Hồi còn nhỏ tôi được học một bài ca dao:
'' Con cò đậu ở bờ
tre/
Thằng Tây nó bắn
cò què một chân/
Mai cò ra chợ Đồng
Xuân/
Chú khách mới hỏi
sao chân cò què/
Cò rằng tôi đứng
bờ tre/
Thằng tây nó bắn
tôi què một chân''
Bài ca dao này cứ ám ảnh tôi mãi, không phải vì nó có nội dung hay
nghệ thuật đặc sắc gì mà vì thông điệp không rõ ràng của nó đối với người đọc.
Tôi nhớ sách giáo khoa (không nhớ rõ lớp nào và năm nào) có giải thích: - qua
nhân vật con cò tố cáo tội ác của giặc Pháp!
Tuy nhiên, ''con cò'' ở đây không hề có thái độ thù hằn gì "Thằng
tây'' cả, thậm chí, cũng không thực sự đau buồn hay giận dữ!. Đổi lại, thái độ
của ''cò'' hoàn toàn dửng dưng: ''- Cò
rằng tôi đứng bờ tre/ thằng tây nó bắn tôi què một chân''! Hết!
Thái độ dửng dưng này là một dấu hỏi lớn trong tâm trí tôi suốt thời đi
học. Sau này được tiếp cận một khối lượng lớn thông tin và qua suy xét của bản
thân tôi dần dần nghiệm ra ý tứ sâu xa mà tác giả vô danh muốn gửi tới người
đọc.
Bài ca dao trên gắn với một giai đoạn đau buồn trong lịch sử dân tộc, đó
là khi thực dân Pháp xâm lược nước ta vào cuối thế kỷ XIX.
Xem lại lịch sử giai đoạn này, ngoài quyết tâm đánh pháp của Trương
Công Định và các văn thân, sỹ phu với nhưng tấm gương hy sinh anh dũng (thực ra
cả Triều đình Nhà Nguyễn cũng quyết tâm đánh Pháp) còn có các sự kiện khác mà
người Việt Nam có lương tri nào khi xem lại cũng cảm thấy xấu hổ.
Chỉ có 120 binh lính Pháp do một đại úy chỉ huy cộng với vài chục lính mộ
người Việt và người một số nước Châu Á khác đi theo hỗ trợ (10 người âu, 30
người châu á, 150 lính mộ Vân Nam) cùng với 08 khẩu pháo mà hạ thành Hà Nội do
một vị đại tướng của Việt Nam chỉ huy với 7 ngàn quân, chỉ trong nháy mắt!
(chưa đến 1 tiếng đồng hồ trong ngày 20/11/1873)
Đại úy Garnier yêu cầu nộp thành, ta không theo. Y ra lệnh công
thành. Nên nhớ, quân ta đông gấp vài chục lần quân Pháp, lại là một dân tộc văn
minh chứ không còn ở giai đoạn bán khai như người da đen ở châu Phi hay còn
dùng công cụ đồ đá như người Azteca ở Mexico. Nếu xáp chiến thì chỉ cần dùng
quả đấm cũng có thể đè bẹp quân Pháp. Nên nhớ vũ khí thời đó của quân Pháp cũng
khá thô sơ. Tiếc thay, chỉ vài loạt đạn của quân Pháp, quân ta vứt súng chạy
như vịt còn trơ lại vị Tổng đốc bị thương. Con trai Cụ là Nguyễn Lân cũng bị
bắn chết.
Các sự khiện tiếp theo còn bi thảm hơn. Ngày 05/12/1873, chỉ có 7 lính
Pháp và 2 lính mộ đi ca nô đến thành Ninh Bình bắt quan tuần phủ và hạ thành;
lúc đó trong thành có 1700 quân trấn giữ. Chỉ có 50 lính pháp và một số lính mộ
tấn công thành Nam Định có hàng ngàn quân. Việc quân Pháp dùng ngay các thanh
chướng ngại làm thang leo lên mặt thành cũng đủ thấy sức kháng cự của quân ta
không đáng kể. Thành Hải Dương còn thất thủ một cách khôi hài hơn. Chỉ có hơn
hai chục lính pháp tấn công thành; táo tợn đến mức đu người lên cánh cửa để
nhòm vào trong thành. Sau vài loạt đạn, lãnh binh Vi Văn Đông vội vàng bỏ trốn,
quan binh thấy thế cũng trốn sạch. Quân Pháp phá cổng vào thành, thành mất.
Tại sao một dân tộc đã từng đánh thắng hàng vạn quân Tống, Nguyên, Minh,
Thanh lại bạc nhược như vậy. Cũng vẫn dân tộc ấy thôi 80 năm sau, bằng vũ khí
thô sơ đã đánh bại chính đế quốc pháp trang bị tối tân hơn nhiều?!
Nhiều người cho rằng ta thua Pháp vì súng đạn ta không bằng Pháp. Điều đó
không sai nhưng thực ra không hoàn toàn đúng. Súng đạn của quân Nhà Nguyễn cũng
được nhập từ phương Tây và chỉ thua súng đạn của pháp một thế hệ. Thậm chí bằng
lò rèn thủ công mà ông Cao Thắng ở núi rừng Vụ Quang còn chế tạo được gần giống
súng của Pháp.
Ta thua pháp về tổ chức chiến tranh nhưng điều này có thể học hỏi và thay
đổi được vì cuộc chiến tranh Pháp - Việt kéo dài 30 năm (1859 - 1888).
Nguyên nhân lớn nhất dẫn đến thất bại của người Việt Nam chính là sự thờ
ơ của đa số người dân trước thời cuộc, trước vận mệnh của đất nước.
Trở lại bài ca dao, người dân ở đây được hình tượng hoá ở hình ảnh con
cò. Cò ta đứng ở bờ tre để xem quan quân triều đình đánh nhau với Tây. Cò dửng
dưng như người ngoài cuộc đứng xem một việc không liên quan đến mình. Không may
''thằng Tây'' nó bắn phải ''cò'', thế thôi!
Người dân dửng dưng trước thời cuộc, trước nguy cơ mất nước vì xã hội
Việt Nam đã chia rẽ sâu sắc. Nguyễn Hàn Ninh có bài thơ vịnh đèn kéo quân rất
hay nói lên thực trạng của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là:
''Một lũ ăn mày, một
lũ quan/
Quanh đi quẩn lại
chỉ một đoàn''
Thân phận người lính cũng vậy:
''Ngày thì canh
điếm, tối dồn việc quan/
đẽo tre đẵn gỗ trên
ngàn...''.
Các quan chỉ coi lính như lũ người hầu, làm việc không công: ''nước sông
công lính''. Ngay các quan cũng chẳng quan tâm gì đến việc luyện tập, võ bị.
Lực lượng vũ trang bị coi thường:
''Văn thì thất phẩm
đã sang/
võ thì tứ phẩm còn
mang gươm hầu''.
Tựu trung, quan lại là lũ người chỉ nghĩ đến mình, ra tay vơ vét, chiếm
đoạt. Người dân đã nhìn rõ thực trạng này về hàng ngũ công chức bất tài, vô
hạnh này:
''Khi bình làm hại
dân ta/
Túi tham vơ vét
chẳng tha thứ gì/
Đến khi hoạn
nạn lâm nguy/
Mặt trông lơ láo,
chân đi tập tềnh!''
rồi:
''đồn rằng quan tướng có
danh/
Cưỡi ngựa một mình
chẳng phải vịn ai''
Ông Ích Khiêm phải kêu lên:
'' Áo chúa cơm vua hưởng bấy lâu/
Đến khi đánh giặc phải nhờ Tầu...''
Trong tình hình quan chức như vậy, người dân vừa khinh vừa ghét. ''Cò''
không nói ra nhưng có khi còn hả hê trưóc cảnh quan quân bị Tây bắn, chạy như
vịt: ''- Cho chúng mày chết!''
Một dân tộc đã chia rẽ như vậy thì mất nước là tất yếu!
Khác hẳn 600 năm trước khi giặc mạnh phương Bắc lăm le cướp nước, chính
quyền đã mở hội nghị Diên Hồng để tạo sự đồng thuận toàn dân; mở hội nghị Bình
Than để thống nhất ý chí của quý tộc.
Điều đó cho thấy, đối diện với nguy cơ mất nước càng cần đối thoại để
thống nhất ý chí. Muốn có đối thoại cần có sự tôn trọng lẫn nhau giữa các chủ
thể trong xã hội. Điều này Nhà Nguyễn đã không làm được. Những vị vua dốt nát,
yếu đuối và đội ngũ quan lại tham nhũng, bất tài, mua quan bán tước của nhà
Nguyễn không thể nào trở thành hạt nhân đoàn kết dân tộc được nữa. Họ không làm
được điều các quý tộc nhà Trần đã làm. Quý tộc Nhà Trần là những anh hùng, hào
kiệt, con cháu của những người bình dân chài lưới mới chiếm được chính quyền từ
tay Nhà Lý rệu rã bằng võ công và trí tuệ.
Giữa những trang hào kiệt:
''Một gánh càn khôn
quẩy xuống ngàn/
Hỏi rằng chi đó bảo
rằng than!”
và lũ công chức tham nhũng, bạc nhược là khoảng cách rất xa về chất
người.
Chúng ta vẫn có thể thua Pháp vì trình độ phát triển của họ lúc bấy giờ
hơn hẳn ta nhưng thua như kiểu vua quan nhà Nguyễn là một nỗi nhục lớn lao mà
không nên quên. Bởi vì nếu quên, nếu cố tình không sòng phẳng với lịch sử có
thể dân tộc Việt Nam lại lặp lại sai lầm tương tự trong tương lai./.
Alex Smith, HN,
02/8/2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét