Đêm 12/5/1947 tại Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp Paul Mus, cố vấn chính trị, đặc phái viên của Cao ủy Pháp ở Đông Dương Emile Bollaert.
Đây là cuộc tiếp xúc ngoại giao cuối cùng giữa đại diện Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Pháp cho tới Hội nghị Geneva 1954 về Đông Dương.
Cuộc gặp này được Bộ trưởng Hoàng Minh Giám kể lại như sau:
Sau ngày kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19/12/1946), quan hệ giữa ta và Pháp rất thưa thớt. Ngoài một vài bức điện hoặc lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi cho các đại diện chính phủ Pháp (Léon Blum, Moutet) chỉ có một vài cuộc tiếp xúc giữa đại diện chính phủ ta với các lãnh sự Mỹ, Anh, Ấn Độ và đại biểu Hội chữ thập đỏ quốc tế; các cuộc tiếp xúc đó là do phía Pháp đề nghị, nhằm giải quyết cái gọi là “vấn đề tù binh Pháp”.
Hạ tuần tháng 4/1947, ta gửi cho Pháp một bức thông điệp đề nghị ngừng bắn. Lúc đó tên Đô đốc Georges Thierry d'Argenlieu, Cao ủy Pháp tại Đông Dương đã bị về vườn và Cao ủy mới là Emile Bollaert đã đến Đông Dương.

Bộ trưởng Hoàng Minh Giám báo cáo công việc với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Một ngày đầu tháng 5/1947, có cuộc gặp giữa tôi và lãnh sự Anh Trésor Wilson gần cầu Đuống. Sau mấy phút trao đổi ý kiến về “vấn đề tù binh” và tình hình chung, viên lãnh sự Anh nói:
- Ông có biết ông Paul Mus không ? Ông ấy nói đã có dịp gặp ông ở Hà Nội và đã được yết kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh trước ngày 19/12/1946.
- Có. Đúng như vậy.
- Ông Paul Mus muốn gặp ông. Ông ấy đã đi theo tôi đến phía bên kia cầu Đuống, cách đây độ một km và đang chờ ở đó. Nếu ông đồng ý tiếp, thì ông ấy sẽ đến ngay.
- Ông ấy muốn gặp tôi về việc gì? Ông có biết không?
- Ông ấy nói rằng có một việc rất quan trọng, và ông ấy tha thiết muốn gặp ông. Hiện nay ông ấy là một người giúp việc thân cận, một cố vấn của Cao ủy Emile Bollaert.
- Được. Nhờ ông báo cho ông Paul Mus rằng tôi sẵn sàng gặp ông ấy.
Một lát sau, Paul Mus đến. Sau khi chào hỏi, ông ta vào đề ngay:
- Tôi có một việc rất quan trọng, bí mật và gấp, muốn được gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tôi được ủy nhiệm chuyển trực tiếp đến Chủ tịch một thông điệp của Cao ủy Emile Bollaert. Nếu có thể, tôi sẵn sàng đi theo ông ngay bây giờ.
- Rất tiếc. Đi ngay bây giờ thì không được. Tôi sẽ báo cáo với Hồ Chủ tịch. Và tôi sẽ trả lời cho ông biết quyết định của Người. Ông hãy cho biết nên trả lời ông bằng con đường nào, vừa nhanh chóng vừa bảo đảm bí mật?
- Cảm ơn. Đề nghị ông trả lời tôi bằng điện đài.
Paul Mus đọc một câu có nghĩa lóng và nói tiếp:
- Bắt đầu từ ngày kia mỗi buổi sáng, hồi 9 giờ, bộ phận nghe đài của chúng tôi sẽ đón nghe đài của các ông; nghe được câu lóng đó, tôi sẽ đến địa điểm này, đúng giờ hẹn, để được dẫn đến gặp Hồ Chủ tịch và trao trực tiếp bản thông điệp của Cao ủy Emile Bollaert.
Sau đó, điện đài của ta báo cho phía Pháp biết Hồ Chủ tịch bằng lòng tiếp Đặc phái viên của Cao ủy Emile Bollaert. Đúng hẹn, người của ta chờ Paul Mus ở đầu cầu Đuống và dẫn vào vùng giải phóng. Để đảm bảo bí mật và vì các đường cái đã bị dân công đào, cắt, ông ta phải đi bộ qua các làng phần lớn đã tản cư, và đi ban đêm.
Một buổi tối trung tuần tháng 5/1947, Paul Mus được Hồ Chủ tịch tiếp vào khoảng 22 giờ, tại Thái Nguyên. Thị xã Thái Nguyên đã tản cư triệt để và tiêu thổ kháng chiến. Các đồng chí bảo vệ tìm được một ngôi nhà không nguyên vẹn nhưng cũng còn được một gian tương đối khả quan, có bàn và ghế, có thể dùng làm nơi Bác tiếp người phái viên bí mật của Emile Bollaert.
Tôi chờ Paul Mus và đưa ông ta vào gian nhà yết kiến Hồ Chủ tịch. Dưới ánh sáng của ngọn đèn măng-sông, tôi cảm thấy ông ta xúc động được Bác tiếp, giản dị, lịch sự, như lúc ở phòng khách tại nhà 12 Ngô Quyền, Hà Nội.
Paul Mus cảm ơn Hồ Chủ tịch đã vui lòng cho ông ta gặp để làm nhiệm vụ do Cao ủy Đông Dương giao cho và xin phép đọc cho Bác nghe (đọc thuộc lòng) bản thông điệp không ghi vào giấy của Emile Bollaert trả lời thư đề nghị ngừng bắn của Chính phủ ta đề ngày 25/4/1947.
Thông điệp của Emile Bollaert nêu ra bốn điều kiện cho ngừng bắn: Quân đội Việt Nam phải nộp vũ khí cho Pháp; Quân đội Pháp được quyền đi lại tự do trên đất nước Việt Nam; Chính phủ Việt Nam phải trả lại cho Pháp tất cả những người đã bị bắt mà họ gọi là con tin; Chính phủ Việt Nam phải trao cho Pháp tất cả những người nước ngoài (ý nói: Người Nhật và người Pháp đã chạy sang phía Việt Nam).
Sau khi nghe những điều kiện láo xược đó của Cao ủy Pháp, Hồ Chủ tịch nghiêm nét mặt, nhưng bình tĩnh và giọng nói ôn tồn, Người hỏi:
- Ông Paul Mus, tôi biết ông đã tham gia cuộc kháng chiến của nhân dân Pháp chống Hitler, điều đó có đúng không?
- Thưa Chủ tịch, đúng.
- Vậy thì ông hãy trả lời tôi: Nếu ở địa vị tôi, ông sẽ có thái độ thế nào đối với bản thông điệp của ông Emile Bollaert? Ông có nhận những điều kiện đó không?
Paul Mus lúng túng.
Bác nói tiếp:
- Tôi nghe nói ông Emile Bollaert cũng đã tham gia cuộc kháng chiến chống Hitler và có thành tích. Những điều kiện ông ấy đưa ra để ngừng bắn có nghĩa gì? Có nghĩa là ông ấy đòi chúng tôi phải đầu hàng. Ông Paul Mus, bản thân ông có nghĩ rằng chúng tôi có thể đầu hàng không? Lại còn điều kiện liên quan đến những người nước ngoài đứng trong hàng ngũ kháng chiến Việt Nam chống thực dân Pháp. Phải là một con người hèn mạt mới chấp nhận điều đó. Nếu tôi chấp nhận, tôi là kẻ “hèn mạt”. Và tôi nghĩ rằng trong Liên hiệp Pháp không có chỗ cho những kẻ hèn mạt.
Paul Mus im lặng, gật đầu, tỏ ý đồng tình. Rồi nói:
- Tôi hiểu, thưa Chủ tịch, tôi hiểu …
Thế rồi không ai nói đến bản thông điệp nữa.
Bác giải thích về lập trường của Chính phủ và nhân dân ta: Yêu chuộng hòa bình, muốn có quan hệ tốt với nhân dân Pháp, nhưng kiên quyết kháng chiến để bảo vệ độc lập và thống nhất của Tổ quốc mình. Paul Mus thừa nhận rằng đó là những tình cảm và ý chí chính đáng, hứa sẽ báo cáo với Cao uỷ Emile Bollaert những ý kiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Paul Mus cũng thú nhận đã được thấy tận mắt quang cảnh thị xã Thái Nguyên “đã tiêu thổ kháng chiến”, ông ta rất khâm phục lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Ông ta chúc sức khỏe Bác, và lúc chào từ biệt, tỏ ra cảm động thực sự. Lời cuối cùng của ông ta lúc ra về là:
- Chúc Chủ tịch dũng cảm!
Bác đáp lại:
- Luôn luôn! Tất nhiên!
Một sự việc nhỏ có lẽ đã làm cho Paul Mus ngạc nhiên: Khi cuộc tiếp kiến kết thúc, các đồng chí phục vụ đã bưng ra mấy cốc rượu sâm-banh để Bác mời khách uống trước khi ông ta rút lui vào bóng tối của đêm khuya.
Năm năm sau, trong quyển sách “Việt Nam, cuộc chiến tranh xét về mặt xã hội học” xuất bản năm 1952, Paul Mus phê phán nội dung của bản thông điệp mà ông ta đã có trách nhiệm chuyển đến Hồ Chủ tịch tại thị xã Thái Nguyên. Người cố vấn đặc biệt, phái viên của Emile Bollaert, kể rằng lúc đó bọn thực dân Pháp ở Paris và Sài Gòn đều nhất trí cho rằng chúng nắm chắc chiến thắng trong tay rồi, chẳng bao lâu nữa chúng sẽ đè bẹp cuộc “kháng chiến của Việt Nam” vậy thì không nên nhận đàm phán.
Theo tác giả, Bộ trưởng Bộ chiến tranh của Pháp lúc bấy giờ nhận định rằng “vấn đề quân sự ở Đông Dương có thể coi như xong rồi”; một nhân vật quan trọng trong chính giới Pháp khẳng định: “Chỉ ba tuần nữa thôi! mọi điều sẽ được giải quyết tốt, miễn là không đặt vấn đề đàm phán!”.
Và chính vì thế, khi nói đến ngừng bắn, thực dân Pháp đã đưa ra những điều kiện phi lý, mà bản thân Paul Mus cũng nghĩ rằng phía Việt Nam không thể chấp nhận.
Khi Paul Mus ra về rồi, Bác và chúng tôi còn ngồi lại khoảng một tiếng nữa để đợi ông ta đi xa rồi mới về nơi ở. Lúc đó, vào khoảng một giờ sáng, Bác không về chỗ ở của mình mà về Sơn Dương, chỗ cơ quan Bộ Ngoại giao. Việc Bác từ nơi nào đến gặp Paul Mus, ngoài anh Phan Mỹ (Chánh Văn phòng Phủ Chủ tịch-Phủ Thủ tướng) thì không ai biết cả. Bác bảo tôi: “Bây giờ chú về với tôi bằng xe com-măng-ca”. Lúc đó xe đã đợi sẵn ở đó, theo sự bố trí của anh Phan Mỹ. Chúng tôi đi xe đến đèo Khế thì trời bắt đầu sáng. Bác bảo chúng tôi: “Thôi, chúng ta xuống đi bộ, vì nếu đi xe, máy bay địch dễ phát hiện”. Tôi và Bác đi bộ về khu tự do Sơn Dương và ghé vào chỗ Bộ Ngoại giao. Tôi hứa với Bác là sẽ nhớ và viết lại lời của bức thông điệp mà Emile Bollaert gửi Bác qua Paul Mus. Hai ngày sau, tôi gửi bài viết đó cho Văn phòng của Bác.
(Nguồn: “Hoàng Minh Giám - Người con của thế hệ vàng”, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2013)/ dẫn theo báo Thế giới và Việt Nam.