Phạm Viết Đào.
Quốc triều Hình luật thời Lê quy định hình phạt đối với quan chức nghỉ hưu bị phát lộ phạm tội:
Điều 14 quy định: "Các quan có trách nhiệm cai quản viên chức hay quân dân mà phạm tội do sơ suất, sai lầm, thì từ tội lưu ( thời Lê có ngũ hình: xuy, đồ, trượng, đồ, lưu, tử ) trở xuống cho chuộc tiền. Phạm tội trong khi chưa làm quan đến khi làm quan (nghĩa là có phẩm hàm từ lục phẩm trở lên) việc mới phát, phạm tội khi ở chức thấp, đến khi thăng chức việc mới phất" đều cho giảm tội một bậc…"
Điều 17 quy định: "Phàm lúc phạm tội chưa già, chưa có tật, mà khi việc phát lộ thì đến tuổi già hay có tật thì cũng xử như người già và người tàn tật. Những người trong khi đương chịu tội đồ mà đến tuổi già hoặc trở nên tàn tật thì cũng xử như thế. Phạm tội trong khi còn nhỏ, đến khi lớn việc mới phát lộ cũng được luận tội như trẻ nhỏ".
Theo thông tin báo chí, vào cuối phiên họp thứ 6
( ngày 9-11/1/2017), Bộ trưởng Bộ Nội vụ sẽ
trình Tờ trình, Chủ nhiệm Ủy ban pháp luật của Quốc hội trình bày báo cáo thẩm
tra trước khi Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến: Dự thảo Nghị quyết về việc xử lý kỷ luật đối với các cán bộ, công
chức đã nghỉ hưu…
Nếu NQ này được thông qua trong kỳ họp thứ 6 này thì UBTV Quốc hội đã tạo
ra một “ ngoại lệ”, một “ biệt lệ ” không nằm trong khuôn khổ của
Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Quốc hội số 57/2013…
Nghị quyết này của Quốc hội sẽ là một NQ vi hiến và vi phạm pháp luật ?!
Nghị quyết này của Quốc hội sẽ là một NQ vi hiến và vi phạm pháp luật ?!
Điều
69 của Hiến pháp 2013 quy
định:
“Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền
lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám
sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.”
Điều
70
Quốc hội có những nhiệm vụ
và quyền hạn sau đây:
1. Làm Hiến pháp và sửa đổi
Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;
2. Thực hiện quyền giám sát
tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo
công tác của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm
toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
3. Quyết định mục tiêu, chỉ
tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước;
4. Quyết định chính
sách cơ bản về tài
chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định
phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách
địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ;
quyết định dự toán ngân
sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách
nhà nước;
5. Quyết định chính sách
dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
6. Quy định tổ chức và hoạt
động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước, chính quyền địa phương
và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
7. Bầu, miễn nhiệm, bãi
nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc
hội, Ủy viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy
ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng
Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê
chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê
chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc
gia.
Sau khi được bầu, Chủ tịch
nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp;
8. Bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội
bầu hoặc phê chuẩn;
9. Quyết định thành lập,
bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh
địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính -
kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và
luật;
10. Bãi bỏ văn bản của Chủ
tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội;
11. Quyết định đại xá;
12. Quy định hàm, cấp trong
lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm, cấp nhà nước
khác; quy định huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự nhà nước;
13. Quyết định vấn đề chiến
tranh và hoà bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác
bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
14. Quyết định chính sách
cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan
đến chiến tranh,
hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái
với luật, nghị quyết của Quốc hội;
15. Quyết định trưng cầu ý
dân.
Luật Tổ chức Quốc hội 57/2014/QH13 quy định chi tiết nhiệm vụ và quyền hạn của QH:
Điều 8. Bầu các chức danh trong bộ máy nhà nước
Điều 9. Phê chuẩn các chức danh trong bộ máy nhà nước
Điều 10. Việc từ chức của người được Quốc hội bầu hoặc
phê chuẩn
Điều 11. Miễn nhiệm, bãi nhiệm, phê chuẩn đề nghị miễn
nhiệm, cách chức người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn…
Đọc
kỹ những điều khoản quy định trên của Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Quốc hội số
57/2013 không thấy có một điều khoản nào quy định việc UBTV Quốc hội có thẩm
quyền thông qua một “Nghị quyết về việc xử lý kỷ luật đối với các cán bộ, công chức
đã nghỉ hưu” ?
Theo Điều 69 và 70 của Hiến pháp 2013 và Điều 8-9-10-11 của Luật Tổ chức
Quốc hội số 57/2013 đã quy định Quốc hội là cơ quan lập pháp; Quốc hội chỉ có
thẩm quyền “ bầu, phê chuẩn, miễn nhiệm,
bãi nhiệm, cách chức người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn…”
Những cán bộ, công chức đã nghỉ hưu, một thời từng công tác trong bộ máy
nhà nước đã tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thì mọi chế độ chính sách
liên quan tới quyền lợi của họ như: lương hưu, chế độ bảo hiểm y tế, khám chữa
bệnh, mai táng phí khi qua đời… được điều chỉnh bởi Luật Bảo hiểm Xã hội.
Những cán bộ, công chức đã nghỉ hưu họ không còn chịu bất kỳ sự quản lý
của các cơ quan hành chính của Nhà nước, Chính phủ về phương diện công chức; Họ
càng không liên quan, liên đới gì tới Quốc hội, cơ quan lập pháp…
Do đó, cán bộ, quan chức nghỉ hưu tất yếu sẽ bị điều chỉnh, chi phối như
các công dân bình thường khác theo quy định của pháp luật hiện hành, nếu họ chẳng may bị phát hiện vi phạm pháp luật thì họ sẽ bị xử
lý theo các quy định của 2 bộ luật: Luật Tố tụng Hình sự và Luật Hình sự…
Vấn đề mà Ủy ban Thường vụ Quốc hội bàn bạc để ra một Nghị quyết đối với
những cán bộ, công chức đã vi phạm trong thời kỳ tại nhiệm, thực chất là để
tiêu hóa cái món “ Gân gà-Vũ Huy Hoàng:
Nuốt không trôi mà khạc nhổ ra cùng không được” ?!
Theo quy định của luật pháp hiện hành, đối với những cán bộ, công chức đã
nghỉ hưu, họ vẫn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối những hành vi trong
khi tại nhiệm. Điều này đã được quy định bởi Bộ Luật Hình sự; Bộ luật này đã ban hành khái niệm “ Truy cứu trách nhiệm
Hình sự” được thể chế bằng Điều 23:
“1. Tại điều 23 Bộ Luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung
ngày 19/06/2009 thì Thời hiệu thi hành bản án hình sự được quy định cụ thể như
sau:
A) Năm năm đối với các tội phạm ít nghiêm trọng;
B) Mười năm đối với các tội phạm nghiêm trọng;
C) Mười lăm năm đối với các tội phạm rất nghiêm trọng;
D) Hai mươi năm đối với các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.’’
Do vậy, nếu UBTVQH vẫn
cứ ban hành bằng được một nghị quyết để xử lý những cán bộ, công chức đã nghỉ hưu như
trường hợp ông Vũ Huy Hoàng là cố tình tạo “ sân chơi”, mở "đường máu" cho những vị
khác sẽ về hưu sau ông Vũ Huy Hoàng: “ ngu gì” mà không vi phạm pháp luật, không trộm cướp vì họ
được đảm bảo bằng một sân chơi riêng, không phải ra tòa và không phải đi trại
giam ?
Việc thông qua loại nghị
quyết này đã tạo ra một “biệt lệ” như dân gian vẫn nói:” Dân xử theo luật còn
quan xử theo lệ” ?
Một công dân bình thường
khi bị một phiên tòa cấp quận huyện tuyên “ vi phạm nghiêm trọng pháp luật” là
đã có thể phải đối mặt với mức án trên chục năm tù.
Trường hợp ông Vũ Huy
Hoàng mặc dù đã được Quốc hội “ cha đẻ” của hệ thống công tố và quan tòa của
nước CHXHCN Việt Nam trong thông báo chính thức đã tuyên: “có
những vi phạm về công tác cán bộ trong thời gian đảm nhiệm chức vụ nêu trên,
gây hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng, Nhà nước, Bộ Công
Thương, gây bức xúc trong xã hội, được nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm chất
vấn…”
Thế mà lại chỉ bị xử lý bằng một cái nghị quyết
vô tiền khoáng hậu ?!
P.V.Đ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét