21/05/2016
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 20.5.2016
Kính gửi: Ngài Tổng thống Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ Barack Obama
Thưa Ngài,
Chúng tôi rất vinh dự và có trách nhiệm gửi thư trực tiếp đến
Ngài Tổng thống qua Tổng Lãnh sự Quán Hoa Kỳ tại Thành phố Hồ Chí Minh để bày
tỏ ý kiến và nguyện vọng của chúng tôi, một nhóm trí thức, nhân sĩ Sài Gòn nhân
chuyến thăm của Ngài đến Việt Nam và sẽ thăm thành phố Hồ Chí Minh.
Với lòng kính trọng và tin tưởng, chúng tôi muốn trình bày với
Ngài Tổng thống mấy vấn đề sau đây:
1. Chúng tôi hiểu rất rõ tầm quan trọng có ý nghĩa sống còn của
dân tộc Việt Nam trong mối quan hệ mật thiết giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, hiện đang
là đối tác toàn diện trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế,
thương mại và đầu tư với những bước tiến vượt bực trong những năm qua từ khi có
Hiệp ước Thương Mại Việt Mỹ sau khi Việt Nam gia nhập WTO.
Những thành tựu đó là điểm tựa cho những hoạt động khác, đưa sự
phát triển của Việt Nam bước vào một giai đoạn mới để giảm bớt sự lệ thuộc quá
nguy hiểm bởi sự thao túng và áp lực của Trung Quốc. Bằng những hành động cụ
thể của đối tác đáng tin cậy để trở thành đối tác chiến lược giữa Việt Nam và
Mỹ có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với tình hình đất nước chúng tôi hiện nay
trong bối cảnh khu vực và quốc tế đang có nhiều biến động. Gay gắt nhất là hành
động hung hãn của Trung Quốc trên Biển Đông nhằm thực hiện “giấc mơ Trung Hoa”
của Tập Cận Bình, một Frankenstein thế kỷ XXI như cảnh báo của Tổng thống Nixon
trước khi qua đời “Chúng ta có thể đã tạo
ra con quái vật Frankenstein”.
2. Chẳng phải hôm nay, mà trước đây hơn nửa thế kỷ, Việt Nam đã
biểu tỏ mong muốn có mối quan hệ chiến lược với Hoa Kỳ. Trước và sau ngày đọc
Tuyên ngôn Độc lập 2.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi 14 lá thư cho lãnh đạo
Hoa Kỳ, trong đó có Tổng thống Truman, đề nghị thiết lập quan hệ “hợp tác toàn diện với Hoa Kỳ”. Ngay sau
Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, trong diễn văn tiếp theo Võ Nguyên Giáp đã
khẳng định: “Mỹ là nước dân chủ, không có
tham vọng về đất đai mà lại có công nhất trong việc đánh bại kẻ thù của ta […]
nên ta coi Mỹ như một người bạn tốt”. Cơ hội lịch sử đã bị bỏ lỡ và
cả hai nước chúng ta đã phải gánh chịu những đau thương mất mát quá lớn không
đáng có.
Một Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, với mục tiêu Độc lập, Tự do, Hạnh
phúc như đã từng Tuyên bố trước thế giới ngày 2.9.1945, trải qua bao thăng trầm
biến động, nay đang cố gắng hội nhập và đóng góp có trách nhiệm cho cộng đồng khu
vực và quốc tế là phù hợp với lợi ích của hoà bình, an ninh, hợp tác và phát
triển ở Châu Á – Thái Bình Dương và các nước khác trên thế giới. Một Việt Nam
giàu mạnh, phát triển bền vững, có đủ tiềm lực kinh tế và quốc phòng là phù hợp
với lợi ích của Hoa Kỳ. Cùng chung lợi ích, đó là nhân tố quyết định cho việc
thắt chặt mối quan hệ đối tác toàn diện sớm trở thành đối tác chiến lược Việt
Nam – Hoa Kỳ đang là đòi hỏi nóng bỏng nhất hiện nay, cũng là khát vọng mãnh
liệt của nhân dân Việt Nam chúng tôi hôm nay.
Là một khát vọng mãnh liệt, vì chúng tôi đang đối diện với những
áp lực nặng nề của Trung Quốc, mà Trung Quốc thì hiểu rất rõ rằng Mỹ là cường
quốc duy nhất có khả năng ngăn chặn và đập nát âm mưu độc chiếm biển Đông
của họ. Họ biết rằng, nếu có một Hiệp định An ninh Việt Mỹ, thì đó sẽ là
lưỡi gươm sắc bén đủ để chặt đứt cái lưỡi bò tham vọng ngông cuồng và lố
bịch mà họ đang theo đuổi.
Vì thế, nếu Mỹ tuyên bố dỡ bõ lệnh cấm vận vũ khí sát
thương cho Việt Nam và cam kết hỗ trợ Việt Nam trong cố gắng bảo vệ
chủ quyền chính đáng và hợp pháp của mình thì đó là một hành động có ý
nghĩa nhất đối với đất nước chúng tôi hiện nay. Chính vì thế, chúng tôi chân
thành cám ơn Thượng nghị sĩ John McCain với thông cáo ngày 18.5.2016 khẳng định
“Chúng ta tăng cường khả năng của Việt Nam
đóng góp vào hoạt động hàng hải bằng việc gỡ bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí với
chính phủ Việt Nam”.
Cùng với điều đó, việc hoàn tất tiến trình Việt Nam tham gia TPP
sẽ tạo điều kiện đẩy mạnh đầu tư của Hoa Kỳ vào Việt Nam, tạo điều kiện thuận
lợi hơn nữa cho thương mại giữa hai nước, giữa Hoa Kỳ và ASEAN bởi lẽ hàng hoá
Hoa Kỳ sẽ vào thị trường Việt Nam của hơn 90 triệu dân, được kết nối với thị
trường ASEAN hơn 600 triệu dân. Việc Hoa Kỳ sớm công nhận nền kinh tế thị
trường của Việt Nam là bước đi cần thiết cho cả hai bên theo hướng đó. Cũng vì
thế, chúng tôi cám ơn Ngoại trưởng John Kerry khi ông nhìn nhận “Không ai có thể tưởng tượng nổi Hoa Kỳ và Việt Nam
bắt tay cùng mười quốc gia khác để đạt được một cơ hội giao thương vô giá”.
Theo chúng tôi, nếu thực hiện thành công những vấn đề nói trên,
những điều đang được thế giới quan tâm theo dõi, Ngài sẽ đi vào lịch sử với
những quyết định có tầm cỡ lịch sử bằng Hiệp Định TPP, bình thường hóa quan hệ
với Cuba sau hơn 60 năm đối đầu căng thẳng, thỏa thuận hạt nhân với Iran,
và nay là bãi bỏ lệnh cấm vận vũ khí, mở rộng cửa cho Việt Nam vào TPP, một
quốc gia cựu thù mà hội chứng Việt Nam vẫn chưa phai trong lòng nước Mỹ. Chúng
tôi hoàn toàn tin tưởng vào sự sáng suốt và bản lĩnh của Ngài như chúng tôi đã
chứng kiến.
3. Để làm được những điều ấy, chúng tôi hiểu rõ Ngài phải đối
diện với những thách thức khá gay gắt, mà đáng buồn nhất trước hết – vì lí do
nào đó – lại là với thái độ không minh bạch và sòng phẳng của một bộ phận những
người trong bộ máy quyền lực của Việt Nam về mối quan hệ Việt-Mỹ đang chịu áp
lực nặng nề và sự chi phối thường xuyên và xảo quyệt của Bắc Kinh.
Thế lực này bị ràng buộc về mặt lợi ích và cái ghế quyền lực
được khoác cái mặt nạ cùng chung ý thức hệ Xã hội chủ nghĩa với cộng sản Trung
Quốc. Những vi phạm về nhân quyền đặc biệt được thể hiện rõ trong việc đàn áp
đánh đập dã man những người tuần hành ôn hòa trong tay không có một tấc sắt, kể
cả phụ nữ và trẻ em nhằm thực hiện quyền biểu tình vốn đã được ghi trong Hiến
Pháp, nhằm lên tiếng trước thảm họa môi trường, cá biển chết suốt dọc bờ biển
Miền Trung. Nhiều nghi vấn đặt ra, tại sao người ta lại đàn áp người dân như
vậy trước chuyến thăm của Tổng thống Hoa kỳ vốn được nhân dân Việt Nam mong
đợi?
Người ta biết quá rõ, vấn đề dỡ bõ lệnh cấm vận vũ khí
sát thương cũng như vấn đề Việt Nam gia nhập TPP gắn liền với đòi hỏi về cải
thiện nhân quyền ở Việt Nam. Phải chăng, một thế lực nào đó được sự hỗ trợ của
Bắc Kinh muốn ngăn cản tiến trình ấy sẽ được đẩy mạnh với chuyến đi của Ngài
Tổng thống? Ngăn cản tiến trình đó đồng nghĩa với việc thực thi chiến lược và
sách lược của Trung Quốc trói chặt Việt Nam trong quỹ đạo áp đặt của Bắc Kinh,
biến Việt Nam thành chư hầu ngoan ngoãn của Trung Quốc như những triều đại
phong kiến Trung Hoa hàng ngàn năm trước đây đã làm. Bắc Kinh rất lo ngại quá
trình dân chủ hóa ở Việt Nam được đẩy mạnh sẽ gây một phản ứng dây chuyền với
chế độ toàn trị phản dân chủ đang kìm kẹp nhân dân Trung Quốc.
Tập Cận Bình đang hung hăng thực thi luật rừng, coi trọng quyền
lực cứng mà coi nhẹ quyền lực mềm, tập trung quyền lực cá nhân, phục hồi “sùng
bái cá nhân”, và công khai thách thức Mỹ. Tập đang thực hành chính sách “bên miếng hố chiến tranh” nhằm đưa mâu thuẫn
ra bên ngoài, không chỉ uy hiếp đe dọa và cướp biển, cướp đảo của Việt Nam, mà
còn làm cho quan hệ Trung-Nhật căng thẳng, thách thức Mỹ trong việc thay đổi
nguyên trạng ở Biển Đông. Chính vì thế, Trung Quốc hết sức lo ngại khi Việt Nam
sẽ ngả hẳn về phía Mỹ.
Một mặt khác, thực tế tình hình cho thấy, nếu thỏa hiệp và
nhượng bộ những toan tính của Trung Quốc ở Việt Nam để mong giữ được ổn định,
nhằm dồn sức cho những mục tiêu chiến lược dài hạn khác của Mỹ, thì sẽ phải trả
giá đắt. Tình hình Việt Nam sau chuyến đi của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đến
Mỹ và cuộc diện kiến của Tổng bí thư với Ngài Tổng thống tại Phòng Bầu dục và
tiếp đó là Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã không tốt lên như một số
người lầm tưởng, mà ngược lại. Chúng tôi phải đau đớn và thẳng thắn nói lên
điều đó.
Không cần phải có cuộc điều tra nghiên cứu công phu, chỉ bằng sự
chứng kiến và miêu tả lại của các phóng viên và khách du lịch nước ngoài đến Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh mấy tháng qua cho thấy tình hình đã xấu đi nhiều,
niềm tin của người dân ngày càng giảm sút, thiên tai và nhân họa đang đẩy xã
hội Việt Nam vào những biến động mới rất đáng lo ngại. Chúng tôi biết rõ điều
này khiến Bắc Kinh rất hài lòng, vì Việt Nam càng yếu, càng mất ổn định thì sự
lệ thuộc về kinh tế, về chính trị vào Trung Quốc càng thắt chặt hơn, những toan
tính thâm độc của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán muôn thuở càng có điều kiện
thực hiện hơn. Dân tộc Việt Nam chúng tôi hiểu rõ hơn ai hết tham vọng này của
Bắc Kinh.
Là những trí thức có sự hiểu biết về tình hình trong nước và
quốc tế, sống trong nỗi đau của người dân trước thảm họa của môi trường đang uy
hiếp nghiêm trọng đời sống, công ăn, việc làm của mọi tầng lớp nhân dân, nhất
là mấy chục triệu dân nghèo đang khốn đốn cần phải được cứu trợ khẩn cấp cũng
như cần những giải pháp lâu dài để cải thiện đời sống cho hơn 90 triệu dân,
chúng tôi hiểu rõ cần phải có một chuyển biến mang tính đột phá. Chuyến đi của
Ngài Tổng thống đến Việt Nam là một cơ hội vàng để những nhà cầm quyền có trách
nhiệm thực hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân tìm thấy những chuyển biến
mang tính đột phá ấy để đưa đất nước vượt qua những thách thức hiểm nghèo mà
bứt lên. Chúng tôi đặt nhiều hy vọng vào Ngài Tổng thống.
Về phần chúng tôi, những trí thức từng đọc và tìm hiểu về những
hoạt động của Ngài Tổng thống, chúng tôi hiểu rằng hai nhiệm kỳ Tổng Thống của
Ngài diễn ra trong một bối cảnh thế giới nhiều biến động và quá nhiều những
thách đố. Ngài đã vượt qua những thách đố đó một cách ngoạn mục nhờ vào bản
lĩnh, trí tuệ và phẩm chất mạnh mẽ của một người hành động vì mục tiêu cao cả.
Chính vì thế, chúng tôi kỳ vọng về chuyến đi của Ngài đến Việt Nam lần này.
Khẩu hiệu tranh cử của Ngài “Change
– Yes, we can” cũng đã trở thành phương châm hành động chúng tôi
trong cuộc đấu tranh cho tự do và dân chủ mà chúng tôi đang dấn bước. Chúng tôi
cám ơn Ngài Tổng thống đã tiếp thêm nghị lực cho chúng tôi và mong mỏi Ngài sẽ
thổi một nguồn sinh khí mới vào đất nước chúng tôi từ cuộc viếng thăm của Ngài.
Chào mừng Ngài Tổng thống đến Việt Nam và kính chúc sức khỏe.
Danh sách những người ký tên:
- Hồ An, nhà văn,
nhà báo
- Bùi Tiến An, cựu
tù Côn Đảo
- Vũ Thị Phương
Anh, giảng viên về hưu
- Huỳnh Kim Báu,
nguyên Tổng Thư ký Hội Trí thức yêu nước TPHCM
- Huỳnh Ngọc Chênh,
nhà báo
- Tống Văn Công,
nguyên Tổng Biên tập báo Lao động
- Nguyễn Đình Đầu,
nhà nghiên cứu
- Huỳnh Tấn Mẫm,
nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, nguyên Tổng Biên tập báo Thanh
niên, hiện là Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc TPHCM
- Hoàng Dũng, Phó
Giáo sư, Tiến sĩ, giảng viên Đại học
- Lê Công Giàu,
nguyên Phó Bí thư thường trực Thành đoàn TPHCM
- Nguyễn Văn Hạnh,
Giáo sư, nguyên Phó trưởng Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục
- Mai Hiền, nhà
báo, nguyên Tổng Biên tập báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh
- Ngô Kim Hoa
(Sương Quỳnh), nhà báo tự do
- Lại Thị Ánh Hồng,
nghệ sĩ
- Hà Thúc
Huy, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, giảng viên Đại học
- Hoàng Hưng, nhà
thơ
- Tuấn Khanh, nhạc
sĩ
- Lê Phú Khải, nhà
báo, nguyên phóng viên thường trú Đài Tiếng nói Việt Nam tại đồng bằng
sông Cửu Long
- Nguyễn Sỹ Kiệt,
Tiến sĩ, nguyên cán bộ Tổng Công ty Dầu khí
- Tương Lai, nguyên
Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam
- Nguyễn Văn Ly,
nguyên thư ký của ông Mai Chí Thọ Chủ tịch UBNDTPHCM
- Huỳnh Công Minh,
linh mục
- Kha Lương Ngãi,
nguyên Phó Tổng Biên tập báo Sài Gòn Giải phóng
- Hạ Đình Nguyên,
cựu tù Côn Đảo
- Nguyễn Minh
Nguyệt, nguyên giảng viên Khoa Sinh vật, Đại học Tổng hợp Hà Nội
- Phan Đắc Lữ, nhà
thơ
- Ý Nhi, nhà thơ nữ
- Hồ Ngọc Nhuận,
nhà báo
- Phan Thị Hoàng
Oanh, Tiến sĩ, giảng viên Đại học
- Huỳnh Sơn Phước,
nhà báo, nguyên Phó Tổng Biên tập báo Tuổi trẻ
- Trần Minh Quốc,
nhà giáo nghỉ hưu
- Tô Lê Sơn, kỹ sư
- Thiều Thị Tạo,
cựu tù Côn Đảo
- Thiều Thị Tân,
cựu tù Côn Đảo
- Trần Công
Thạch, nhà giáo về hưu
- Nguyễn Quốc Thái,
nhà báo
- Lê Thân, cựu tù
Côn Đảo
- Võ Văn Thôn,
nguyên Giám đốc Sở Tư pháp TPHCM
- Đào Công Tiến,
nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Kinh tế TPHCM
- Hà Quang Vinh,
Cao học Luật, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân quận Bình Thạnh, TPHCM
- Phạm Viết Đào-blogger
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét