nhà này giống
nhà khắc trên trống đồng có mái cong quớt lên và đó là lối kiến trúc của tất cả
các nhóm dân Cổ Mã Lai và Kim Mã Lai.
Ngày
nay nông dân ở nhiều đảo Nam Dương vẫn còn cất nhà như vậy, và người Chàm, cũng
gốc Mã Lai, giữ lối kiến trúc đó cả đến trong những xây cất bằng gạch. Loại nhà
đó người Chàm gọi là nhà Thang-giơ. Danh từ Thang-giơ do tiếng Mã Lai Nam Dương
Tanga mà ra, có nghĩa là cái thang. Dân Việt gọi đó là nhà sàn.
3.
Tín ngưỡng
Có
rất nhiều nhóm Mã Lai thờ mặt trời hoặc ông trời. Ngay cả Mã Lai Nhật Bản cũng
thờ nữ thần Thái Dương. Tất cả đều ăn khớp với hình trên mặt trống đồng. Tục
thờ dương vật và âm vật của chủng Mã Lai vẫn còn tồn tại ở vài làng Bắc Việt
(báo Ngày Nay, tác phẩm của Toan Ánh và Lê Quang Nghiêm). Tôn giáo ấy chẳng
những được thấy ở Bắc Việt mà còn có cả ở Trung Việt. Ngay cả bên Nhật ngày nay
vẫn còn giữ tín ngưỡng này.
4.
Ðối chiếu chỉ số sọ
Dựa
theo chỉ số sọ rút từ quyển État actuel de la crânologie indochinoise của các
bác sĩ P. Huard, F. Saurin, Nguyễn Xuân Nguyên, Nguyễn Văn Ðức – Hà Nội 1938 –
thì các dân tộc gốc Mã Lai đều có chỉ số sọ trên 80, như Mã Lai, Thái, BắcViệt,
Cao Miên và Ðại Hàn, ngoại trừ Nhật Bản, Mường và người Thục. Chỉ số sọ của
người Tàu thì luôn luôn dưới 80.
Người
Nhật có chỉ số sọ thấp nhất trong các nhóm Mã Lai Bách Việt chỉ vì họ bị lai
giống với Tàu quá nhiều.
Người
Mường mặc dù họ là Cổ Mã Lai như tất cả các phụ nữ và bần dân lại thuộc chủng
Melanesien, chỉ trừ các đàn ông cấp lãnh đạo, do đó chỉ số sọ trung bình của họ
không giống chỉ số sọ trung bình của người Bắc Việt Nam.
Người
Thục có chỉ số sọ rất giống chỉ số sọ Trung Hoa, mặc dù họ thuộc chủng Thái.
Cũng chỉ vì họ đã lai giống với Tàu trên cả hai ngàn năm rồi.
Chỉ
số sọ của người Việt miền Nam thấp hơn chỉ số sọ của người Việt miền Bắc, chứng
tỏ rằng người Việt miền Nam lai Tàu nhiều hơn người Việt miền Bắc.
5.
Ngôn ngữ tỷ hiệu
Theo
ông Bình Nguyên Lộc thì một số danh từ Mã Lai trong ngôn ngữ Việt không phải là
vay mượn hiển nhiên của các dân tộc khác như Chàm, Miên, Mường, Thái mà do từ
gốc Cổ Mã Lai mà ra. Ông thẳng thừng bài bác lập luận cho là tiếng Việt là
tiếng Tàu của sử gia Nguyễn Phương. Trong quyển Việt Nam Thời Khai Sinh, trang
230, sử gia Nguyễn Phương viết:
“Hầu
như có thể nói được rằng tiếng Việt Nam ngày nay, sau 10 thế kỷ độc lập, vẫn
còn chính là tiếng Tàu, nhưng chỉ đọc lên một cách hơi khác với cách đọc của
những tiếng địa phương ở Trung Quốc. Cố nhiên, trong Việt ngữ, đôi khi có xen
vào đôi số những tiếng không phải gốc Tàu, như tiếng Mọi, tiếng Chàm, những
hiện tượng đó không nói lên gì khác ngoài sự người Việt Nam trên đường bành trướng,
đã có gặp người Mọi người Chàm, cũng một cách như họ đã gặp người Pháp trong
thế kỷ qua và họ đã thâu nhận một số tiếng Pháp trong kho ngôn ngữ của họ”.
Nhưng
theo ông Bình Nguyên Lộc thì nếu đã phải vay mượn của Tàu thì tựu chung ta chỉ
vay mượn những tiếng chỉ những ý niệm phức tạp, những dụng cụ lạ, vật dụng lạ.
Như danh từ nước là một danh từ tối quan trọng để chỉ chất mà ta dùng hàng ngày
để sống đã được sử dụng để gọi từ ngàn xưa, vậy thì sao ta không dùng chữ thủy
của Tàu.
Vả
lại với thiên kiến của một nước luôn tự hào là văn minh và xem cái gì của họ
đều hơn của Man di cả, nhất là vấn đề ngôn ngữ, thì tất nhiên những danh từ như
Lá, Trăng, Ngựa, Chòi, Túp, Cơm, Trâu, Cá, Bông, Chim, Vua, Cây dừa vv… ta phải
nhất nhất dùng chữ Tàu, không nên vay mượn chữ của Mọi làm chi. Do đó chỉ có
một cách trả lời là nó xảy ra thời thượng cổ, lúc hai dân tộc còn là một, tức
ta với họ đồng chủng với nhau.
Ðiều
này ông đã chứng minh khi đối chiếu các danh từ Việt với các dân tộc chủng Cổ
Mã Lai, nếu ta không giống Chàm thì cũng giống Khơ Me, không giống Khơ Me thì
cũng Thái, không giống Thái thì cũng giống người Thượng. Tóm lại danh từ Việt
thế nào cũng giống danh từ của nhóm dân cùng chủng Cổ Mã Lai nào đó.
Sau
đây là một số bản đối chiếu ngôn ngữ rút ra tưø quyển NGMLCDTVN của ông:
Việt
Nam : Cá
Sơ Ðăng : Kaa
Mạ : Ká
Chàm : Kán
Mã Lai : Aka
Sơ Ðăng : Kaa
Mạ : Ká
Chàm : Kán
Mã Lai : Aka
Việt
Nam : Cột
Sơ Ðăng : Kơt
Bà Na : Kơơt
Chàm : Kaat
Mã Lai : Ikaat
Sơ Ðăng : Kơt
Bà Na : Kơơt
Chàm : Kaat
Mã Lai : Ikaat
Việt
Nam : Mắt
Sơ Ðăng : Mat
Mạ : Maht
Chàm : Kán
Mã Lai : Mata
Sơ Ðăng : Mat
Mạ : Maht
Chàm : Kán
Mã Lai : Mata
Việt
Nam : Mặt trăng
Bà Na : Mạt tlăng
Mạ : Maht kăn
Chàm : Blaăng
Mã Lai : Bulăng
Bà Na : Mạt tlăng
Mạ : Maht kăn
Chàm : Blaăng
Mã Lai : Bulăng
Việt
Nam : Sông
Chàm : Krong
Mường : Không
Bà Na : Krông
Mã Lai : Sôngai
Chàm : Krong
Mường : Không
Bà Na : Krông
Mã Lai : Sôngai
Việt
Nam : Trái (blái)
Mường : Blái
Bà Na : Plây
Sơ Ðăng : Plây
Thai : Pho la
Mường : Blái
Bà Na : Plây
Sơ Ðăng : Plây
Thai : Pho la
Việt
Nam : Cháu
Bà Na : Saò
Mạ : Sáu
Mường : Cau
Mã Lai : Chu
Bà Na : Saò
Mạ : Sáu
Mường : Cau
Mã Lai : Chu
Việt
Nam : Chim
Sơ Ðăng : Chim
Mường : Chim
Bà Na : Sêêm
Kha?La’Vàng : Tiêm
Sơ Ðăng : Chim
Mường : Chim
Bà Na : Sêêm
Kha?La’Vàng : Tiêm
Việt
Nam : Con (cái)
Mường : Kon
Bà Na : Koon
Sơ Ðăng : Kooon
Cao Miên : Kôn
Mường : Kon
Bà Na : Koon
Sơ Ðăng : Kooon
Cao Miên : Kôn
Việt
Nam : Con (vật)
Bà Na : Ko
Mạ : Ko
Cao Miên : Ko
Mường : Ko
Bà Na : Ko
Mạ : Ko
Cao Miên : Ko
Mường : Ko
Việt
Nam : Ngày
Cao Miên : Thngay
Mường : Ngai
Sơ Ðăng : Haai
Môn : Tngay
Cao Miên : Thngay
Mường : Ngai
Sơ Ðăng : Haai
Môn : Tngay
Việt
Nam : Con ruồi
Mạ : Ko Rhai
Bà Na : Ko Rooi
Mường : Ko Ruuêi
Cao Miên : Ko Ruy
Mạ : Ko Rhai
Bà Na : Ko Rooi
Mường : Ko Ruuêi
Cao Miên : Ko Ruy
Ngoài
ra, ông cũng khám phá ra khá nhiều điều lý thú trong ngôn ngữ như:
Người
Mường có danh từ Khai để chỉ con chó, đồng thời lại có nghĩa là con cọp. Theo
cố đạo L. Cadière thì tiếng Việt xưa cũng gọi con chó là Khai, hình thức cổ sơ
của danh từ con Cầy. Danh từ Bố Cái Ðại Vương, Cái là danh từ Mã Lai, có nghĩa
là ông cha hùng mạnh, ông cha thủ lãnh. Hiện nay Mã Lai vẫn còn có danh từ Ibu
La’ki, đúng nghĩa Bố Cái, vì Ibu=bố, La’ki=Cái, Ibu La’ki có nghĩa là nhà lãnh
đạo.
Danh
từ La’ki của Mã Lai biến thành Lìcáy của Chàm và Cái của Việt. Danh từ riêng
của miền Nam “người lại cái”, có nghĩa là bán nam bán nữ, chắc chắn là do danh
từ Chàm mà ra, đó là “Càmay lagi lìcáy” dịch ra là “đàn bà lại còn đàn ông”. Ta
nuốt mất chữ Càmay lagi, chỉ còn Lìcáy biến thành Lại Cái. Hiện nay người miền
Nam vẫn thường nói sai là “đàn ông lại cái”, chỉ vì họ không rõ căn nguyên và
lại hiểu sai chữ Cái là Ðàn bà. Ngay cả danh từ Thợ Cái, Sông Cái, hoặc trong
lúc chơi bài bị bắt làm Cái cũng đồng nghĩa nêu trên.
Người
Việt miền Nam thường dùng chữ Tía để chỉ người cha. Ðó là danh từ Tia của dân
Thất Mân, Mã Lai đợt II. Các đảo Mã Lai đều nói là Tưa, có nghĩa là cha vợ, chứ
không phải là Cha như người Việt miền Nam đã dùng sai.
6.
Ðồng bào Mường
Gọi
là đồng bào, bởi vì theo ông Bình Nguyên Lộc rằng khoa học đã nhìn nhận rằng
dân tộc Mường là Indonesien (Cổ Mã Lai) từ hơn thế kỷ nay, và ông đã chứng minh
là dân ta cũng là gốc Mã Lai thì họ và ta là đồng bào rồi vậy.
Ðể
viết về dân Mường, ông đã chọn tài liệu chủ lực cho sự nghiên cứu của ông, một
cuốn sách mà ông thấy là đầy đủ nhất về dân tộc này, đó là quyển Les Mường,
Géographie humaine et Sociologie của cô Jeanne Cuisinier do Viện Dân Tộc Học,
Bảo Tàng Viện về Con Người xuất bản tại Paris năm 1946.
Như
trong phần đo chỉ số của các giống tộc ở trên, người Mường không thuộc chủng Mã
Lai mà lại thuộc chủng Thái, trong khi họ có ngôn ngữ rất gần với ta. Cô J.
Cuisinier cho biết rằng quí tộc Mường, gia đình và họ hàng của các quan Lang,
các thổ đạo, các hương chức hội tề thì xinh đẹp như người Việt. Còn bần dân và
tất cả phụ nữ, kể cả phụ nữ thuộc hàng quí phái cũng bé choắt và xấu xí.
Ông
Bình Nguyên Lộc giải thích rằng người Mường là quí tộc Lạc Việt từ Hoa Nam nam
thiên cho nên không mang đàn bà theo kịp, họ đến đây hợp chủng với dân
Melane’siens da đen xấu xí và lãnh đạo dân Melane’sien cho đến ngày nay. Vào
thời thượng cổ, khi mà một cuộc di cư lớn lao xảy ra thì đa số phụ nữ bị bỏ
rơi, hoặc yếu sức chết dọc đường. Cho nên khi đến địa bàn định cư, đàn ông goá
vợ hay thanh niên thì lấy dân thổ trước làm vợ. Chính vì thế mà phụ nữ của họ
mới không đồng chủng với họ.
Xét
về ngôn ngữ thì văn phạm của hai dân tộc Mường và Việt giống hệt nhau:
Tiếng
Việt Tiếng Mường
Ba
hồn bảy vía con đùa (con trai), con gái, đâu đi về cùng bố, cùng mẹ, ăn cơm, ăn
cá
Pa hồn pải piái on tứa, on kai, no tỉ vên kung pô, kung mè, ăn kơm ăn ka
Pa hồn pải piái on tứa, on kai, no tỉ vên kung pô, kung mè, ăn kơm ăn ka
Bố
ơi chết bỏ ta làm sao vậy, thân mình ăn đâu ở đâu bố ơi
Pô ơi keát bô ta la no pò, thân hò ăn no ở no pô ơi!
Pô ơi keát bô ta la no pò, thân hò ăn no ở no pô ơi!
Ăn
ra khói nói ra lửa
Ăn za khuê nói za lửa
Ăn za khuê nói za lửa
Ðể
cho quỉ xa ma sợ
Tê co kwi sa ma đượi
Tê co kwi sa ma đượi
Vía
lúa ơi, về đụn về nhà mà ở
Piái ló ơi, vên tun vên nhà ma ở!
Piái ló ơi, vên tun vên nhà ma ở!
Cơm
như vàng ròng
Kơm như yang rong
Kơm như yang rong
Danh
từ Vua, thì họ nói là Bua. Trời, thì họ nói là Blời. Các cố đạo ngày xưa tại
Việt Nam cũng viết là Bua, Blời, không phải vì các ông không biết âm Tr, mà bởi
vì thuở đó ta cũng giống dân Mường đều không có âm Tr. Trái cây họ đọc là Tlai
kây, Trái ngang họ nói là Plái ngang, Trâu họ kêu là Tlu vv…
Ngoài
ra, trên mặt các trống đồng khai quật có khắc bộ hình một số người cầm gậy thọc
xuống một vật mà đa số các nhà bác học Âu Châu cho rằng đó là động tác giã gạo.
Nhưng nhà khảo cổ Lê Văn Lan đã lên xứ Mường và đã thấy người Mường ngày nay
vẫn còn đánh trống như vậy, tức dùng gậy thọc xuống mặt trống.
Cô
J. cuisinier còn viết rằng cô đã thấy toàn thể người Mường nhuộm răng đen, một
số xâm mình, toàn thể ăn trầu, họ có đồng bóng và có sử dụng trống đồng loại
lớn. Loại trống này chỉ có các quan Lang mới có và số tia của ngôi sao trên mặt
trống càng nhiều thì tỏ rõ thế lực của ông quan Lang ấy, thông thường chỉ có
7,8 tia mà thôi.
Nói
tóm lại, những giả thuyết, những lý luận mà các nhà ngữ học, bác học, sử học,
nhân chủng học ngoại quốc cũng như người Việt nêu trên đã cho ta nhiều điều lý
thú về nguồn gốc dân tộc cũng như nguồn gốc tiếng Việt. Qua đó, quí vị có thể
tự suy ra kết luận hay ít nhiều cũng tạo hứng khởi trong việc tìm về nguồn cội
văn hóa nước ta.
Chú
thích:
(1)
Việt Nam Quốc Sử Diễn Ca, Lê Ngô Cát và Phạm Ðình Toái, tr.48
(2)
Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim, tr. 11-12, Anh hùng nước tôi, MTQGTNGPVN, tr.
43
(3)
Việt Nam Tinh Hoa, Thái văn Kiểm, tr. 36
(4)
Việt Nam Tinh Hoa, Thái văn Kiểm, tr. 146 – 147
(5)
Việt Nam Sử Lược, Trần Trọng Kim, tr. 5
(6)
Nguồn gốc dân tộc Việt Nam, Ðào Duy Anh, 1950.
(7)
Tầm Nguyên Tự Ðiển, Lê Ngọc Trụ, tr. 11
(8)
Nam Phong, số 110, tháng 10 năm 1926
(9)
Tầm Nguyên Tự Ðiển VN, tr. 12
(10)
Chánh tả Việt Ngữ, tr. 19
(11)
Việt Nam Tinh Hoa, tr. 100-101, tr. 155-158
(12)
Mượn của A. Chéon trong Note linguistique sur les Muong, BEFFEO, T5, tr,
338-339
(13)
Tầm Nguyên Tự Ðiển, Lê Ngọc Trụ, tr. 13
(14)
Nguồn Gốc Mã Lai Của Dân Tộc Việt Nam – Xuân Thu xuất bản
(15)
Ðại Nam Nhất Thống Chí – Quốc Sứ Quán Triều Nguyễn, quyển 2, tr. 255, 288
(16)
Mượn của Phan Hưng nhơn, Diễn Ðàn Phụ Nữ 183 – 1999, trong bài “Nhìn lại nền
văn hoá Ðông Sơn để nhó lại nguồn gốc của Trống Ðồng”.
Chia sẻ:
Related
Cấu tạo và nguồn
gốc của chữ Nôm - chữ của dân tộc Việt NamIn "Lịch sử Việt
Nam"
Về nguồn gốc
tiếng ViệtIn "Lịch sử thế giới phương Tây"
Dân tộc Kinh ở
Quảng TâyIn "Lịch sử Việt Nam"
Gửi
phản hồi
Điều hướng bài viết
Danh mục
·
Kho tàng văn hóa (136)
·
Lịch sử phương
Đông (117)
·
Lịch sử thế giới
phương Tây (201)
·
Lịch sử Việt
Nam (478)
·
Thế giới ngày
nay (155)
Bài viết mới
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét