Thứ Hai, 9 tháng 1, 2017

Đại tá Phạm Xuân Phương, từng đấu súng với Tướng Begeard tại Nậm Rốm-Điện Biên Phủ bàn về quan hệ Việt-Trung

Đại tá Phạm Xuân Phương: ( ĐTPXP) 

Kết quả hình ảnh cho Phạm Viết Đào- Phạm X uân Phương
Đại tá Phạm Xuân Phương  và Tướng Bigeard từng đấu súng với nhau tại cứ điểm Nậm Rốm, ( lúc đó Bigeard đeo lon Trung tá) trong chiến dịch Điện Biên Phủ gặp lại nhau tại Pháp...

Để hình thành nên một chiến lược phòng thủ quốc gia thì trước tiên chúng ta phải xác định cho được: Đối tác tác chiến chiến lược của quân đội Việt Nam trong tương lai là ai? Về cái điểm này đáng tiếc là tôi rất không đủ thông tin nên khó nêu chủ kiến của mình?
Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc nói chung các văn kiện công khai đề cập nhiều rồi… Có một điều tôi chưa rõ là trong tình hình thực tế này, quân đội ta phải xác định sắp tới đối tác tác chiến lược của chúng ta là ai đây để mà bố trí thế trận phòng thủ chiến lược?
Hiện nay chúng tôi đã về hưu, điều này anh phải hỏi các vị đương nhiệm cấp quân khu, quân đoàn xem họ được phổ biến như thế nào? Nếu họ được phổ biến là A chứ không phải là B thì tôi chịu không thể đưa ra phương án của mình, sơ đồ tác chiến phòng thủ chiến lược, chiến thuật của mình…
Tất nhiên đây là vấn đề bí mật quốc phòng lớn, bí mật quốc gia nhưng ít ra những người lãnh đạo quân đội cao cấp cũng phải có khái niệm như thế nào đây về vấn đề này ? Điều này tôi chưa thể trả lời anh được.
Theo tôi, muốn xây dựng được chiến lược phòng thủ tốt thì trước tiên chúng ta phải tổng kết thật tốt, đánh giá thật tốt những cuộc chiến tranh vừa qua, có như thế chúng ta mới chuẩn bị sẵn sàng cho các cuộc chiến trong tương lai nếu xảy ra…
Đại tá Phạm Xuân Phương ngồi ngoài góc trái bên cạnh Đại Tá Nguyễn Đăng Quang, Đại tá Bùi Văn Bồng...

NVPVĐ: Đối với một nền quốc phòng thì vấn đề xác định chiến lược phòng thủ là vấn đề lớn vì nó không chỉ đơn giản để giải quyết vấn đề trang bị vũ khí, khí tài mà cả về vấn đề tư tưởng, tâm lý về tinh thần cảnh giác; Có xác định được đối tác tác chiến chiến lược trong tương lai thì chúng ta mới có khả năng chuẩn bị sẵn sàng cho tất cả để tránh tình trạng như năm 1979, chúng ta rất bất ngờ cả về mặt tâm lý; ở Cao Bằng đã xảy ra tình trạng: thấy xe tăng Trung Quốc vào đồng bào ta chạy ra hoan hô và bị ăn đạn…

Đại tá P.X.P: Trước hết tôi muốn nói một điều đáng tiếc đối với những người đã đổ xương máu trong cuộc chiến tranh biên giới với Trung Quốc, chúng tôi phải nói một cách thành thật, vì một lý do nào đó cuộc chiến tranh này đang là cuộc chiến tranh một thời gian dài bị lãng quên; lãng quên làm sao ? Kỷ niệm ngày mở chiến tranh và những thắng lợi kết thúc chiến tranh một thời gian gian dài chúng ta không nhắc tời, chúng ta có dám kỷ niệm và tưởng niệm đâu. Trong khi đó cuộc chiến tranh Việt-Mỹ ngày 30-4 được đánh dấu bằng một quốc lễ.
Cuộc chiến tranh biên giới phía bắc về quy mô chiến tranh, thắng lợi cũng như thiệt hại cũng rất lớn. Vì một lý do nào đó chúng ta chưa dám mạnh dạn tôn vinh một cách xứng đáng cuộc chiến tranh này, kỷ niệm không kỷ niệm, tổng kết cũng không tổng kết. Trung Quốc là một đối tượng tác chiến mới của chúng ta qua cuộc chiến tranh này.
Sách giáo khoa, sách lịch sử có cuốn nào đề cập tới cuộc chiến tranh này đâu, con em chúng ta bây giờ nhiều em không biết…
Vấn đề cuối cùng đó là vấn đề giải quyết hậu quả của cuộc chiến tranh này như thế nào ?
Âm mưu bành trướng bá quyền Đại Hán vẫn tiếp tục diễn ra dưới các hình thái mới Trung Quốc đang tiến hành tổng lực các hành động: đe đoạ chúng ta ở Biển Đông, gây hấn chúng ta cả về kinh tế, xâm nhập vừa phá hoại, khống chế về kinh tế về tâm lý lôi kéo, mua chuộc, cả trên lĩnh vực văn hoá…
Khi Trung Quốc xây dựng lại các mối quan hệ với ta, tôn chúng ta thế nọ, tôn chúng ta thế kia .v.v. nhưng về bản chất âm mưu bá quyền nước lớn của Trung Quốc họ chưa từ bỏ…
Tôi mạnh dạn gọi đây là cuộc chiến tranh kiểu mới mà Trung Quốc đang áp dụng với Việt Nam? Nếu không nhận thức được điều này thì thật sự là sự mất cảnh giác ghê gớm.

Trung ương chủ trương tranh thủ hoà bình xây đựng đất nước hoàn toàn đúng, tranh thủ Trung Quốc hoàn toàn đúng; bán anh em xa mua láng giềng gần, trong chừng mực nào đó ta phải tin; Phải có mối quan hệ, phải giao thương, phải buôn bán, phải để Trung Quốc đầu tư vào…Bất cứ nước nào đều phải làm thế !


Phạm Viết Đào thực hiện...

HÀ NỘI KHẲNG ĐỊNH XÂY CAO ỐC GIẢNG VÕ 46-50 TẦNG KHÔNG GÂY ÙN TẮC GIAO THÔNG- MẶC DÙ THÊM GẦN 1 VẠN NGƯỜI ?; HÀ NỘI " THÁU CÁY" LỪA THỦ TƯỚNG TRONG BÁO CÁO VỀ DỰ ÁN CAO ỐC GIẢNG VÕ?; ĐỐI CHIẾU BÁO CÁO CỦA HÀ NỘI VỀ D.A CAO ỐC GIẢNG VÕ VỚI QUYẾT ĐỊNH QUY HOẠCH 24/2015/QĐ-UBND THÀNH PHỐ HN ?

Chi tiết báo cáo của Hà Nội về dự án cao ốc Giảng Võ

TPO - Báo cáo gửi Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện quy hoạch chi tiết dự án 148 Giảng Võ, UBND TP Hà Nội cho biết, dự án xây dựng công trình hỗn hợp với chiều cao từ 46 đến 50 tầng. Đồng thời, báo cáo cũng lý giải hạ tầng xã hội, kỹ thuật và khả năng đáp ứng giao thông của dự án này.  
Chi tiết báo cáo của Hà Nội về dự án cao ốc Giảng Võ
Khu đất 148 Giảng Võ được nhà đầu tư chuẩn bị mặt bằng để thực hiện dự án chung cư cao cấp
Công trình hỗn hợp cao từ 46 đến 50 tầng
Trong văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung cho biết, về quy hoạch chi tiết tại khu đất số 148 Giảng Võ, căn cứ vào các văn bản như: Thông báo số 30 ngày 3/2/2016 của Văn phòng Chính phủ về khu đất dự án số 148 Giảng Võ; Quyết định số 11/2016 ngày 7/4/2016 của UBND TP Hà Nội ban hành quy chế quản lý quy hoạch, kiến trúc công trình cao tầng trong khu vực nội đô lịch sử TP Hà Nội…. UBND TP Hà Nội đã có Quyết định số 3560 ngày 29/6/2016 phê duyệt Quy hoạch chi tiết Tổ hợp Trung tâm dịch vụ, thương mại và nhà ở tỷ lệ 1/500 tại khu đất nêu trên theo đúng quy định, với chức năng và chỉ tiêu quy hoạch kiến trúc cơ bản như sau: Diện tích đất nghiên cứu lập dự án khoảng 58.776m2, với các chỉ tiêu như mật độ xây dựng khoảng 43,8%; tầng cao 4 đến 50 tầng; tổng quy mô dân số 7.345 người.
Được quy hoạch gồm các chức năng sử dụng đất như sau: đất trường tiểu học, trường trung học cơ sở; đất cây xanh, TDTT đơn vị ở. Riêng đất công trình hỗn hợp (gồm thương mại, dịch vụ, căn hộ ở, văn phòng có lưu trú, nhà trẻ) có tổng diện tích khoảng 42.711m2, với tầng cao từ 46 đến 50 tầng. UBND TP Hà Nội cho rằng, tầng cao công trình tại Dự án tuân thủ theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại điểm 2 Thông báo số 30 ngày 3/2/2016 của Văn phòng Chính phủ.
Đồng thời, theo UBND TP Hà Nội các chức năng và chỉ tiêu quy hoạch kiến trúc, hạ tầng kỹ thuật của Dự án đầu tư xây dựng Tổ hợp Trung tâm dịch vụ, thương mại và nhà ở tại khu đất số 148 Giảng Võ đã được cập nhật vào đồ án Quy hoạch phân khu đô thị H1-2 tỷ lệ 1/2000. Ngoài ra, Hà Nội cũng lý giải về các chỉ tiêu quy hoạch và khả năng đáp ứng hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật, giao thông.
Cụ thể, về quy mô dân số và mật độ dân cư, theo UBND TP Hà Nội quy mô dân số của dự án khoảng 7.345 người đã được cân đối dân số trong tổng thể khu vực nội đô Hà Nội đảm bảo giữ nguyên tổng quy mô dân số tại khu vực nội đô lịch sử 4 quận nội thành (gồm: Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng và một phần Tây Hồ), theo định hướng Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô đến năm 2030 là 800.000 người (Nội dung này UBND TP Hà Nội đã có công văn số 1598 ngày 16/3/2016 báo cáo Thủ tướng Chính phủ và đã được trả lời tại công văn số 4116 ngày 30/5/2016: Khi phê duyệt Quy hoạch chi Tiết khu vực đất dự án tại số 148 Giảng Võ và khu vực đất dự án tại Mễ Trì, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội căn cứ ý kiến chỉ đạo của Thường trực Chính phủ tại Thông báo số 30/TB-VPCP ngày 03 tháng 02 năm 2016 của Văn phòng Chính phủ để xác định chiều cao công trình xây dựng phù hợp; đồng thời bảo đảm mật độ xây dựng và dân số phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn và khả năng đáp ứng của hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội của khu vực và của Thành phố Hà Nội).
Không gây ùn tắc giao thông
Về khả năng đáp ứng hạ tầng kỹ thuật tại khu vực, Hà Nội lý giải dự án tại khu đất 148 Giảng Võ nằm trong ô quy hoạch ký hiệu I1, thuộc đồ án Quy hoạch phân khu đô thị H1-2 tỷ lệ 1/2000 đã được Sở QH-KT thẩm định báo cáo TP Hà Nội tại Tờ trình số 6564 ngày 2/11/2016. Trong đó về các chỉ tiêu mạng lưới đường quy hoạch đối với ô quy hoạch I1: Tỷ trọng đất giao thông (tính cho đường khu vực và phân khu vực) khoảng 15,7%. Đối với bản thân khu đất dự án Tổ hợp Trung tâm dịch vụ, thương mại và nhà ở tại số 148 Giảng Võ trong tổng diện tích lập dự án 58.776m2 thì diện tích đất giao thông trên mặt bằng là 9.498m2 (đạt tỷ lệ 16,6%).
“Đối với bản thân khu đất dự án 148 Giảng Võ, lưu lượng giao thông giờ cao điểm của khu đất dự án chiếm khoảng 6,2% khả năng thông hành trên các tuyến đường xung quanh. Đối chiếu với Tiêu chuẩn thiết kế đường đô thị, lưu lượng giờ cao điểm của ô đất dự án nằm trong phạm vi cho phép (từ 5-10%), đảm bảo khả năng thông hành bình thường của các tuyến đường tiếp giáp khu đất dự án, không gây ùn tắc giao thông”
Theo Hà Nội các chỉ tiêu mạng lưới đường giao thông thuộc ô quy hoạch ký hiệu II tại Quy hoạch phân khu đô thị H1-2 đang nghiện cứu đã tuân thủ, phù hợp với quy định tại Quy chuẩn và tiêu chuẩn thiết kế hiện hành.
  
Về khả năng thông hành trên các tuyến đường, Hà Nội cho rằng, đối với các tuyến đường thành phố và khu vực ở xung quanh khu đất dự án tiếp giáp với các tuyến đường cấp đô thị gồm: phố Giảng Võ (6 làn xe), phố Kim Mã (6 làn xe) và các tuyến đường chính khu vực gồm: phố Núi Trúc (4 làn xe) và phố Ngọc Khánh (4 làn xe).
Hà Nội lý giải theo định hướng Quy hoạch, trong giai đoạn trước mắt khi hệ thống vận tải hành khách công cộng chỉ có phương tiện xe buýt, đảm nhận được khoảng 15% tổng số chuyến đi, lưu lượng giao thông giờ cao điểm của ô quy hoạch II chiếm 9,4% tổng năng lực thông hành các tuyến đường thành phố (phố Kim Mã và Giang Võ) và đường khu vực (phố Ngọc Khánh và phố Núi Trúc). Đối chiếu với quy định tại Tiêu chuẩn thiết kế đường đô thị-TCXDVN 104:2007 lưu lượng này nằm trong phạm vi cho phép (từ 5-10%), cơ bản không gây ùn tắc giao thông trên các tuyến đường.
Về lâu dài khi hệ thống vận tải hành khách công cộng khối lượng lớn được đầu tư xây dựng, vận hành (tuyến đường sắt đô thị số 3 trên phố Kim Mã và tuyến BRT trên phố Giảng Võ), thì phần đảm nhiệm của phương tiện vận tải công cộng tăng lên thành 50% đến năm 2030 (và 65-70% các năm sau 2030); lưu lượng sử dụng phương tiện cá nhân trong phạm vi ô quy hoạch II giảm còn khoảng 8,6% khả năng thông hành trên các tuyến đường thành phố và khu vực xung quanh đảm bảo điều kiện lưu thông bình thường, không gây ùn tắc giao thông.
Đối với bản thân khu đất dự án 148 Giảng Võ, UBND TP Hà Nội lý giải lưu lượng giao thông giờ cao điểm của khu đất dự án chiếm khoảng 6,2% khả năng thông hành trên các tuyến đường xung quanh. Đối chiếu với Tiêu chuẩn thiết kế đường đô thị, lưu lượng giờ cao điểm của ô đất dự án nằm trong phạm vi cho phép (từ 5-10%), đảm bảo khả năng thông hành bình thường của các tuyến đường tiếp giáp khu đất dự án, không gây ùn tắc giao thông. Ngoài ra, theo Hà Nội mạng lưới đường nội bộ khu đất dự án là hệ thống giao thông xây dựng ngầm, kết nối liên thông giữa tầng hầm các công trình không gây ảnh hưởng xấu đến hệ thống giao đường thành phố và khu vực ở xung quanh….

Hà Nội báo cáo gì về dự án cao ốc Giảng Võ?

Nguồn tin của Tiền Phong cho biết, Chủ tịch UBND TP Hà Nội Nguyễn Đức Chung đã có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ về việc thực hiện quy hoạch chi tiết xây dựng khu đất tại 148 Giảng Võ (quận Ba Đình) để Thủ tướng xem xét và chỉ đạo.

Huỳnh Tiểu Minh

Hà Nội báo cáo gì về dự án cao ốc Giảng Võ?
08:00 ngày 07 tháng 01 năm 2017

Cấp báo:
Căn cứ vào thông tin mà báo Tiền Phong đưa dưới đây, Hà Nội đã tháu cáy trong báo cáo Thủ tướng về Dự án cao ốc Giảng Võ; Hà Nội chỉ báo cáo số liệu về "MẬT ĐỘ XÂY DỰNG" ( Tổng diện tích công trình xây dựng/tổng số diện tích khu đất)...
Số liệu này có vẻ dự án Cao ốc Giảng Võ không vi phạm lớn vì chỉ chiếm: 43,8%
Hà Nội đã lờ, không báo cáo Thủ tướng " HỆ SỐ SỬ DỤNG ĐẤT" (Tổng số diện tích sàn xây dựng/tổng diện tích khu đất) của dự án này ?
Chắc chắn "HỆ SỐ SỬ DỤNG ĐẤT" của Dự án Giảng Võ vi phạm nghiêm trọng quy hoạch đã được phê duyệt vì cao tới 40 tầng...
" HỆ SỐ SỬ DỤNG ĐẤT" liên quan tới tổng diện tích " SÀN XÂY DỰNG"; Nếu không tinh và không có kiến thức về quy hoạch xây dựng, Chính phủ sẽ bị Hà Nội lừa ?

CÁC CÔNG TRÌNH CAO TẦNG TẠI HÀ NỘI CHẮC ÍT VI PHẠM VỀ "MẬT ĐỘ XÂY DỰNG" (Trừ nhà dân) NHƯNG CHẮC CHẮN VI PHẠM " HỆ SỐ SỬ DỤNG ĐẤT"-HỆ SỐ NÀY LIÊN QUAN TỚI GIAO THÔNG, TRƯỜNG HỌC, BỆNH VIỆN, ĐIỆN, NƯỚC VÀ MẬT ĐỘ CÂY XANH ?


Phạm Viết Đào.
 
Như Tiền Phong đã đưa tin:“Theo UBND thành phố Hà Nội, về quy hoạch chi tiết tại khu đất số 148 Giảng Võ (quận Ba Đình), ngày 29/6/2016 UBND TP Hà Nội đã có Quyết định số 3560 phê duyệt Quy hoạch chi tiết Tổ hợp Trung tâm dịch vụ, thương mại và nhà ở tỷ lệ 1/500 tại khu đất nêu trên theo đúng quy định, với chức năng và chỉ tiêu quy hoạch kiến trúc cơ bản như sau: Diện tích đất nghiên cứu lập dự án khoảng 58.776 m2; với các chi tiêu như: mật độ xây dựng khoảng 43,8%; tầng cao 4 đến 50 tầng, tổng quy mô dân số 7.345 người… 
(http://m.tienphong.vn/xa-hoi/chi-tiet-bao-cao-cua-ha-noi-ve-du-an-cao-oc-giang-vo-1109814.tpo)
Chi tiết báo cáo của Hà Nội về dự án cao ốc Giảng Võ

Để làm sang tỏ báo cáo của UBND thành phố Hà Nội về Quyết định 3560 ký ngày 29/6/2016 có vi phạm các quy định của pháp luật hay không, chúng ta cần đối chiếu với
QUYẾT ĐỊNH số 24/2015/QD-UBND do Chủ tịch Nguyễn Thế Thảo ký ngày 13/8/2015:
BAN HÀNH QUY CHẾ QUẢN LÝ QUY HOẠCH, KIẾN TRÚC KHU PHỐ CŨ HÀ NỘI

Căn cứ vào Điều 3. Tính chất, đặc điểm và phạm vi thực hiện nội dung quản lý; Điều 6. Quy định chung về quản lý quy hoạch, kiến trúc Khu phố cũ Hà Nội và Điều 7. Phân khu vực quản lý của Quyết định 24 thì tuyến phố Giảng Võ thuộc khu vực “ Khu vực phụ cận (ký hiệu E), là khu vực nằm ngoài phạm vi khu phố cũ”…

Điều 6. Quy định chung về quản lý quy hoạch, kiến trúc Khu phố cũ Hà Nội của Quyết định 24 đã quy định chi tiết về chiều cao, mật độ xây dựng và mật độ dân số của khu phố cũ như sau:
1. Trong Khu phố cũ Hà Nội, việc quản lý chiều cao, mật độ xây dựng, mật độ dân số được thực hiện trên cơ sở quản lý quy hoạch và không gian đối với các ô phố quy định tại Điều 9, Điều 10 của Quy chế này. Các công trình nằm trên các đoạn tuyến phố, quảng trường, nút giao thông còn phải tuân thủ các quy định về quản lý quy hoạch và không gian tại Điều 8, Điều 11 của Quy chế này; các công trình kiến trúc, công trình hạ tầng kỹ thuật còn phải tuân thủ các quy định tại Mục 2, Mục 3 Chương II của Quy chế này.
Việc quản lý các không gian mở, cây xanh, mặt nước; nguyên tắc quản lý, sử dụng quỹ đất sau khi di dời, chuyển đổi chức năng sử dụng đất phải tuân thủ quy định tại Điều 12, Điều 14 của Quy chế này.
2. Chiều cao, mật độ xây dựng, mật độ dân số được quản lý trên cơ sở các quy định chung như sau:
a) Tầng cao xây dựng đặc trưng là 4-6 tầng, chiều cao khoảng 16-22m; chiều cao và tầng cao tối đa ở mỗi ô phố được quy định cụ thể tại Phụ lục 5-B;
b) Mật độ xây dựng tại các ô phố không quá 70%;
c) Mật độ dân số khoảng 230 người/ha.”
Theo Điều 13. Quản lý về quy hoạch và không gian đối với khu vực phụ cận của Quyết định 24 thì cho phép chiều cao tối đa của các công trình kiến trúc-xây dựng  8 tầng 29 m…
Như vậy, Dự án cao ốc Giảng Võ đã có 2 vi phạm khi đối chiếu với Quyết định 24: 

1/Chiều cao công trình 40-50 tầng chắc chắn phải quãng từ 120 m trở lên; Quyết định 24 chỉ cho phép 8 tầng, chiều cao tối đa 29 m ?
2/ Mật độ dân số đối với một công trình tại khu phố cũ quy định 230 người/ha; Đối với khu vực phụ cận căn cứ vào chiều cao công trình cho phép, mật độ dân số tối đa khoảng 300 người/ 1ha.
Khu vực Giảng Võ khu đất có tổng diện tích là: 5,877 ha x 300 người/ha = 1750 người…
Theo báo cáo của Hà Nội, dự án này có số cư dân 7.345 người; Như vậy mật độ cư dân đã cao gấp khoảng hơn 4 lần so với quy định của Quyết định 24/2015/QD-UBND do Chủ tịch Nguyễn Thế Thảo  ký ?
P.V.Đ.

Vẫn chưa trình quy định kỷ luật cán bộ nghỉ hưu như ông Vũ Huy Hoàng...vì bài này chăng: PHẢI CHĂNG QUỐC HỘI VIỆT NAM ĐANG PHỤC DỰNG THỂ CHẾ VI HIẾN: “DÂN XỬ THEO LUẬT, QUAN XỬ THEO LỆ" ?; Xử lý cán bộ về hưu: Bộ Nội vụ đã trình Chính phủ

Xem thêm:

Hồi âm của TT Võ Văn Kiệt về các bài của Phạm Viết Đào...

( không rõ vì lý do gì mà Tiền Phong xóa tên tác giả Phạm Viết Đào?

Chắc do dính " tiền án-tiền sự " !)


Kết quả hình ảnh cho võ văn kiệt

>Khi một nhà báo 6 lần được Thủ tướng hồi âm | Xã hội | Báo điện tử ...

m.tienphong.vn/.../khi-mot-nha-bao-6-lan-duoc-thu-tuong-hoi-am-126695...

Vẫn chưa trình quy định kỷ luật cán bộ nghỉ hưu như ông Vũ Huy Hoàng

09/01/2017 09:43

(NLĐO)- Dự thảo Nghị quyết xử lý, kỷ luật cán bộ, công chức đã nghỉ hưu có vi phạm của Uỷ ban Thường vụ QH để xử lý những trường hợp như cựu Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng vẫn chưa được Chính phủ trình tại phiên họp sáng 9-1.


Quốc hội được Ban Bí thư TƯ Đảng đề nghị chỉ đạo thực hiện xử lý kỷ luật về hành chính đối với ông Vũ Huy Hoàng, nguyên Bộ trưởng Bộ Công Thương
Quốc hội được Ban Bí thư TƯ Đảng đề nghị chỉ đạo thực hiện xử lý kỷ luật về hành chính đối với ông Vũ Huy Hoàng, nguyên Bộ trưởng Bộ Công Thương
Sáng nay 9-1, phiên họp thứ 6 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã chính thức khai mạc. Một nôi dung đáng chú ý của phiên họp này là UBTVQH sẽ cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết của UBTVQH về việc xử lý kỷ luật đối với các cán bộ, công chức đã nghỉ hưu.
Mặc dù đã được xếp lịch để sẽ cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết xử lý, kỷ luật cán bộ, công chức đã nghỉ hưu có vi phạm vào chiều ngày 11-1 nhưng sáng nay 9-1, khi bước vào phiên họp thứ 6, Chính phủ vẫn chưa kịp trình dự thảo nghị quyết của UBTVQH về việc xử lý kỷ luật đối với các cán bộ, công chức đã nghỉ hưu.
Phát biểu tại khai mạc phiên họp thứ 6, Tổng thư ký QH Nguyễn Hạnh Phúc cho biết hiện Chính phủ cũng vẫn chưa trình dự thảo nghị quyết về nội dung trên nên cơ quan thẩm tra chưa thể tiến hành thẩm tra. “Chúng tôi rất lo, vì khó đảm bảo tiến độ” - ông Phúc nói.
Việc xem xét Nghị quyết về việc xử lý kỷ luật cán bộ, công chức có vi phạm khi đã nghỉ hưu này là nội dung từng được đưa vào chương trình phiên họp thứ 5 của UBTVQH vào tháng 12-2016 nhưng Chính phủ đã chưa chuẩn bị kịp để trình nên được lùi lại đến phiên họp này.
Việc xem xét cơ sở pháp lý để xử lý kỷ luật đối với cán bộ công chức đã nghỉ hưu đã được đặt ra tại kỳ họp thứ 2 của Quốc hội, diễn ra tháng 10 và 11-2016 khi QH được Ban Bí thư Trung ương Đảng đề nghị chỉ đạo thực hiện xử lý kỷ luật về hành chính đối với ông Vũ Huy Hoàng - nguyên Bộ trưởng Bộ Công Thương.
Tại phiên bế mạc kỳ họp thứ 2, trong nghị quyết về chất vấn và trả lời chất vấn, QH đã phê phán nghiêm khắc ông Vũ Huy Hoàng, Bộ trưởng Công Thương nhiệm kỳ 2011-2016 trước QH và cử tri cả nước do đã có những vi phạm về công tác cán bộ trong thời gian đảm nhiệm chức vụ nêu trên, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, Nhà nước, Bộ Công Thương, gây bức xúc trong xã hội, được nhiều đại biểu QH quan tâm chất vấn.
Nghị quyết cũng nhấn mạnh "QH giao UBTVQH, Chính phủ, các cơ quan bảo vệ pháp luật tiếp tục làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật".
Bảo Trân

(http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/chua-trinh-quy-dinh-ky-luat-can-bo-nghi-huu-nhu-ong-vu-huy-hoang-20170109091822638.htm)

 

Phạm Viết Đào.


Quốc triều Hình luật thời Lê quy định hình phạt đối với quan chức nghỉ hưu bị phát lộ phạm tội:

Điều 14 quy định: "Các quan có trách nhiệm cai quản viên chức hay quân dân mà phạm tội do sơ suất, sai lầm, thì từ tội lưu ( thời Lê có ngũ hình: xuy, đồ, trượng, đồ, lưu, tử ) trở xuống cho chuộc tiền. Phạm tội trong khi chưa làm quan đến khi làm quan (nghĩa là có phẩm hàm từ lục phẩm trở lên) việc mới phát, phạm tội khi ở chức thấp, đến khi thăng chức việc mới phất" đều cho giảm tội một bậc…"
Điều 17 quy định: "Phàm lúc phạm tội chưa già, chưa có tật, mà khi việc phát lộ thì đến tuổi già hay có tật thì cũng xử như người già và người tàn tật. Những người trong khi đương chịu tội đồ mà đến tuổi già hoặc trở nên tàn tật thì cũng xử như thế. Phạm tội trong khi còn nhỏ, đến khi lớn việc mới phát lộ cũng được luận tội như trẻ nhỏ".
Kết quả hình ảnh cho Ủy ban thường vụ Quốc hội hop

Theo thông tin báo chí, vào cuối phiên họp thứ 6 ( ngày 9-11/1/2017), Bộ trưởng Bộ Nội vụ sẽ trình Tờ trình, Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội trình bày báo cáo thẩm tra trước khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến: Dự thảo Nghị quyết về việc xử lý kỷ luật đối với các cán bộ, công chức đã nghỉ hưu…
Nếu NQ này được thông qua trong kỳ họp thứ 6 này thì UBTV Quốc hội đã tạo ra một “ ngoại lệ”, một “ biệt lệ ” không nằm trong khuôn khổ của Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Quốc hội số 57/2013…
Nghị quyết này của Quốc hội sẽ là một NQ vi hiến và vi phạm pháp luật ?!

Điều 69 của Hiến pháp 2013 quy định:  
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Điều 70  
Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;
2. Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
3. Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
4. Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;
5. Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
6. Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập; 
7. Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia.
Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp;
8. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;
9. Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật;
10. Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
11. Quyết định đại xá;
12. Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;
13. Quyết định vấn đề chiến tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; 
14. Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;
15. Quyết định trưng cầu ý dân. 

Luật Tổ chức Quốc hội 57/2014/QH13 quy định chi tiết nhiệm vụ và quyền hạn của QH:
Điều 8. Bầu các chức danh trong bộ máy nhà nước
Điều 9. Phê chuẩn các chức danh trong bộ máy nhà nước
Điều 10. Việc từ chức của người được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn
Điều 11. Miễn nhiệm, bãi nhiệm, phê chuẩn đề nghị miễn nhiệm, cách chức người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn…
Đọc kỹ những điều khoản quy định trên của Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Quốc hội số 57/2013 không thấy có một điều khoản nào quy định việc UBTV Quốc hội có thẩm quyền thông qua một “Nghị quyết về việc xử lý kỷ luật đối với các cán bộ, công chức đã nghỉ hưu” ?
Theo Điều 69 và 70 của Hiến pháp 2013 và Điều 8-9-10-11 của Luật Tổ chức Quốc hội số 57/2013 đã quy định Quốc hội là cơ quan lập pháp; Quốc hội chỉ có thẩm quyền “ bầu, phê chuẩn, miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn…”
Những cán bộ, công chức đã nghỉ hưu, một thời từng công tác trong bộ máy nhà nước đã tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thì mọi chế độ chính sách liên quan tới quyền lợi của họ như: lương hưu, chế độ bảo hiểm y tế, khám chữa bệnh, mai táng phí khi qua đời… được điều chỉnh bởi Luật Bảo hiểm Xã hội.
Những cán bộ, công chức đã nghỉ hưu họ không còn chịu bất kỳ sự quản lý của các cơ quan hành chính của Nhà nước, Chính phủ về phương diện công chức; Họ càng không liên quan, liên đới gì tới Quốc hội, cơ quan lập pháp…
Do đó, cán bộ, quan chức nghỉ hưu tất yếu sẽ bị điều chỉnh, chi phối như các công dân bình thường khác theo quy định của pháp luật hiện hành, nếu họ chẳng may bị phát hiện vi phạm pháp luật thì họ sẽ bị xử lý theo các quy định của 2 bộ luật: Luật Tố tụng Hình sự và Luật Hình sự…
Vấn đề mà Ủy ban Thường vụ Quốc hội bàn bạc để ra một Nghị quyết đối với những cán bộ, công chức đã vi phạm trong thời kỳ tại nhiệm, thực chất là để tiêu hóa cái món “ Gân gà-Vũ Huy Hoàng: Nuốt không trôi mà khạc nhổ ra cùng không được” ?!
Theo quy định của luật pháp hiện hành, đối với những cán bộ, công chức đã nghỉ hưu, họ vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối những hành vi trong khi tại nhiệm. Điều này đã được quy định bởi Bộ Luật Hình sự; Bộ luật này đã ban hành khái niệm “ Truy cứu trách nhiệm Hình sự” được thể chế bằng Điều 23:
“1. Tại điều 23 Bộ Luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung ngày 19/06/2009 thì Thời hiệu thi hành bản án hình sự được quy định cụ thể như sau:

A) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;

B) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;

C) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;

D) Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.’’

Do vậy, nếu UBTVQH vẫn cứ ban hành bằng được một nghị quyết để xử lý những cán bộ, công chức đã nghỉ hưu như trường hợp ông Vũ Huy Hoàng là cố tình tạo “ sân chơi”, mở "đường máu" cho những vị khác sẽ về hưu sau ông Vũ Huy Hoàng: “ ngu gì” mà không vi phạm pháp luật, không trộm cướp vì họ được đảm bảo bằng một sân chơi riêng, không phải ra tòa và không phải đi trại giam ?
Việc thông qua loại nghị quyết này đã tạo ra một “biệt lệ” như dân gian vẫn nói:” Dân xử theo luật còn quan xử theo lệ” ?
Một công dân bình thường khi bị một phiên tòa cấp quận huyện tuyên “ vi phạm nghiêm trọng pháp luật” là đã có thể phải đối mặt với mức án trên chục năm tù.
Trường hợp ông Vũ Huy Hoàng mặc dù đã được Quốc hội “ cha đẻ” của hệ thống công tố và quan tòa của nước CHXHCN Việt Nam trong thông báo chính thức đã tuyên: có những vi phạm về công tác cán bộ trong thời gian đảm nhiệm chức vụ nêu trên, gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, Nhà nước, Bộ Công Thương, gây bức xúc trong xã hội, được nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm chất vấn…”
Thế  mà lại chỉ bị xử lý bằng một cái nghị quyết vô tiền khoáng hậu ?!

P.V.Đ.

(Chính trị) - Trước lời than vãn của Quốc hội liên quan tới sự chậm trễ của Chính phủ về việc trình quy chế kỷ luật cán bộ nghỉ hưu.

Trao đổi với Đất Việt sáng 9/1, Bộ trưởng Bộ Nội vụ – ông Lê Vĩnh Tân cho biết, Bộ này đã trình Chính phủ dự thảo, quy chế kỷ luật cán bộ nghỉ hưu vào ngày hôm qua (8/1).
“Quy trình tiếp theo là thuộc trách nhiệm của Chính phủ”, ông Tân nói thêm.
Xu ly can bo ve huu:Bo Noi vu da trinh Chinh phu - Anh 1
Ông Vũ Huy Hoàng
Liên quan tới vấn đề trên, sáng 9/1, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khai mạc phiên họp thứ sáu. Theo chương trình phiên họp, Thường vụ sẽ cho ý kiến dự thảo nghị quyết về việc xử lý kỷ luật đối với các cán bộ, công chức đã nghỉ hưu.
Đây là nội dung đã từng bị lùi lại do Chính phủ không chuẩn bị kịp.
Tuy nhiên, tại phiên họp sáng nay nỗi lo tiếp tục bị lùi đang được thể hiện rõ. Tổng thư ký Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc lo lắng “, Chính phủ vẫn chưa trình dự thảo nghị quyết về nội dung trên nên cơ quan thẩm tra chưa thể tiến hành thẩm tra. Chúng tôi rất lo, vì khó đảm bảo tiến độ” – ông Phúc nhấn mạnh.
Cùng chung nỗi lo trên, ĐBQH đoàn Đà Nẵng – Nguyễn Bá Sơn nêu quan điểm rất rõ ràng, sai là phải xử lý.
“Đã sai thì phải xử lý, kể cả khi người đó đã về hưu”. Ông Sơn nói rõ, không thể để tồn tại tư duy rằng đã “nghỉ hưu là hạ cánh an toàn”.
Trở lại vấn đề của sự chậm trễ trong việc trình dự thảoquy chế kỷ luật cán bộ nghỉ hưu, ông Sơn thừa nhận việc này có cái khó.
Cái khó theo vị đại biểu đoàn Đà Nẵng là do các quy định của pháp luật hiện hành không quy định việc xử lý trách nhiệm đối với một cán bộ đã nghỉ hưu.
Do đó, việc xử lý về chính quyền, xử lý về mặt Nhà nước như thế nào đối với một cán bộ mắc sai phạm nhưng đã nghỉ hưu cũng chưa được quy định cụ thể.
Nếu có mới chỉ dừng lại ở các hình thức kỷ luật về mặt Đảng như kỷ luật khiển trách, khai trừ khỏi Đảng…
Cách chức ông Vũ Huy Hoàng: Xử lý thế nào cho đúng?
“Hình thức kỷ luật trên quá nhẹ, không đủ sức răn đe cũng như không đủ sức để ngăn chặn những sai phạm tái diễn”, ông Sơn nói.
Vì vậy, theo ông Sơn khi pháp luật hiện hành không thể hiện những nội dung trên mà Chính phủ lại xây dựng một quy định mới sẽ gặp phải rất nhiều vấn đề có khả năng gây xung đột về mặt pháp lý.
Ông Sơn cho biết, nếu bây giờ Chính phủ muốn ban hành quy chế kỷ luật cán bộ nghỉ hưu thì Quốc hội cũng phải ban hành những quy định mới, tạo hành lang pháp lý cho quy chế mới thực hiện được.
(Theo Đất Việt)