Nguyên soái Trần Nghị được coi là một trong những “khai quốc công thần” của Trung Quốc. Tuy nhiên, vì ông đã từng đắc tội với Mao Trạch Đông, vậy nên cái chết của ông cũng mang nhiều nghi vấn.
Trong Cách mạng Văn hóa, sùng bái cá nhân đối với Mao Trạch Đông ‘điên cuồng’ đến nỗi tất cả văn chương, bao gồm cả luận văn khoa học, đều phải kèm theo các trích dẫn trong «Mao Chủ tịch ngữ lục», hơn nữa tất cả chữ lấy từ sách của Mao Trạch Đông đều phải in đậm.
Trong khoảng thời gian này, tất cả các bài phát biểu trong đại hội trước tiên phải khởi đầu bằng “Mao Chủ tịch dạy chúng ta rằng….”, thậm chí nói chuyện với nhau trên đường phố cũng phải bắt đầu với «Mao Chủ tịch ngữ lục»; ai ai cũng phải nhảy “điệu múa trung thành” để biểu thị bản thân “trung thành vô hạn với lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch”
Sùng bái cá nhân Mao Trạch Đông trong đại Cách mạng Văn hóa của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã đến mức độ không thể hiểu nổi. Nếu như có ai đó mà không sùng bái Mao, thì lập tức sẽ bị liệt vào thành phần tạo phản, sẽ bị đấu tố công khai, và kết cục bi thảm là không tránh khỏi.
Ngày 22/6/1929, Trần Nghị chủ trì Đại hội đại biểu Hồng tứ quân (đội quân thứ 4 của Hồng quân công nông Trung Quốc) lần thứ 7 khai mạc tại Trùng Khánh. Tại đại hội, rất nhiều ý kiến được đưa ra nhằm chất vấn Mao Trạch Đông và Chu Đức, thậm chí có những ý kiến thể hiện thái độ hơi quá khích.
Ví như, Lưu An Cung (1899-1929), một chuyên gia quân sự cao cấp, vừa chống một chân lên ghế vừa phê bình Mao chuyên quyền, gia trưởng, không phục tùng chỉ thị của Trung ương.
Sau đó, Trần Nghị còn tiếp tục phê bình Mao gay gắt hơn: “Các đồng chí Mao, Chu, một người là Tấn, một người là Sở. Hai nước lớn ngày ngày binh đao, tôi là nước nhỏ, kẹt ở giữa hai nước lớn mà tôi không muốn đắc tội bên nào. Tôi chỉ sợ Hồng quân rạn nứt nên mong hai đồng chí nương nhẹ tay, nhanh chóng giảng hòa“. Hội trường rộ lên tràng cười không dứt.
Mao lúc này vô cùng tức giận. Ông không ngừng châm thuốc và không nói một lời. 16 năm sau – 1945, tại Hội nghị trù bị Đại hội Nhân dân toàn quốc Trung Quốc lần thứ 7 tại Diên An, Thiểm Tây, Trung Quốc, Khang Sinh – người của nhóm Lâm Bưu, Giang Thanh đã gợi lại sự kiện Mao bị phê bình tại hội nghị năm 1929 nhằm đổ tội cho Trần Nghị.
Trần Nghị giải thích, hội nghị năm đó là buổi thảo luận công khai nên tất cả đều bày tỏ hết suy nghĩ của mình mà thôi.
“Mao Trạch Đông không hề vĩ đại”
Do nêu quan điểm thẳng thắn chỉ ra những sai lầm trong Cách mạng Văn hóa, Trần Nghị đã bị Bộ Chính trị ĐCSTQ chỉ trích nặng nề. Đỉnh điểm là ông bị Bộ Chính trị dưới sự thao túng của Lâm Bưu điều chuyển về Thạch Gia Trang, tỉnh Hà Bắc vào tháng 10/1969.
Tuy không bị cách chức chính thức nhưng hành động này của Lâm Bưu được xem như là biện pháp ngăn ngừa Trần Nghị nổi loạn và cũng là dấu chấm hết cho sự nghiệp chính trị của ông.
Trong thời gian 1967 – 1969, Trần Nghị luôn thể hiện quan điểm, thái độ rõ ràng đối với Cách mạng Văn hóa, ông từng nhấn mạnh “bản thân không tôn thờ Mao Trạch Đông”.
Cuối năm 1967, Hồng vệ binh đã tổ chức rất nhiều buổi tranh luận đấu tố, chỉ trích thậm tệ Trần Nghị và sử dụng mọi hình thức để bôi nhọ danh dự ông. Đứng trước những lời phỉ báng và vu khống của Hồng vệ binh, Trần Nghị luôn giữ thái độ phản đối những nước đi sai lầm của “bè lũ bốn tên”.
Thậm chí, ông còn sử dụng chính những quan điểm, chính sách của Trung Nam Hải khi đó để phản bác lại những luận điệu và chỉ trích của Hồng vệ binh. Quan điểm và lập trường chính trị của Trần Nghị tuy không được hưởng ứng rộng rãi nhưng nó cũng tạo được tiếng vang trong dư luận Trung Quốc thời ấy.
Nhận thức được mối nguy hiểm tiềm tàng này, lên nắm quyền sau Đại hội IX ĐCSTQ vào tháng 4/1969, Lâm Bưu đã khẩn trương tìm mọi cách để hạ bệ Trần Nghị, buộc ông phải dời đến Thạch Gia Trang.
Nhắc đến Trần Nghị trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, dư luận Trung Quốc thường nhắc tới bài phát biểu của ông trong một buổi đấu tố. Đây được xem như là “huyết thư” của Trần Nghị nhắm thẳng vào những tư tưởng của giới lãnh đạo trong thời kỳ này.
Ông từng nói với Hồng vệ binh rằng: “Nếu như người làm ngoại giao mà giống như Hồng vệ binh các người, mặc quân phục, đeo biển hiệu Mao Trạch Đông, giương cao biểu ngữ của Mao Trạch Đông, thì có khác gì là mục sư không?”.
Hay “lẽ nào cứ mỗi lần gặp Chủ tịch Mao, tôi lại phải cúi mình chào: Mao Chủ tịch vạn tuế, vạn vạn tuế!”.
Ông khẳng định phản đối Mao Trạch Đông chưa chắc đã là phản cách mạng, ủng hộ Mao Trạch Đông cũng không có nghĩa là làm cách mạng. Trần cho rằng, việc tôn sùng một cách mù quáng những cá nhân sẽ không đem đến điều gì tốt đẹp.
Cái chết còn nhiều nghi vấn
Tháng 8/1969, Trần Nghị cũng như các lão thành cách mạng khác của Trung Quốc được lệnh phải “sơ tán” khỏi Bắc Kinh, và điểm đến của ông là Thạch Gia Trang.
Ròng rã nửa năm sau đó, Trần Nghị và gia đình bị giam lỏng và quản chế tại đây. Trung ương cắt toàn bộ liên lạc với ông, thậm chí, hàng tuần Trần còn phải đi lao động công ích tại các xí nghiệp trong thành phố.
Đến tháng 7/1970, Trần Nghị rất hay đau bụng và thường xuyên bị tiêu chảy. Bác sỹ cũng đã kê một số loại thuốc giảm đau cho ông nhưng uống rồi cũng không có hiệu quả. Bà Trương Tây vợ ông đã tìm mọi cách báo cáo với Quân ủy trung ương đề nghị chuyển ông về Bắc Kinh chữa trị.
Tuy nhiên, phải đến một năm sau, nguyện vọng này mới được đáp ứng, khi Trần Nghị cùng một số lãnh đạo khác được đưa về Bắc Kinh.
Nhưng đó chưa phải là tất cả, Trần Nghị tiếp tục bị ép phải tham gia đại hội ở Lư Sơn với cơ thể lâm trọng bệnh. Tại đây, Lâm Bưu đã đón tiếp ông bằng những lời lẽ công kích không thể gay gắt hơn. Bệnh của Trần Nghị từ đấy trở nên trầm trọng hơn và ngày một ốm yếu.
Trước tình hình đó, Trần Nghị đã được Thủ tướng Trung Quốc lúc đó là Chu Ân Lai tạo điều kiện để nhập viện chữa trị. Nhưng đáng chú ý, Trần Nghị liên tục phải chuyển giường bệnh, bên cạnh đó, những tin đồn về việc ông “tạo phản” cứ lan truyền dần trong đội ngũ những y bác sỹ chữa trị cho ông.
Nằm viện một thời gian, các bác sỹ chưa cho kết luận cụ thể về bệnh tình của ông, thay vào đó chỉ là những chẩn đoán sơ sài rằng ông bị mắc bệnh dạ dày. Cuối cùng, vào một ngày đầu hè năm 1972, Trần Nghị được đưa lên bàn mổ để cắt bỏ dị vật được chẩn đoán là “ruột thừa” trong ổ bụng ông.
Ca phẫu thuật trở thành cơn ác mộng khi các bác sỹ kết luận dị vật trong bụng Trần Nghị là một khối u kết tràng và vì “không có sự chuẩn bị trước” nên ca phẫu thuật đã thất bại.
Sau đó ít lâu, Trần Nghị lặng lẽ qua đời trong bệnh viện. Sự ra đi của Trần Nghị để lại nhiều nghi ngờ trong quãng thời gian ngắn ngủi cuối đời đối chọi với bệnh tật của ông, rốt cuộc ai là kẻ đứng đằng sau giật dây tất cả?
Ghi chú: Trần Nghị (1901-1972) tên thật Trần Thế Tuấn, quê Tứ Xuyên, năm 1919 ông sang Pháp du học. Năm 1921 bị bắt áp giải về nước do tham gia phong trào yêu nước của lưu học sinh Trung Quốc ở Pháp. Về quê, ông tham gia Đoàn Thanh niên Trung Quốc, năm 1923 về Bắc Kinh học khoa Văn trường Đại học Trung Pháp và vào ĐCSTQ ở đây.
Sau đó ông tham gia Khởi nghĩa Nam Xương và bắt đầu được giao giữ các chức vụ chỉ huy cấp sư đoàn, quân đoàn, quân khu. Sau năm 1949 ông được giao giữ chức Thị trưởng Thượng hải, Phó Thủ tướng. Từ tháng 2/1958 ông là Bộ trưởng Ngoại giao, tháng 1/1966 là Phó Chủ tịch Quân ủy. Trong Cách mạng văn hóa, ông bị phê đấu rồi đưa về Thạch Gia Trang, năm 1971 ông mắc bệnh ung thư, được đưa về Bắc Kinh chữa trị và qua đời ngày 6/1/1972.
TinhHoa tổng hợ