Thứ Năm, 8 tháng 12, 2016

Cuba nghèo vì Fidel Castro hay vì Mỹ?

Posted on  by The Observer

Print Friendly
fidel-castro-cuba
Nguồn: Helen Yaffe, “Cuba is poor, but who is to blame – Castro or 50 years of US blockade?”, The Conversation, 02/12/2016.
Biên dịch: Huỳnh Ngọc Dũng
Cùng với những mô tả về ông như một “nhà độc tài tàn bạo”, các phản ánh tiêu cực về Fidel Castro từ ngày ông qua đời 25/11 chủ yếu tập trung vào việc “quản lý yếu kém” của ông đối với nền kinh tế Cuba và hậu quả “cực nghèo” mà người dân Cuba phải gánh chịu.
Đây là một bức tranh biếm họa mơ hồ- không chỉ vì nó bỏ qua các tác động có sức tàn phá kinh tế của lệnh cấm vận của Hoa Kỳ trong hơn 55 năm, mà còn vì nó dựa trên những giả định kinh tế học tân cổ điển. Nghĩa là bằng cách nhấn mạnh chính sách kinh tế (của Castro) thay vì những hạn chế về kinh tế (mà lệnh cấm vận của Mỹ gây ra), các nhà phê bình có thể đẩy trách nhiệm về hậu quả nghèo đói của Cuba cho Castro mà không đề cập đến việc chính quyền Mỹ đã liên tiếp áp đặt lệnh cấm vận đến nghẹt thở.
Cách tiếp cận trên cũng bỏ qua những câu hỏi quan trọng dành cho Cuba sau cuộc cách mạng: Những nước có mức thu nhập trung bình và thu nhập thấp có thể nhận nguồn vốn ở đâu để đầu tư vào cơ sở hạ tầng và cung cấp phúc lợi? Làm thế nào có thể thu được vốn nước ngoài mà không bị các điều kiện cản trở phát triển, và làm thế nào một đất nước chậm phát triển như Cuba có thể sử dụng thương mại quốc tế để tạo ra thặng dư trong một nền kinh tế toàn cầu mà nhiều người cho rằng đang có xu hướng “bất bình đẳng trong thương mại” ?
Việc tìm kiếm các giải pháp cho thách thức về phát triển đã dẫn chính quyền cách mạng Cuba đi theo hệ thống xã hội chủ nghĩa. Họ đã thực hiện một nền kinh tế kế hoạch, trong đó sở hữu nhà nước chiếm ưu thế vì họ xem hệ thống này là giải pháp tốt nhất cho các thách thức lịch sử trên.
Nhưng hoạt động trong khuôn khổ xã hội chủ nghĩa đã dẫn đến những hạn chế và rắc rối khác, đặc biệt là trong bối cảnh của một thế giới lưỡng cực. Cuốn sách của tôi: “Che Guevara: Khía cạnh kinh tế của cách mạng” nghiên cứu về các mâu thuẫn và thách thức đối với chính quyền cách mạng non trẻ nhìn từ góc độ vai trò của Guevara khi là chủ tịch Ngân hàng Quốc gia và Bộ trưởng Công nghiệp.
Các tài liệu về Cuba bị chi phối bởi “Cubanology”, một trường phái đối lập về chính trị và tư tưởng với Cuba xã hội chủ nghĩa. Sự xuất hiện và liên quan tới chính phủ Mỹ của nó cũng được chứng tỏ bằng tư liệu. Nó lập luận rằng cuộc cách mạng đã thay đổi mọi thứ ở Cuba – và Fidel (và sau đó là Raul) Castro đã một mình chi phối các chính sách trong nước và chính sách đối ngoại kể từ sau cách mạng, qua đó ngăn chặn dân chủ và trấn áp xã hội dân sự. Sự quản lý kinh tế yếu kém của họ đã làm tăng trưởng đạt được không đáng kể từ năm 1959. Họ chỉ đơn giản thay thế sự phụ thuộc vào Mỹ bằng sự phụ thuộc vào Liên Xô cho đến khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1990.
Những lý luận này cũng đã định hình các nội dung chính trị và truyền thông về Cuba. Nhưng vấn đề của cách phân tích này là nó cản trở khả năng của chúng ta trong việc nhìn thấy rõ những gì diễn ra ở Cuba, hay cản trở khả năng phân tích sức mạnh của cuộc cách mạng và sức sống của xã hội Cuba.
Castro đã thừa hưởng những gì?
Những lập luận về sự thành công hay thất bại của nền kinh tế sau năm 1959 thường dừng lại ở thực trạng của nền kinh tế Cuba trong những năm 1950. Chính phủ sau năm 1959 được thừa hưởng một nền kinh tế có sản phẩm đường làm chủ đạo với những vết sẹo sâu về chủng tộc và kinh tế-xã hội do chế độ nô lệ để lại. Jaime Suchlicki, người theo trường phái Cubanology, lập luận rằng Cuba của Batista đã từng “ở giai đoạn cất cánh như Walter Rostow mô tả”, trong khi Fred Judson chỉ ra những yếu kém về cơ cấu trong nền kinh tế Cuba: “khủng hoảng kéo dài đã tạo nét đặc trưng cho nền kinh tế: thịnh vượng bề ngoài và nhất thời”. Vì vậy, trong khi một bên khẳng định cuộc cách mạng đã làm gián đoạn sự tăng trưởng tư bản mạnh mẽ, thì bên còn lại tin rằng cuộc cách mạng là điều kiện tiên quyết để giải quyết những mâu thuẫn cản trở phát triển bằng cách chấm dứt sự phụ thuộc của Cuba vào chủ nghĩa tư bản Hoa Kỳ.
Sau cuộc cách mạng, Castro đã nỗ lực mang đến phúc lợi xã hội và cải cách ruộng đất cho nhân dân Cuba và tịch thu tài sản phi nghĩa của tầng lớp thượng lưu Cuba. Nhưng khi bên thua cuộc Fulgencio Batista và đồng bọn trốn khỏi Cuba, họ đã lấy cắp hàng triệu peso từ Ngân hàng Quốc gia và Kho bạc. Đất nước bị bòn rút, làm hạn chế nghiêm trọng khả năng chi tiêu công và đầu tư tư nhân. Người Cuba giàu có thì rời đảo, mang theo các khoản tiền và thuế. Chính phủ mới sẽ làm thế nào để thực hiện những cải cách kinh tế-xã hội đầy tham vọng khi không có các nguồn lực tài chính?
Chúng ta phải nhìn vào thực tế tại mỗi thời điểm. Ví dụ khi lệnh cấm vận đầu tiên của Mỹ được thực hiện, thì lúc đó 95% tư liệu sản xuất của Cuba và toàn bộ các linh kiện được nhập khẩu từ Mỹ – và Mỹ là nước nhận xuất khẩu chính yếu của Cuba. Khi khối Xô-viết tan rã, Cuba bị mất 85% lượng thương mại và đầu tư, dẫn đến GDP giảm mạnh 35%. Các sự kiện này đã gây nên các khó khăn kinh tế nghiêm trọng đối với khả năng xoay sở của Cuba.
Đằng sau sự nghèo đói
Tiếp đến, ta cũng nên tự hỏi: Chúng ta đo lường mức nghèo của Cuba như thế nào? Bằng GDP bình quân đầu người? Thu nhập hằng ngày? Có nên sử dụng những thước đo kinh tế tư bản chủ nghĩa, các thống kê tăng trưởng và năng suất để đo sự “thành công” hoặc “thất bại”, trong khi ít chú ý đến các ưu tiên về xã hội và chính trị?
Dù xếp Cuba vào nhóm có GDP bình quân đầu người thấp nhưng Chỉ số phát triển con người (HDI) đã liệt kê Cuba trong danh sách có “chỉ số phát triển con người cao”; Cuba không chỉ xuất sắc về y tế và giáo dục, mà còn về sự tham gia của phụ nữ và hòa nhập chính trị. Cuba đã loại bỏ được nạn suy dinh dưỡng ở trẻ em. Không có trẻ em ngủ trên đường phố. Thực ra là không có cả người vô gia cư. Ngay cả trong những năm 1990 nạn đói hoành hành do khủng hoảng kinh tế, người dân Cuba không chết đói. Cuba vẫn duy trì nền kinh tế kế hoạch và điều này giúp người Cuba phân phối đồng đều các nguồn lực khan hiếm.
Vâng, tiền lương cực kỳ thấp (cả Fidel và Raul cũng than thở) – nhưng mức lương của người dân Cuba không quyết định tiêu chuẩn sống của họ. Khoảng 85% người dân Cuba có nhà riêng và tiền thuê nhà không vượt quá 4% thu nhập. Nhà nước cung cấp một giỏ thức ăn rất cơ bản  trong khi các hóa đơn điện nước, chi phí đi lại và thuốc men được giữ ở mức thấp. Các nhà hát, rạp chiếu phim, những vở ba lê,v.v… có giá đều rất rẻ cho tất cả mọi người. Giáo dục chất lượng cao miễn phí và chăm sóc y tế miễn phí. Những điều này là một phần của cải vật chất của Cuba không nên bị bỏ qua khi ta đánh giá, chứ không phải tiêu dùng cá nhân các hàng tiêu dùng là thước đo duy nhất của sự thành công về kinh tế.
Chương trình Operation Miracle 
Những thách thức cụ thể và thực tế mà quá trình phát triển của Cuba phải đối mặt đã tạo ra những mâu thuẫn hiếm thấy. Trong một nền kinh tế kế hoạch, với ngân sách cực kỳ chặt chẽ, họ đã phải lựa chọn ưu tiên: cơ sở hạ tầng thì đổ nát nhưng họ lại có các chỉ số phát triển con người hàng đầu thế giới. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh thể hiện rất nhiều về tiêu chuẩn sống, và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố kinh tế, xã hội và y tế. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh của Cuba là 4,5 trên 1.000 ca sinh sống, đã đưa Cuba vào cùng danh sách với những nước hàng đầu thế giới, hơn cả Mỹ trong bảng xếp hạng riêng của CIA.
Không chỉ người Cuba trong nước mới được hưởng những sự đầu tư này. Hàng chục nghìn bác sĩ, các nhà giáo dục và các cán bộ hỗ trợ phát triển người Cuba đã đi phục vụ trên toàn thế giới. Hiện nay khoảng 37.000 bác sĩ và y tá Cuba đang làm việc tại 77 quốc gia. Họ tạo ra luồng trao đổi ngoại tệ trị giá khoảng 8 tỷ đô la Mỹ mỗi năm.
Ngoài ra, Cuba chữa trị và đào tạo y tế miễn phí cho hàng ngàn người nước ngoài mỗi năm. Là một sáng kiến trực tiếp của Fidel, vào năm 1999 Trường Y Mỹ Latinh đã được khánh thành tại Havana để cung cấp chương trình đào tạo 6 năm miễn phí cho sinh viên nước ngoài từ các nước nghèo, chỗ ở hoàn toàn miễn phí. Năm 2004, Cuba đã hợp tác với Venezuela phẫu thuật mắt miễn phí cho người dân ở nhiều nước thuộc Chương trình Operation Miracle (Chiến dịch Phẫu thuật Điều diệu kỳ). Trong mười năm đầu tiên hơn 3 triệu người đã tìm lại được ánh sáng.
Mỹ thậm chí cấm vận buôn bán thuốc đối với Cuba nhưng lệnh cấm vận đã khiến Castro ưu tiên đầu tư vào y học. Cuba hiện đang sở hữu khoảng 900 bằng sáng chế, bán dược phẩm và vắc xin tại 40 quốc gia, đem lại doanh thu 300 triệu đô la mỗi năm, với tiềm năng mở rộng rất lớn. Ngành dược của Cuba sản xuất hơn 70% các loại thuốc cho 11 triệu dân Cuba sử dụng. Toàn bộ ngành công nghiệp dược thuộc sở hữu nhà nước, các chương trình nghiên cứu đáp ứng nhu cầu của người dân, và tất cả thặng dư được tái đầu tư vào lĩnh vực này. Nếu không có kế hoạch nhà nước và đầu tư công không chắc điều này có thể đạt được tại một nước nghèo.
Vào giữa những năm 1980 Cuba phát triển vắc-xin viêm màng não B đầu tiên trên thế giới. Ngày nay, Cuba dẫn đầu trong các loại thuốc trị ung thư. Trong năm 2012 Cuba cấp bằng sáng chế vắc-xin điều trị ung thư đầu tiên. Lệnh cấm vận của Mỹ đã buộc Cuba phải tìm mua các loại thuốc, thiết bị y tế và các sản phẩm X quang từ các nguồn bên ngoài nước Mỹ, khiến phát sinh thêm chi phí vận chuyển.
Nền kinh tế chia sẻ
Năm 2009 Tổng thống Rafael Correa của Ecuador đã bảo tôi:
“Một tấm gương tuyệt vời từ Cuba đó là trong nghèo đói, Cuba đã biết cách chia sẻ, thông qua tất cả các chương trình quốc tế của mình. Cuba là quốc gia có sự hợp tác vĩ đại nhất nếu so với tổng sản phẩm nội địa, và đây là một tấm gương cho tất cả chúng ta. Điều này không có nghĩa rằng Cuba không có vấn đề lớn, nhưng chắc chắn là không thể đánh giá sự thành công hay thất bại của mô hình Cuba nếu không xét đến sự phong tỏa của Mỹ, một cuộc phong tỏa đã kéo dài 50 năm. Ecuador sẽ không thể tồn tại được 5 tháng với sự phong tỏa đó.”
Về lệnh cấm vận: chính phủ Cuba ước tính lệnh cấm vận đã làm cho đảo quốc tổn thất 753,69 tỷ đô la Mỹ. Báo cáo hàng năm của Cuba gửi cho Liên Hiệp Quốc thể hiện chi tiết tính toán này. Đây là con số rất lớn đối với một nước có GDP bình quân giai đoạn 1970 – 2014 là 31,7 tỷ đô la Mỹ.
Vâng, Castro có vai trò chính yếu đối với những sai lầm và thiếu sót trong nền kinh tế kế hoạch của Cuba. Vâng, hoàn toàn có quan liêu, năng suất thấp, khủng hoảng thanh khoản, nợ nần và nhiều vấn đề khác – nhưng nước nào không có? Castro đã chỉ ra những yếu kém này trong các bài phát biểu của mình trước nhân dân Cuba. Nhưng Tổng thống Correa đã đúng – để đánh giá một cách khách quan di sản của Castro, sự phát triển của Cuba và những cải cách ngày nay, chúng ta không thể vờ như sự phong tỏa của Mỹ (hiện nay vẫn còn dù đã có xích lại gần nhau) là không có tác động đến cơ cấu của nền kinh tế Cuba.
Castro đã chứng kiến gần 11 đời tổng thống Mỹ kể từ năm 1959, nhưng ông không bao giờ sống đủ lâu để để nhìn thấy sự kết thúc lệnh cấm vận của Mỹ. Với những cải cách kinh tế đang được tiến hành và với việc phục hồi quan hệ với Hoa Kỳ, Cuba phải đối mặt với những thách thức mới. Tuần tới, tôi sẽ bắt đầu một nghiên cứu mới ở Cuba để đánh giá sự dẻo dai của cuộc cách mạng trong giai đoạn hậu Castro và thời đại Donald Trump này.
Helen Yaffe là Nghiên cứu viên ngành lịch sử kinh tế, Trường Kinh tế và Khoa học chính trị London.
Xem thêm:
 9 

  0  0  5
- See more at: http://nghiencuuquocte.org/2016/12/08/cuba-ngheo-vi-castro-hay-vi-my/#sthash.MvbrZ1Ye.dpuf - See more at: http://nghiencuuquocte.org/2016/12/08/cuba-ngheo-vi-castro-hay-vi-my/#sthash.MvbrZ1Ye.dpuf

Ban Tổ chức TW, Bộ Nội vụ, Bộ Công thương, Tỉnh ủy Hậu Giang đã “xô” Thủ tướng ra xếp thêm 1 ghế Phó chủ tịch tỉnh cho Trịnh Xuân Thanh ? ( bài 4)

Phạm Viết Đào.
Kết quả hình ảnh cho trịnh xuân thanh
Theo VTC New:” Ngày 4/4/2013, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hậu Giang có văn bản số 538-CV/TU gửi Thủ tướng đề nghị bổ sung 1 Phó chủ tịch tỉnh nhiệm kỳ 2011-2016. Trả lời của Thủ tướng Chính phủ là: Giữ nguyên số lượng Phó chủ tịch tỉnh theo quy định chung.
6 tháng sau, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hậu Giang tiếp tục có văn bản số 766-CV/TU gửi Bộ Công thương đề nghị cho bổ sung 1 Phó chủ tịch tỉnh. Tỉnh xin bổ sung ông Trịnh Xuân Thanh, Phó chánh văn phòng Bộ Công thương về công tác, bố trí giữ chức Phó chủ tịch tỉnh phụ trách công nghiệp.
Căn cứ văn bản số 1159-CV ngày 1/4/2015 của Tỉnh ủy Hậu Giang đề nghị cho ông Trịnh Xuân Thanh về nhận công tác, Bộ Công thương đã có quyết định số 3754/QD-BCT ngày 20/4/2015 thuyên chuyển công tác đối với ông Trịnh Xuân Thanh về tỉnh Hậu Giang.
Ngày 24/4/2015, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hậu Giang có quyết định tiếp nhận ông Trịnh Xuân Thanh, Vụ trưởng, Chánh văn phòng Ban Cán sự đảng Bộ Công thương về công tác tại tỉnh, nhận nhiệm vụ tại Văn phòng UBND tỉnh.
Chỉ 19 ngày sau, tức ngày 13/5, HĐND tỉnh đã bầu ông Thanh khi ấy đang công tác tại Văn phòng UBND tỉnh Hậu Giang giữ chức Phó chủ tịch tỉnh nhiệm kỳ 2011-2016.
Cùng ngày hôm đó, Bộ Nội vụ đã có tờ trình gửi Thủ tướng xem xét phê chuẩn bầu ông Thanh do Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Duy Thăng ký.
Trong văn bản này, sau khi thẩm định, Bộ Nội vụ khẳng định đề nghị của UBND tỉnh Hậu Giang và thủ tục bầu bổ sung chức vụ Phó chủ tịch UBND tỉnh của HĐND tỉnh “là đúng quy định”.
Trong khi, tại thông báo Kết luận tháng 10/2013, Bộ Chính trị đồng ý tiếp tục thực hiện chủ trương tăng thêm chức danh phó chủ tịch UBND ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ, nhưng quy định và quán triệt: đối tượng lựa chọn tăng thêm phải là cán bộ đương chức (phó trưởng ban đảng, thứ trưởng) hoặc trong quy hoạch cán bộ chủ chốt.
Ông Trịnh Xuân Thanh không nằm trong diện này.
Thêm nữa, như trên đã nói, vào tháng 7/2013, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến giữ nguyên số lượng Phó chủ tịch UBND tỉnh, thành phố, sau khi xét đề nghị của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong đó có tỉnh Hậu Giang…”
www.vtc.vn/ong-trinh-xuan-thanh-ve-hau-giang-con-voi-chui-lot-lo-ki...)
Qua thông tin mà VTV New đã đưa thì việc luân chuyển Trịnh Xuân Thanh về Hậu Giang đã đi bằng con đường “tiểu ngạch” đi chui vì về kết luận 10/2013 của Bộ Chính trị, Trịnh Xuân Thanh không nằm trong diện luân chuyển… Còn Thủ tướng Chính phủ:
“Trả lời công văn 538-CV/TU gửi Thủ tướng đề nghị bổ sung 1 Phó chủ tịch tỉnh nhiệm kỳ 2011-2016 của Thủ tướng Chính phủ là: Giữ nguyên số lượng Phó chủ tịch tỉnh theo quy định chung…”
Thế mà Tờ trình số 2036/TTr-BNV ngày 13/5/2015 của Bộ Nội vụ gửi Thủ tướng báo cáo về việc “ Phê chuẩn việc bầu bổ sung chức vụ PCTUBND tỉnh Hậu Giang nhiệm kỳ 2011-2016 lại viết:” Sau khi thẩm định, Bộ Nội vụ nhận thấy đề nghị của UBND tỉnh Hậu Giang và thủ tục bầu bổ sung chức vụ Phó Chủ tịch UBND tỉnh của HĐND tỉnh Hậu Giang là đúng quy định… ?? ?
Trịnh Xuân Thanh, Phó chủ tịch tỉnh Hậu Giang Trịnh Xuân Thanh, Bộ Nội vụ, Phó chủ tịch đi Lexus biển xanh
Qua tờ trình số 2036/TTr-BNV ngày 13/5/2015 của Bộ Nội vụ đã hé lộ các “cửa hậu, cửa ngách” bất hợp pháp mà Trịnh Xuân Thanh đã chui qua. Xin nêu một vài dữ liệu:
Cửa phụ 1:
-Mặc dù tỉnh ủy Hậu Giang đã nhận được ý kiến chính thức của Thủ tướng không đồng ý tăng thêm 1 Phó Chủ tịch nhưng “6 tháng sau, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Hậu Giang tiếp tục có văn bản số 766-CV/TU gửi Bộ Công thương đề nghị cho bổ sung 1 Phó chủ tịch tỉnh. Tỉnh xin bổ sung ông Trịnh Xuân Thanh…”
“ Cửa phụ 1”  này do tỉnh ủy Hậu Giang mớ khóa ?
Cửa phụ 2:
-VTC New viết:” Trong khi, tại thông báo Kết luận tháng 10/2013, Bộ Chính trị đồng ý tiếp tục thực hiện chủ trương tăng thêm chức danh phó chủ tịch UBND ở một số tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ, nhưng quy định và quán triệt: đối tượng lựa chọn tăng thêm phải là cán bộ đương chức (phó trưởng ban đảng, thứ trưởng) hoặc trong quy hoạch cán bộ chủ chốt.
Ông Trịnh Xuân Thanh không nằm trong diện này…”
Thế mà Ban Tổ chức TW đã ký công văn số 6149 CV/BTCTW ngày 20/1/2014 chấp nhận  tăng thêm chức danh PCTUBND tỉnh Hậu Giang nhiệm kỳ 2011-2016 ?
Cửa phụ 2” này do Ban tổ chức TW mở khóa
Cửa phụ 3:
“Tỉnh ủy Hậu Giang đã ra Quyết định số 4461 a-QĐ/TU ngày 24/4/2015 tiếp nhận ông Trịnh Xuân Thanh về công tác tại tỉnh Hậu Giang, nhận nhiệm vụ tai Văn phòng UBND tỉnh…”
Về nguyên tắc theo Điều lệ Đảng quy định; cơ quan Đảng lãnh đạo cơ quan nhà nước bằng chủ trương, đường lối chính sách chứ không bao biện làm thay. Việc điều động Trịnh Xuân Thanh về Hậu Giang phải do Bộ trưởng Bộ Công thương ra quyết định điều động căn cứ theo đề nghị xin cán bộ của Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang…
Việc tỉnh ủy lại ký quyết định số 4461 chấp nhận Trịnh Xuân Thanh về công tác tại Văn phòng UBND tỉnh là vi phạm luật pháp và Điều lệ Đảng; Tỉnh ủy chỉ có quyền tiếp nhận cán bộ cho bộ máy tỉnh ủy đề chủ trương tiếp nhận chứ không được quyền ra quyết định tiếp nhận cán bộ cho bộ máy UBND tỉnh ?
Việc vi phạm, đá lộn sân và vượt quyền rõ ràng như vậy mà Tờ trình của Bộ Nội vụ là viết một cách ráo hoảng:”Sau khi thẩm định, Bộ Nội vụ nhận thấy đề nghị của UBND tỉnh Hậu Giang và thủ tục bầu bổ sung chức vụ Phó Chủ tịch UBND tỉnh của HĐND tỉnh Hậu Giang là đúng quy định…
Vậy đúng quy định nào, của ai ?
Dấu vết của việc chui, chen ngang của Trịnh Xuân Thanh để lại dấu vết ngay cả trong tờ trình của Bộ Nội vụ ở Quyết định 4461 a-QĐ/TU ngày 24/4/2015”
Như vậy trong ngày 24/4/2015 tỉnh ủy Hậu Giang đã ký 2 quyết định số 4461, quyết định tiếp nhận Trịnh Xuân Thanh là 4461 a, có nghĩa sẽ còn có quyết định 4461 b có nội dung khác. 
Thao tác này lòi đuôi chen ngang vì nếu không chen ngang sao lại có 2 số a và b ?
“ Cửa phụ 3” này cũng do tỉnh ủy Hậu Giang mở…
Về trình tự và thủ tục pháp lý thì sau khi UBND và Hội đồng nhân dân tỉnh Hậu Giang trình báo cáo lên Thủ tướng về kết quả bầu Phó Chủ tịch đối với Trịnh Xuân Thanh, Bộ Nội vụ có Tờ trình thẩm định báo cáo Thủ tướng; Thủ tướng phải ban hành một Quyết định phê chuẩn bổ sung ông Trịnh Xuân Thanh làm Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang nhiệm kỳ 2011-2016 thì lúc đó Trịnh Xuân Thanh mới được chính danh và sử dụng chính danh này để làm việc trên cương vị, chức danh Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang…

Một số vấn đề liên quan và hệ lụy tới tới trách nhiệm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là người trong thường vụ Bộ Chính trị biết rõ Trịnh Xuân Thanh không nằm trong diện được Bộ Chính trị quy hoạch, luân chuyển và đề bạt vào chức danh Phó Chủ tịch tỉnh…
Bản thân Thủ tướng đã trả lời UBND tỉnh Hậu Giang không đồng ý bổ sung thêm một Phó Chủ tịch tỉnh cho tỉnh này và giữ nguyên hiện trạng cán bộ…
Mặt khác là người đứng đầu Chính phủ, trực tiếp quản lý và chỉ đạo công tác thanh tra của Thanh tra Chính phủ, Thủ tướng phải biết rõ năng lực, phẩm chất của Trịnh Xuân Thanh cũng như những gì Thanh gây ra ở PVC…
Do vậy, chắc chắn Thủ tướng đã không ký quyết định phê chuẩn chức danh Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang đối với Trịnh Xuân Thanh; Do không có quyết định phê chuẩn của Thủ tướng nên chức danh Phó Chủ tịch tỉnh của Trịnh Xuân Thanh là bất hợp pháp, là chiếm dụng…
Còn nếu Thủ tướng đã ban hành quyết định phê chuẩn chức danh Pho Chủ tịch tỉnh Hậu Giang đối với Trịnh Xuân Thanh thì Thủ tướng đã vi phạm Nghị quyết của Bộ Chính trị; Làm trái quyết định của Bộ Chính trị?!
Cửa phụ thứ 4:
Do việc Trịnh Xuân Thanh chiếm dụng bất hợp pháp chức danh Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang nên việc đưa Thanh ra ứng cử đại biểu Quốc hội với “ chức danh” Phó Chủ tịch cũng lại là một hành vi bất hợp pháp của tỉnh ủy, UBND, Ban Bầu cử quốc hội tỉnh Hậu Giang và Trịnh Xuân Thanh ?!
Ai, cơ quan nào có đủ tư cách pháp nhân trong việc luân chuyển, bổ nhiệm Trịnh Xuân Thanh vào chiếc ghế Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang ?
Trong việc luân chuyển và quyết định việc bổ nhiệm chức danh Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang chỉ có chữ ký có đủ tư cách pháp nhân, được công nhận về mặt luật pháp để xác nhận việc này đó là chữ ký của BT Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng, chữ ký của các quan chức của Bộ Nội vụ, chữ ký của Thủ tướng và chữ ký của Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang!
Chữ ký của BT Vũ Huy Hoàng có hiệu lực pháp lý và chịu trách nhiệm trước pháp luật trong Quyết định điều động Trịnh Xuân Thanh luân chuyển về UBND tỉnh Hậu Giang; Còn chữ ký của Thủ tướng có hiệu lực pháp lý được pháp luật thừa nhận trong việc cho phép hay không cho phép UBND tỉnh Hậu Giang được bầu thêm 1 Phó Chủ tịch tỉnh Hậu Giang và ban hành Quyết định phê chuẩn Trịnh Xuân Thanh đảm nhận chức vụ Phó chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang…
Thủ tướng là người duy nhất có thẩm quyền này. 
Những điều này đã được quy định tại: Điều 96, 98 ( chương VII) của Hiến pháp 2013 quy định về Chính phủ; Điều 23, 28 của Luật Tổ chức Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và Thủ tướng…

Hiệu lực pháp lý của BT Vũ Huy Hoàng được quy định tại Nghị định số 95/2012/NĐ-CP của Chính phủ Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương…

Hiệu lực pháp lý của các quan chức Bộ Nội vụ được quy định tại  Nghị định số 61/2012/NĐ-CP của Chính phủ : Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ

Còn các chữ ký của các quan chức ở Ban Tổ chức TW, tỉnh ủy Hậu Giang chỉ có giá trị “ đảng lý”, điều chỉnh quan hệ nội bộ Đảng, không có giá trị pháp lý, không được pháp luật thừa nhận không phải chịu trách nhiệm trước pháp luật…

Do đó Tờ trình của Bộ Nội vụ báo cáo Thủ tướng cho rằng: “Hậu Giang đã ban hành quyết định tiếp nhận và bổ nhiệm chức danh Phó Chủ tịch tỉnh đúng quy định pháp luật" là một tờ trình láo toét !”

Để “vạch mặt chỉ tên” các sai phạm những vi phạm của 4 cơ quan nêu trên để xử lý: Ban Tổ chức TW, Bộ Nội vụ, Bộ Công thương và tỉnh ủy Hậu Giang thì phải phân định thành 2 khu vực, 2 kênh khác nhau:

- Xử lý quan chức Tỉnh ủy Hậu Giang và Ban Tổ chức TW thì xử lý theo kênh Đảng, tức xử theo Điều lệ Đảng và các quy định của Đảng;

- Xử lý BT Bộ Công thương và BT Bộ Nội vụ, Chủ tịch UBND tỉnh Hậu Giang, Trưởng Ban bầu cử Quốc hội tỉnh Hậu Giang thì phải xử lý theo pháp luật trong đó có Luật Hình sự, Luật Tổ chức Chính phủ và Hiến pháp 2013 và Luật bầu cử Quốc hội…

Chuyện này sẽ bàn tiếp ở bài sau…

P.V.Đ.
( Còn nữa…)


Bài liên quan của P.V.Đ:

>


PHỤ LỤC: MỘT SỐ QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP VÀ LUẬT TỔ CHỨC CHÍNH PHỦ VỀ CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ CỦA CHÍNH PHỦ VÀ THỦ TƯỚNG:

Hiến pháp 2013 quy định trong Chương VII: Chính phủ
Điều 96  
5. Thống nhất quản lý nền hành chính quốc gia; thực hiện quản lý về cán bộ, công chức, viên chức và công vụ trong các cơ quan nhà nước; tổ chức công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo công tác của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp; hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định; 
Điều 98  
3. Trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thứ trưởng, chức vụ tương đương thuộc bộ, cơ quan ngang bộ; phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm và quyết định điều động, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
4. Đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ văn bản của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, đồng thời đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ;
LUẬT
Tổ chức Chính phủ


Chương II
NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA CHÍNH PHỦ

Điều 23. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong quản lý về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, viên chức và công tác thi đua, khen thưởng
1. Thống nhất quản lý nhà nước về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, chế độ công vụ, công chức, viên chức.

3. Quyết định việc thành lập, sáp nhập, giải thể cơ quan thuộc Chính phủ; quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện).
Chương III
NHIỆM VỤ VÀ QUYỀN HẠN CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Điều 28. Nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ


7. Phê chuẩn việc bầu, miễn nhiệm và quyết định điều động, đình chỉ công tác, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Yêu cầu Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đình chỉ công tác, cách chức Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp dưới khi không hoàn thành nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao hoặc vi phạm pháp luật….

Tin đồn đổi tiền ở Việt Nam xuất phát từ đâu?

Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã chính thức bác bỏ tin đồn xuất hiện vào cuối tháng 11, đầu tháng 12 năm  nay về việc cơ quan  này sắp cho đổi tiền.

Tin đồn đổi tiền ở Việt Nam xuất phát từ đâu?

 Tất nhiên, chẳng có mấy người tin vào Ngân hàng nhà nước, bởi cơ quan này đã quá nhiều lần bất nhất về “sáp nhập ngân hàng”, “giảm nợ xấu ngân hàng”, “giảm lãi suất cho vay”…, và còn nhiều dấu hiệu Ngân hàng nhà nước liên quan mật thiết với các nhóm lợi ích ngân hàng, vàng, chứng khoán, bất động sản và ngoại tệ.

Nhưng khách quan mà xét, hiện thời chưa có cơ sở nào đủ thuyết phục để đổi tiền.

Cơ sở cấp bách nhất để tiến hành đổi tiền, là mức độ trượt giá ngoài tầm kiểm soát của đồng nội tệ so với ngoại tệ mạnh. Trong hai đợt đổi tiền năm 1978 và năm 1986, lạm phát ở Việt Nam đều tăng vọt từ 50% đến 700%.

Còn hiện thời, mức lạm phát năm 2016 chỉ khoảng 5% (theo báo cáo của chính quyền). Còn theo ước tính thực tế của một số chuyên gia độc lập cùng các bà nội trợ phải đi chợ hàng ngày, mức trượt giá của đồng Việt Nam có thể lên đến 30% trong năm 2016.

Một yếu tố nữa để có thể giúp đôi chút cho nhiệm vụ “bình ổn tỷ giá” là kho dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã tăng đến 40 tỷ USD. Tuy con số 40 tỷ USD này vẫn chưa hề được Ngân hàng nhà nước công khai về kết cấu của nó (bao nhiêu USD, bao nhiêu vàng, bao nhiêu trái phiếu quốc tế…), song đây là một yếu tố tâm lý mà không làm cho thị trường ngoại tệ quá khan USD.

Tuy thế, có lửa mới có khói. Không loại trừ những thông tin bàn bạc trong nội bộ chính phủ và Ngân hàng nhà nước về kịch bản đổi tiền cho những năm tới đã lộ lọt ra ngoài, rơi vào tầm ngắm của các nhóm đầu cơ.

Một trong những nhóm đầu cơ đang tỏ ra hưng phấn là nhóm đầu cơ vàng và USD.

Trong những ngày qua, giá USD trong ngân hàng và chợ đen bất thần tăng mạnh, được lý giải là “tăng theo thế giới”. Cùng lúc, giá vàng trong nước cũng tăng vọt và chênh với giá vàng thế giới hơn 4 triệu đồng/lượng. Nhưng cứ nhìn vào cái cách ứng xử mập mờ đầy nghi ngờ của Ngân hàng nhà nước, chẳng thiếu gì người nhận ra đợt tăng USD lần này là một cú “đánh lên” của “nhà cái”.

Bối cảnh kinh tế đang suy yếu và suy sụp, các thị trường chứng khoán, bất động sản hầu như tê liệt. Chỉ còn vàng và USD. Nếu không “đánh lên” vàng và USD thì nguyên năm 2016 sẽ chẳng làm ăn được gì.

Tháng 8 năm 2015 cũng có một đợt “đánh lên” USD và vàng, và theo một quy luật nào đó thì mỗi năm cần phải tạo ra một đợt tăng giả tạo.

Rất có thể nhóm đầu cơ vàng và USD đã lợi dụng kịch bản đổi tiền để tung tin đồn đổi tiền, khiến thị trường ngoại tệ xáo động mạnh và làm cho bà con nháo nhào đổ tiền đồng ra để mua USD và vàng.

Lê Dung 

(SBTN)